Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Sự hình thành, phát triển đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng(19862016) và trách nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.87 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

BÁO CÁO TÓM TẮT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG,
BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA ĐẢNG (1986-2016) VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
SINH VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học xã hội nhân văn 2

Hà Nội, 3/2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

BÁO CÁO TÓM TẮT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO
VỆ TỔ QUỐC CỦA ĐẢNG (1986-2016) VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH
VIÊN TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học xã hội nhân văn 2

Sinh viên hoặc nhóm SV thực hiện: Lê Thị Lan Hương
Lê Thị Hường
Lớp, khoa: K65A, LLCT-GDCD
Ngành học: Giáo dục chính trị


Người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị Thanh Tùng

Hà Nội, 3/2017

Năm thứ: 2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm bài, chúng em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ mọi
người, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Thanh Tùng. Chúng em rất cảm ơn cô đã có những
hướng tận tình và kịp thời trong quá trình chúng em làm nghiên cứu.
Đồng thời chúng em cũng xin cảm ơn các thầy cô trong bộ phận thư viện nhà
trường và các thầy cô trong khoa LLCT – GDCD thuộc trường Đại học Sư phạm Hà
Nội đã tạo điều kiện cho nhóm chúng em tìm kiếm thông tin, tài liệu,…và hoàn thành
bài nghiên cứu này.
Tuy chúng em đã cố gắng làm thật tốt, nhưng cũng không thể tránh khỏi những
thiếu xót nhất định, nên chúng em rất mong muốn quý thầy cô góp ý chân thành để
chúng em hiểu biết hơn về quá trình hình thành phát triển đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam. Cùng với đó là sự nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề mang tính
quan trọng và những chiến lược, hướng đi mang tầm quốc gia của nước ta trong những
năm tới.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm tác giả
Lê Thị Lan Hương
Lê Thị Hường


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt
Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, bên cạnh đường lối xây dựng và phát triển
kinh tế- xã hội, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm
vụ sống còn trong quá trình lãnh đạo đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước…”.
Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là sự
nghiệp của Đảng và toàn dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được biểu hiện tập trung trong hai nhiệm
vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội Việt Nam chủ nghĩa. Nhận thức được vị trí, tầm quan
trọng của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn
khẳng định và chỉ đạo chặt chẽ công tác xây dựng toàn diện và bảo vệ vững chắc chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, chiến đấu
dũng cảm để dựng nước và giữ nước. Cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ vì độc lập, tự
do đã hun đúc nên truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên
nền văn hiến Việt Nam.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt nam ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử của
cách mạng Việt Nam. Kể từ đó đến nay, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã
giành được những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng tháng Tám (1945) thành công khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước đã đem lại độc lập tự
do và thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào sự nghiệp đổi mới và từng bước quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỉ XX, nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa có quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm

chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước vào thời kì đổi mới

5


công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc
đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.
Trên một chặng đường dài có bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của tình hình
trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại kẻ thù với bao khó khăn
thử thách có những lúc ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn
cập bến vinh quang. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn một điều không thể phủ
nhận, đó là sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam chưa một triều đại nào lại không có ngoại bang xâm lược. Thời Tiền Lê
và thời Lý chống quân Tống, thời Trần chống quân Nguyên-Mông, thời Hậu Lê chống
quân Minh, nhà Tây Sơn chống quân Thanh và thế kỷ XX là chống Pháp, chống Mỹ.
Sau đó đất nước ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới với quy mô lớn phía
Bắc chống quân Trung Quốc tràn sang, phía Tây Nam phải chống quân pôn pốt, thiên
tai lũ lụt lan tràn “Giặc bắc, giặc nam máu tràn biên giới, tay chống trời tay giữ đất
khom lưng”. Tuy đất nước đã giành được hòa bình và đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng
những xung đột sắc tộc, khủng bố, can thiệp vũ trang,.. vẫn diễn ra nhiều nơi trên thế
giới. Vì vậy nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một hướng chiến lược lâu dài của mọi quốc
gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh việc chỉ đạo chiến lược để xây dựng lực lượng cách mạng, chĩa mũi
nhọn đấu tranh vào đế quốc tay sai, giành độc lập, chính quyền cho nhân dân, Đảng
cũng có những chuyển hướng trong chủ trương đường lối và có sự đổi mới tư duy,
biện pháp để phát triển toàn diện mọi lĩnh vực.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách hệ thống, cơ bản

ban đầu quá trình tìm tòi khảo nghiệm và từng bước hoàn chỉnh đường lối xây dựng và
bảo vệ tổ quốc của Đảng. Qua đó có thể hiểu được sự đúng đắn và những giá trị lý
luận - thực tiễn của quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóaxã hội,...khẳng định sự tìm tòi, phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn từ khi Đảng
ra đời đến nay. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin, sự thống nhất trong toàn Đảng,

6


toàn dân về con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bác bỏ những luận
điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, rèn luyện để
có lập trường tư tưởng vững vàng, hăng hái chấp hành những chủ trương, chính sách
mới của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, nâng cao ý thức trách nhiệm công
dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Bên cạnh những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ thì họ cần phải có được sự
kiên định, vững chắc về lý tưởng cách mạng, về Đảng Cộng sản. Qua đó tránh được
những sự lệch chuẩn về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam những “người chủ tương lai của nước nhà”, nhằm nâng cao ý thức công dân, tinh thần
yêu nước trong hệ thế hệ trẻ Việt Nam mà nòng cốt là những học sinh, sinh viên đang
ngồi dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Từ đó sẽ tạo được lòng tin của thế hệ trẻ vào
Đảng Cộng sản Việt Nam, vào sự nghiệp cách mạng, phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi. Toàn
cầu hóa, khu vực hóa đã, đang và sẽ tạo ra nhiều thời cơ, thách thức cho tất cả các
quốc gia dân tộc. Đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân dân ta đã
chọn, hay thay đổi thể chế theo vòng xoáy của kinh tế thị trường, giao lưu trao đổi văn
hóa. Thêm vào đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước cũng luôn tìm cách nhòm
ngó, can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc, trong đó Việt Nam là

một tâm điểm. Đây thực sự là một vấn đề lớn, đã tác động không nhỏ tới một bộ phận
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, trong đó có học sinh, sinh viên.
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề đường lối xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều khía cạnh và góc nhìn khác nhau. Vì vậy trên tinh thần
tiếp thu, kế thừa có chọn lọc, nhóm tác giả chọn vấn đề “Sự hình thành, phát triển
đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng (1986-2016) và trách nhiệm của sinh
viên trong sự nghiệp bảo vệ đất nước hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Một là, đề tài này góp phần làm sáng tỏ lý luận cơ bản của công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của Đảng từ thời kì đổi mới đến nay. Qua đây góp phần cụ thể hóa

7


đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ hiện nay.
Hai là, nội dung nghiên cứu và những bài học được rút ra ở đề tài này là tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu những công trình tiếp theo về lĩnh vực giáo dục đường
lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đường lối xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam và trách
nhiệm của sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Quá trình hình thành, phát triển đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Đảng
là một đề tài rộng, do đó nhóm tác giả chọn thời gian và không gian đề cập là từ năm
1986 đến nay ở Việt Nam. Đây là thời kì Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện
nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở phương pháp luận

Đề tài thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và các quan điểm
có tính phương pháp luận của Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam làm cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển đường lối
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng thời kì đổi mới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so
sánh, quy nạp, diễn dịch, phê phán, xác minh tư liệu,…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham khảo, mục lục trong đề
tài này kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1: Chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng từ Đại hội VI
(1986) đến Đại hội XII (2016)
Chương 2: Kết quả, bài học kinh nghiệm và trách nhiệm của sinh viên đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng thời kì đổi mới (1986-2016)

8


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
CỦA ĐẢNG TỪ ĐẠI HỘI VI (1986) ĐẾN ĐẠI HỘI XII (2016)
1.1 Đảng với vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 1986-1995
1.1.1 Quan điểm Đại hội VI của Đảng (1986)
1.1.1.1 Bối cảnh lịch sử
Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã làm nên kì tích trong lịch sử giữ nước
của mình: Đánh thắng hai tên “hung nô” của thế kỷ, giải phóng dân tộc, thống nhất
non sông về một mối, đưa cả nước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, từ Đại hội VI đến Đại
hội XII, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc: quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong
lịch sử dân tộc đã chuyển thành quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn chặt với
bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng quy luật này, Đảng ta đã xác định rõ phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc là vấn đề cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày càng được Đảng ta nhận
thức rõ hơn, toàn diện hơn qua các kỳ Đại hội.
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân Việt Nam bắt tay xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Song do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan khác nhau, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta gặp nhiều
khó khăn, thậm chí lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội bị thách thức.
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình kinh tế-xã hội
ở nước ta cũng như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũng đang gặp nhiều khó khăn do
những khiếm khuyết của mô hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta chưa phát hiện để
khắc phục. Những biến động phức tạp xảy ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu cũng gây ra nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam.
Về mặt an ninh, quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ trên tuyến biên giới phía Bắc
và quần đảo Trường Sa của nước ta cũng thường xuyên bị xâm phạm.

9


Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi
Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam, Mỹ vẫn thực hiện chính sách cấm vận về kinh
tế đối với nước ta làm cho quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu với
nước ta bị thu hẹp.
Những khó khăn cả trong nước và quốc tế đòi hỏi Đảng ta phải bắt tay vào công
cuộc đổi mới đất nước. Thực tế đó đòi hỏi phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự

chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và như vậy
phải đổi mới tư duy.
Đại hội VI họp từ ngày 15 đến 18/2/1986 tại Hà Nội ( Đại hội nội bộ từ ngày 05
đến ngày 14/12/1986 ). Tham dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho 1,9 triệu đảng
viên cả nước và 32 đoàn đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế.
1.1.1.2 Chủ trương của Đảng
Đại hội đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước và bầu đồng chí
Nguyễn Văn Linh giữ cương vị Tổng Bí thư Đảng.
Đại hội nhận định 5 năm qua cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế
và trong nước có những thuận lợi nhưng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những
nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra nhân dân ta anh dũng chiến đấu, khắc
phục khó khăn vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và giành nhiều thắng lợi to lớn trong công cuộc chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thực, Đại hội đã đánh giá kết quả
thực hiện được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định những thành tựu
và chỉ ra các hạn chế của thời kỳ 1976- 1986, rút ra những bài học kinh nghiệm cơ bản
có ý nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở xác định phải quán triệt và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đại hội đã nêu lên đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, thể hiện tập trung ở một số vấn đề lớn như sau:
Về chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng
tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội” [18].

10



Về quan niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng coi đó là một quá trình
lâu dài, gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn kế tiếp nhau, mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục tiêu,
bước đi, quy mô, tốc độ, biện pháp thích hợp, khác nhau, từ thấp đến cao, không được
nôn nóng duy ý chí đốt cháy giai đoạn mà phải theo đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Theo tư duy đó, Đại hội xác định nước ta đang ở chặng
đường đầu, giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ.
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định
mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Ổn định tình
hình kinh tế-xã hội bao gồm cả thiết lập trật tự, kỷ cương và thực hiện công bằng xã
hội, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh” [18]
Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại,
hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội” [10;tr.30-31]
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị. Đại hội nhấn mạnh:
Thứ nhất, phải tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước. Phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, xây dựng quân đội nhân dân chính quy và ngày càng hiện đại; xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện
nghiêm chỉnh Luật nghĩa vụ quân sự và các chính sách hậu phương quân đội. Tăng
cường tổ chức bảo vệ chủ quyền và giữ vững các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển
và hải đảo; xây dựng và củng cố bộ đội biên phòng vững mạnh. Chăm lo đời sống tinh
thần và vật chất của bộ đội, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa quân và dân”.
Thứ hai, công cuộc bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cần
được tiến hành bằng sức của mọi lực lượng, bằng mọi phương tiện cần thiết, trong
từng địa bàn, ở tất cả mọi đơn vị. “Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch,

vững mạnh, có cơ sở vững chắc trong quần chúng, có trình độ nghiệp vụ ngày càng
cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân. Tổ chức phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc,.. Ngăn ngừa và trừng trị những hành động phá hoại về kinh tế
chính trị, tư tưởng, văn hóa và các hoạt động tình báo, gián điệp của địch”.

11


Thứ ba, quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Từng bước phá thế bao vây về
kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ tư, phát huy vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng, thể chế hóa đường lối
chính sách của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Các cấp ủy đảng, các
cấp chính quyền phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của mình.
Thứ năm, Đại hội chú trọng chính sách đối ngoại nhằm góp phần giữ vững hòa
bình ở Đông Dương, Đông Nam á và trên thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng
cường tình hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bình
thường quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông
Nam Á và trên thế giới.
Những điểm nêu trên chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đề ra tại Đại hội VI là đúng, bước đi cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở quan
trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên trong những năm tiếp theo .
Đại hội lần thứ VI biểu thị quyết tâm của Đảng giương cao ngọn cờ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tiến bước theo con đường do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra, động viên toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu hết sức mình vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VI có ý nghĩa lịch sử trọng đại, là “Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi
mới, đoàn kết tiến lên của Đảng”, mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ của
cách mạng nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về lý luận và thực tiễn của Đảng trong

sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.
1.1.2 Quan điểm Đại hội VII của Đảng (1991)
1.1.2.1 Bối cảnh lịch sử
Đại hội VII đã diễn ra trong bối cảnh phạm vi thế giới đang xảy ra cuộc tấn
công quyết liệt của các thế lực đế quốc phản động vào các lực lượng hòa bình, độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội, nhằm tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn
thâm độc. Cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống các nước Đông Âu dẫn đến sự
sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đứng
trước những thử thách lớn, tác động mạnh mẽ đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc ở Việt Nam.

12


Sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cơ bản được hình thành, tình hình
kinh tế- xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến đáng kể song chưa thoát khỏi khủng
hoảng. Trong bối cảnh đó Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp từ ngày 24 đến
ngày 27/6/1991 tại Hà Nội, tham dự Đại hội có 1176 đại biểu, cùng một số đại biểu
quốc tế.
1.1.2.2 Chủ trương của Đảng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ được thông qua tại Đại hội
VII tiếp tục nhấn mạnh: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó
là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
của chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân
tộc” [11;tr.10].
Nội dung cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Cương lĩnh xác định: “Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự

nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
Đại hội đã tổng kết cách mạng Việt Nam và chỉ ra 5 bài học kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Ba là,
không ngừng củng cố tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoan kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; Năm là, sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh đã trình bày khái quát những biến
đổi to lớn và sâu sắc của tình hình quốc tế tác động đến cách mạng nước ta, nêu lên
quan niệm của Đảng về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội gồm
6 đặc trưng cơ bản: Một là, do nhân dân lao động làm chủ; Hai là, có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu; Ba là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc;
Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

13


toàn diện cá nhân; Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; Sáu là, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới.
Cương lĩnh vạch ra 7 phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc: Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân; Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại, phát triển một nền nông nghiệp toàn diện; Ba là, thiết lập quan hệ sản
xuất từ thấp đến cao, đa dạng về hình thức sở hữu và phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất; Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa; Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc; Sáu là, xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của Việt Nam;
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Để cụ thể hơn vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ ngày 18 đến ngày
29/6/1992, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiên cứu và
quyết định ba vấn đề quan trọng về: “tình hình thế giới và chính sách đối ngoại; củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng” [2; tr.317]
Củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng
nòng cốt. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng" [2; tr.10]. Cương lĩnh coi đó là một
trong những phương hướng cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa
quan trọng với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Công tác đối ngoại giữ vị trí quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng chủ trương “mở rộng đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học- kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,..” [2; tr.318]
Hội nghị nêu rõ trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII phải thúc
đẩy nhanh hơn nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển

14


kinh tế- xã hội đến năm 2000, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh và đề ra những nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu
chiến lược đó.
Từ ngày 20 đến ngày 25/01/1994 tại Hà Nội, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa

nhiệm kỳ khóa VII đã họp và chỉ rõ công cuộc đổi mới đang đứng trước những 4 thách
thức lớn là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan
liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị lần thứ 8/VII
(1/1995) bàn thảo và ra nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Sau Đại hội VII, tình hình thế giới đặc biệt là hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có
những diễn biến phức tạp, song Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
củng cố an ninh quốc phòng, đa dạng quan hệ đối ngoại, từng bước phá thế bao vây,
cấm vận. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, nhiều vấn đề mới nảy sinh. Đó
cũng là những vấn đề mà Đảng phải nỗ lực hơn trong các nhiệm kỳ tiếp theo .
Nhìn lại chặng đường mười năm đầu đổi mới (1986- 1995) với sự nỗ lực không
ngừng của toàn Đảng, toàn dân, bộ mặt đất nước ta có nhiều chuyển biến tích cực: Đời
sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, giữ vững ổn định chính trị và
an ninh quốc phòng, tạo lập môi trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc đổi mới;
Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc
tế, nâng cao vị trí của nước ta trên thế giới.
Từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới mười năm đã qua cho thấy con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

15


1.2 Đảng với vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 1996-2005
1.2.1. Quan điểm của Đại hội VIII của Đảng (1996)
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Trong những năm cuối của thế kỷ XIX tình hình thế giới và trong nước có
nhiều chuyển biến phức tạp. Liên Xô tan rã và chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào, cách
mạng khoa học công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao, Mỹ đã bình thường

hóa quan hệ với Việt Nam và rút lệnh cấm vận, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế là cơ sở nền tảng để nước ta bước sang một thời kì mới – thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bối cảnh quốc tế trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội VIII họp từ ngày
28/6 đến ngày 1/7/1996 tại Hà Nội, dự Đại hội gồm 1198 đại biểu trong nước và 41 đại
biểu quốc tế.
1.2.1.2 Chủ trương của Đảng
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ngày càng được xác định rõ hơn.
Đại hội tiếp tục khẳng định: giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội Đại hội nhấn mạnh: phải bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ nhân dân,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nêu rõ: “Xây dựng vững chắc thế trận
quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư
tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt
động chống phá ta” [12;tr.119]. Quan điểm này của Đảng đề cập chủ yếu đến phương
thức đấu tranh vũ trang trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội xác định nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh trong những năm tới là: tăng
cường quốc phòng an ninh, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống
chính trị; từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây
dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền
an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ
trang; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị

16



xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần
thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển” [12;tr.120-121].
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
các quan điểm: xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy
liên minh công nông và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thực hiện Nghị quyết VIII của Đảng, từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng, Nhà
nước và nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng: nền quốc phòng và an ninh
được tăng cường, các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên
giới, biển đảo được phát huy. Tổ chức quân đội và công an nhân dân được điều chỉnh
theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công
tác đối ngoại có tiến bộ. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh
tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt. Sức mạnh về mọi
mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 15 năm trước.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới- thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, dân
chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đại
hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc
chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
1.2.2. Quan điểm Đại hội IX của Đảng ( 2001)
1.2.2.1. Bối cảnh lịch sử
Nhân loại bước vào năm đầu của thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công

nghệ, kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Đất nước trải qua 15
năm đổi mới, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ, cơ hội lớn, vừa phải đối mặt
với nguy cơ, thách thức mới. Tình hình thế giới và khu vực đã tác động trực tiếp đến

17


sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới rất quan trọng,
đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức nghiêm trọng đối với nước ta. Với
tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được triệu tập từ ngày 19 đến ngày
22-4-2001 tại Hà Nội.
1.2.2.2. Chủ chương của Đảng
Đại hội toàn quốc lần IX tiếp tục khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [13;tr.19]
Tại Đại hội IX quan điểm lý luận về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc của Đại hội VIII
được khẳng định và bổ sung phát triển thêm: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc, giữ vững ổn định chính
trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đây, chúng ta có quan điểm cho rằng bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vùng trời,
vùng biển, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, trong thực tế thời kỳ phong kiến
việc bảo vệ Tổ quốc chủ yếu cũng chỉ quan tâm tới các vấn đề như vậy.
Do nhận thức không đầy đủ về chiến lược bảo vệ tổ quốc, nên nhiều triều đại
phong kiến chỉ quan tâm tới việc tuyển quân, tăng cường tiềm lực quân sự để bảo vệ
lãnh thổ, ít quan tâm tới việc giữ gìn và phát triển văn hoá, phát triển kinh tế - xã hội
và dân sinh, nên mỗi triều đại chỉ được một hai thế hệ ban đầu rồi lại sinh biến, nhân
dân lầm than cực khổ, thế nước yếu dần rồi lại bị các thế lực nước ngoài xâm lược.
Hiện nay, chúng ta nhận thức lại đúng đắn hơn, toàn diện hơn về vấn đề xây

dựng, bảo vệ Tổ quốc, không chỉ là bảo vệ vùng trời, vùng biển, sự thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ mà hiện nay bảo vệ Tổ quốc còn gồm nhiều nội dung trên tất cả mọi mặt.
Tháng 3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và
thông qua Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ
trọng yếu và thường xuyên của Đảng, nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội
nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi
mới, Đại hội đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong
cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành

18


“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [13;tr.119]. Với phương châm này, lần đầu
tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây dựng quan hệ đối tác” trong đường lối đối ngoại.
Đây là điều có ý nghĩa quan trọng, bởi mô hình quan hệ đối tác chiến lược được coi là
mô hình hợp tác ở mức độ cao và quan trọng hơn so với hợp tác quốc tế thông thường.
Phát triển những quan điểm về quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong
các Đại hội trước, đặc biệt là để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã ra Nghị
quyết Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Sự phát triển quan điểm lý luận về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có tính
đột phá và mang tính toàn diện hơn trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX – Hội
nghị bàn về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, khái quát thành 6 quan
điểm chỉ đạo, đó là: giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã
hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi
thuận lợi ở bên ngoài; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Hội nghị xác định ba phương châm cần phải nắm vững trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: Một là, kiên định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với
sự vận dụng linh hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước
và dư luận quốc tế, cô lập, phân hoá các phần tử chống đối; Hai là, đối với nội bộ, lấy
việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính, đi đôi với giữ gìn
kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm. Đối với các thế lực chống đối ở
trong nước, cần phân hoá, cô lập và xử lý nghiêm minh; Ba là, thường xuyên đi sát cơ
sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm mống gây mất an ninh, không để bị
động, bất ngờ.
Đảng ta luôn coi trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an
ninh nhân dân trên phạm vi quốc gia cũng như trên từng địa bàn. Nghị quyết Trung
ương 8, khóa IX đã chỉ rõ: “Củng cố và hoàn thiện nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng

19


địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực
phòng thủ vững chắc” [1;tr.56].
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX diễn ra trong
bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp. Những vấn đề đặt ra trong chương
trình Hội nghị đều có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa mang tính thời sự trước mắt vừa
có tầm chiến lược lâu dài, đặc biệt“Chiến lược bảovệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Do vậy, việc đưa Nghị quyết Hội nghị vào thực thi trong đời sống xã hội sẽ góp phần
quan trọng cho công cuộc xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua gần hai mươi năm đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã đạt được một số thắng
lợi trong chính sách quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị-xã hội được giữ vững, quan
hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị thế của nước ta tiếp tục được nâng cao trên
trường quốc tế.
1.3. Đảng với vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 2006- 2016
1.3.1. Quan điểm Đại hội X của Đảng ( 2006 )
1.3.1.1.Bối cảnh lịch sử
Sau quá trình thực hiện Nghị quyết xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà Đại hội IX
đề ra, Đảng và nhà nước ta đạt nhiều thắng lợi trên các mặt an ninh, quốc phòng, đối
ngoại... Phát triển tiếp con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội lần thứ X đã
họp và tiếp tục phát triển những chủ chương chính sách mới phù hợp với thực tiễn đất
nước. Đại hội họp từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006 tại Hà Nội, dự Đại hội có 1.176 đại
biểu, thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
1.3.2.2. Chủ trương của Đảng
Nhìn lại 20 năm phát triển đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội X
của Đảng đã rút ra năm bài học lớn của cách mạng nước ta trong đó bài học thứ nhất
khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [14;tr.75]
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đại hội
IX và chỉ rõ “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội”- một quan điểm
an ninh toàn diện được thể hiện sâu sắc trong quan điểm của Đảng ta về bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Tại Đại hội X Đảng đã nhấn mạnh thêm mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc:
“Bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá an ninh xã hội;

20



không để bị động, bất ngờ” [14;tr.109]; chỉ ra quan điểm nâng cao khả năng “tự bảo
vệ”. Nghị quyết của Đảng khẳng định: “Coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị
nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị”
[14;tr.109-110]. Như vậy, từ giai đoạn 1986-1991 đến nay nhận thức của Đảng ta về
mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều phát triển so với Cương lĩnh 199 1, ngày
càng nhấn mạnh đến tính chất toàn diện, thống nhất, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa
hai mặt tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ Tổ quốc . Theo tinh thần đó,
Đảng ta đã nhấn mạnh trong Đại hội X, cùng với việc “Chú trọng giáo dục thống nhất
nhận thức về đối tượng và đối tác”, chúng ta phải “giữ an ninh nội địa; giải quyết kịp
thời các mâu thuẩn, tranh chấp trong nhân dân”
Đại hội đã đề ra mục tiêu bảo vệ tổ quốc trong những năm tiếp theo là: “Giữ
vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối
ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”. Đồng thời
chủ động hội nhập kinh tế sâu rộng hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả
các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các
lĩnh vực khác.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân và cả hệ
thống chính trị, trong đó, Quân đội và Công an là lực lượng nòng cốt; phương thức bảo
vệ Tổ quốc là kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh - đối ngoại, phát triển
đường lối nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Đảng ta xác định xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kì mới phải tăng cường tiềm lực
quốc phòng, an ninh, chủ động trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị
và trật tự, an toàn xã hội.
Đánh giá thành tựu của công cuộc đổi mới (1986 - 2006). Đại hội đã chỉnh sửa
6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII nêu ra và bổ sung thêm 2 đặc trưng

mới là: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; và có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản” [14;tr.67-68]. Như vậy, Đảng ta nhận định chủ nghĩa xã hội sẽ có 8
đặc trưng thay vì 6 đặc trưng như trước.

21


Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội làm rõ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh cuộc khủng hoảng và
suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động lớn đến Việt Nam khi đất nước đang hội nhập
sâu rộng. Với những thành tựu đã đạt được, “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản” [14;tr.68].
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đã trải qua 20 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ
xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao.. đã tạo ra thế và lực mới cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kì mới. Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi, thời cơ đó, sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng đứng trước tác động từ những khó khăn,
thách thức mới.
1.3.2. Quan điểm Đại hội XI của Đảng (2011)
1.3.2.1. Bối cảnh lịch sử
Sau kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, toàn Đảng, toàn dân đã nỗ lực
không ngừng nhằm tiến hành thực hiện tốt những phương hướng, nhiệm vụ về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà Đại hội cùng các Hội nghị trong nhiệm
kỳ thống nhất đề ra và đạt được những thành quả nhất định. Đại hội XI họp khi nước
ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, Thủ đô Hà Nội vừa kỉ niệm 1000 năm tuổi. Đại

hội họp tại Hà Nội từ ngày 11đến ngày 19/1/2011 là Đại hội mở đầu thập kỷ thứ hai
của thế kỷ XXI.
Ở thời điểm Đại hội XI, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đi qua một chặng
đường 25 năm, vừa tròn 1/4 thế kỷ, đất nước, con người và xã hội Việt Nam đã có
những biến đổi vô cùng to lớn qua 25 đổi mới, đã đạt được những thành tựu quan
trọng, có ý nghĩa lịch sử.
1.3.2.2. Chủ trương của Đảng
Với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI, Đại hội XI của Đảng đã có những nhận định
đánh giá khái quát hết sức cô đọng và chỉ rõ quy luật phát triển của thời đại ngày nay
là: loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Khái quát lại
mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốcViệt Nam xã hội chủ nghĩa theo hai nội dung, hai

22


mặt thống nhất quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời: mặt tự nhiên – lịch sử
và mặt chính trị - xã hội, để bảo đảm rõ hơn, chuẩn xác và toàn diện hơn.
Theo đó, Đại hội nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: Bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền
biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ
vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi
âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước tác động
từ những khó khăn, thách thức như: hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang trong
tình trạng khủng khoảng; nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch; sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường; đặc
biệt là sự suy giảm lòng tin của một bộ phận nhân dân với Đảng, với chế độ. Điều đó
đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ không chỉ đối với bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của đất

nước mà còn đối với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh bổ sung phát triển năm 2011 được Đại hội thông qua đã xác định
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 8 đặc trưng: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [15;tr.70]
Đảng ta đã thực hiện nhất quán và thành công “đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [15;tr.83-84]. Nhận thức về mô hình xã hội

23


xã hội chủ nghĩa và con đường phát triển đất nước ngày càng rõ hơn, có cơ sở khoa
học và hiện thực.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần
thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy”
(Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm
từ là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước
trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động,
có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và
toàn cầu, góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội tiếp tục xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Quốc phòng an ninh là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong
quá trình đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt khi tình hình khu vực có nhiều
biến động phức tạp, sự tranh chấp diễn ra trên biển Đông ngày càng gay gắt, chủ
quyền biển đảo của Việt Nam bị xâm phạm; “An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền
quốc gia đứng trước nhiều thách thức” [15;tr.73]. đòi hỏi cần phải tăng cường hơn nữa
công tác quốc phòng an ninh. Chủ trương của Đảng về vấn đề này thể hiện rất rõ trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị lần
thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành “Nghị quyết về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Đại hội XI của Đảng căn cứ vào tình hình biến đổi hiện nay, Trung Quốc công
khai lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa và các hoạt động trái phép tại quần đảo Trường Sa,
thực hiện lấn chiếm biên giới nên đã thêm vào một nội dung đó là cần phải bảo vệ chủ
quyền biển đảo. Và thực tế, để khẳng định chủ quyền và nâng cao ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, ngày 21 tháng 6 năm 2012 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Biển Việt Nam với 7
chương 55 điều và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Hay việc sẽ xử lý nếu in
ấn bản đồ mà thiếu các quần đảo trên.
Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng thế trận lòng dân vững
chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”[15;tr.234].
Đồng thời cũng phải kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh. Như khi
phát triển kinh tế, xây dựng các khu kinh tế, các công ty, sân bay, cảng biển, hệ thống
kênh mương cũng phải chú ý, khi mà chiến tranh xảy ra thì có thể sử dụng được vào

24


mục đích của quốc phòng. Việc xây dựng các con đường chiến lược như đường Hồ

Chí Minh là vừa để phát triểt kinh tế, vừa phục vụ cho quốc phòng ở phía Tây dải đất
hình chữ S. Hay đường Láng – Hòa Lạc rất to, rộng dài, thẳng có thể chuyển làm sân
bay ngay khi cần thiết.
Quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam mà Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng đã xác định là yêu cầu hàng đầu đối với các tổ chức trong hệ
thống chính trị và mỗi người dân Việt Nam. Quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện
cần chú ý một số vấn đề sau đây:
Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ thì xây dựng được xác
định là cơ sở của bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, xây dựng là “phương thức hữu
hiệu nhất” để bảo vệ; theo đó, xây dựng đất nước phát triển bền vững, khắc phục
những yếu kém, suy thoái, chệch hướng, tụt hậu là tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ.
Bảo vệ được xem là tạo ra môi trường ổn định, tạo điều kiện cho xây dựng đất nước
phát triển nhanh và bền vững, trong bảo vệ có xây dựng, bảo vệ trong quá trình xây
dựng; lực lượng bảo vệ cũng là lực lượng tham gia xây dựng. Quan điểm của Đảng thể
hiện rõ mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là mối quan hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ, khăng khít với nhau, tạo điều kiện
cho nhau, không thể tách rời và cần phải kết hợp chặt chẽ.
Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, không có nghĩa là coi nhiệm vụ
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là thứ yếu; xác định bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng
yếu thường xuyên”, không có nghĩa là không tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước.
Hai là, xác định rõ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, của toàn dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: sự
nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng của Người đã được thực tiễn
cách mạng Việt Nam khẳng định với quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước để phát huy được sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay

rất nặng nề, do vậy, đòi hỏi phải phát huy được trách nhiệm của toàn dân trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phát huy trách nhiệm của toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước hết là phát huy được các nguồn lực trong dân

25


×