Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI NGỌC LÊ DƠN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Duyên Thủy

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật Kinh tế
đã truyền thụ kiến thức cũng như tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu chương trình sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng viênTS. Vũ Thị Duyên Thủy, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn
thành Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!



Hà Nội, ngày 01 tháng 08 năm 2016
Học viên

BÙI NGỌC LÊ DƠN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp” là do bản thân tự thực hiện và không sao chép các công trình nghiên
cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Những nội dung trong luận
văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Vũ Thị
Duyên Thủy. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được trích
dẫn và nêu rõ nguồn trong phần tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về tính xác thực và nguyên bản của luận văn này.

Hà Nội, ngày 01 tháng 08 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

Học viên

BÙI NGỌC LÊ DƠN


BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BVMT

: Bảo vệ môi trường

CTNH

: Chất thải nguy hại

CTRCNTT

: Chất thải rắn công nghiệp thông thường

ĐMC

: Đánh giá môi trường chiến lược

ĐTM

: Đánh giá tác động môi trường

KCN


: Khu công nghiệp

KCNST

: Khu công nghiệp sinh thái

Luật BVMT : Luật Bảo vệ môi trường
SXTDBV

: Sản xuất và tiêu dùng bền vững

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TP. HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH
VỰC CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP ....................................................... 7
1.1 KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHIỆP.......................................................................................... 7
1.1.1 Lĩnh vực công nghiệp và những ảnh hưởng đến môi trường ............ 7
1.1.2 Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp .............................. 10
1.2 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP .................................................................... 16
1.2.1 Khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
............................................................................................................... 16
1.2.2 Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
............................................................................................................... 19
1.2.3 Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp ............................................................................................ 24
1.2.4 Kinh nghiệm nhìn từ pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp của một số nước trong khu vực........................................... 27
Kết luận Chương 1 .................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ...... 34
2.1 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG XÂY
DỰNG CHIẾN LƯỢC, QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP .................................................................................................... 34
2.1.1 Yêu cầu về việc lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công
nghiệp .................................................................................................... 34


2.1.2 Yêu cầu về việc thực hiện đánh giá môi trường chiến lược trong lĩnh
vực công nghiệp, thực hiện lập quy hoạch xây dựng khu/cụm công nghiệp
............................................................................................................... 37
2.2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC
KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP ................................................................... 43
2.2.1


Thực trạng pháp luật trong thiết kế, xây dựng hạ tầng kỹ thuật

bảo vệ môi trường khu/cụm công nghiệp ................................................ 43
2.2.2 Thực trạng pháp luật về quản lý chất thải tại các khu/cụm công
nghiệp .................................................................................................... 46
2.2.3 Thực trạng pháp luật về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi
trường tại khu/cụm công nghiệp ............................................................. 55
2.3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC CƠ
SỞ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP ............................................................. 59
2.3.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn chuẩn
bị đầu tư xây dựng và giai đoạn thi công, vận hành thử nghiệm dự án đầu
tư công nghiệp........................................................................................ 60
2.3.2. Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hoạt
động của dự án đầu tư công nghiệp........................................................ 61
2.4 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP ............ 68
2.4.1 Các quy định pháp luật về xử lý hành vi phạm tội trong lĩnh vực
công nghiệp ............................................................................................ 69
2.4.2 Các quy định về xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
công nghiệp ............................................................................................ 70
2.4.3 Các quy định về xử lý hành vi vi phạm dân sự trong lĩnh vực công
nghiệp .................................................................................................... 71
Kết luận Chương 2 .................................................................................... 75
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ......................................................................... 77


3.1 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP .................................... 77

3.1.1 Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
phải đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, sản xuất và tiêu dùng theo
hướng thân thiện với môi trường ............................................................ 77
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
phải đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường và hệ thống
pháp luật kết hợp với việc củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức bảo vệ
môi trường ............................................................................................. 79
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế và hợp tác quốc tế trong bảo
vệ môi trường.......................................................................................... 79
3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP......................... 80
3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam
trong xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp 80
3.2.2 Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong khu,
cụm công nghiệp .................................................................................... 85
3.2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ môi trường tại các cơ sở
sản xuất công nghiệp .............................................................................. 89
3.2.4 Hoàn thiện các quy định xử lý vi phạm pháp luật môi trường trong
lĩnh vực công nghiệp .............................................................................. 94
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 98
KẾT LUẬN ............................................................................................... 100


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 9/6/2014, Thủ tướng CP đã ký quyết định số 879/QĐ-TTg phê duyệt chiến
lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2035. Trong đó

liên quan đến môi trường thì quan điểm phát triển đã nêu rõ: phát triển công nghiệp
trên cơ sở tăng trưởng xanh, phát triển bền vững bảo vệ môi trường.
Nước nào cũng vậy, phát triển công nghiệp thường kèm theo nguy cơ gây ra ô
nhiễm môi trường. Nếu không quan tâm phòng, chống ngay từ đầu thì hiểm họa sẽ
khôn lường. Trên thực tế đã có những quốc gia phát triển công nghiệp quá nhanh đã
phải trả giá đắt cho vấn đề này. Quá trình công nghiệp hóa thường kèm theo tốc độ
đô thị hóa nhanh, mức độ phát thải lớn, tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng
tăng đến mức tối đa và kết cục là môi trường bị hủy hoại do ô nhiễm mạnh, tài
nguyên thì cạn kiệt ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và đe dọa toàn bộ hệ sinh
thái. Sau gần 30 năm đổi mới, công nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng trung
bình trên 10%/năm, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Song, công nghiệp cũng là một những ngành tạo ra nhiều chất thải nhất, ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái. Những ngành công nghiệp có mức độ gây
ô nhiễm cao như khai thác than và khoáng sản; công nghiệp sản xuất điện; công
nghiệp hóa chất; công nghiệp luyện kim; công nghiệp thực phẩm, dệt may, da
giầy… khiến cho Nhà nước và Chính phủ phải đặt ra những bài toán kèm theo lời
giải mang tính hiệu quả cao. Chính sách cho bảo vệ môi trường trong quá trình công
nghiệp hóa hiện nay thực sự là một vấn đề hết sức cấp thiết và đòi hỏi những chính
sách đó phải vừa đảm bảo cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được
thành công vừa đảm bảo cho môi trường sinh thái đạt ngưỡng an toàn.
Song song với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chúng ta đang phải chịu
những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần
được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân


2
thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn
kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc

biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết
kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Cụ
thể hóa các định hướng nêu trên, hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói chung,
pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp nói riêng đã từng bước
được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cho các hoạt động bảo vệ
môi trường trong lĩnh vực công nghiệp ở nước ta còn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa
đáp ứng các đòi hỏi mà thực tiễn đang và sẽ đặt ra trong tiến trình phát triển bền
vững của đất nước. Việc nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện hệ thống các quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp để đưa ra những
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó đáp
ứng yêu cầu cấp thiết với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Xuất phát từ tình hình nói trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực công nghiệp” làm luận văn thạc sĩ luật học, với mong muốn
góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực công nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ môi trường là một lĩnh vực rộng được Đảng và Nhà
nước và đặc biệt là các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận đặc biệt
quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tuy nhiên, số lượng tác
giả nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp chưa nhiều,
chủ yếu là một số bài viết đơn lẻ đăng trên tạp chí chuyên ngành hoặc luận văn liên
quan đến một khía cạnh của pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp. Các công trình nghiên cứu của các cá nhân, tập thể được công bố liên quan
đến đề tài có thể kể đến như:
- Lưu Đức Hải – Nguyễn Ngọc Sinh (2001), “Quản lý môi trường cho sự phát triển
bền vững”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội;


3

- Luyện Thị Thùy Nhung (2013), “Pháp luật bảo vệ môi trường tại các khu công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học;
- T.S Vũ Thị Duyên Thủy (2011), “Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường
trong hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Tạp Chí Luật học số
9/2011;
- Lê Thành Quân – Phó vụ trưởng Vụ quản lý các khu kinh tế - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, “Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường Khu công nghiệp – Đôi điều
cần bàn”, bài viết
Các công trình trên đã đưa ra được nhiều giải pháp để phát triển khu công
nghiệp – chỉ là một khía cạnh pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp, tuy nhiên chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện
các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp cũng như những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Vì vậy,
luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu về pháp luật bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực công nghiệp một cách toàn diện, có hệ thống góp phần đánh giá thực trạng
và đề xuất các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực công nghiệp.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn
thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
trong thời gian qua, qua đó đề ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện hệ
thống pháp luật môi trường nói chung, pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp nói riêng nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu thực tế đang đặt ra trong tiến
trình phát triển bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu khái quát về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp và pháp
luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh
vực công nghiệp để tìm ra những tồn tại, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực
thi, công tác quản lý, cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật trong lĩnh vực công nghiệp.



4
- Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp
luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp nói riêng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
5.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn chỉ nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực công nghiệp.
5.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp là một vấn đề rộng, do đó luận
văn không thể đề cập hết các khía cạnh của vấn đề này mà chỉ tập trung nghiên cứu
các vấn đề lý luận và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam về bảo vệ
môi trường trong lĩnh vực công nghiệp trên bốn khía cạnh sau: một là, pháp luật về
bảo vệ môi trường trong xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công
nghiệp; hai là, pháp luật bảo vệ môi trường tại các khu/cụm công nghiệp; ba là,
pháp luật bảo vệ môi trường tại các cơ sở công nghiệp; bốn là, xử lý vi phạm pháp
luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp. Qua quá trình phân tích nội
dung có lồng ghép thực trạng việc áp dụng pháp luật trên thực tế để đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đã sử dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền
vững, chủ trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực công nghiệp. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là:
phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp, chứng minh… để triển khai thực hiện trong
đề tài.
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương, mục của luận văn để
thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài.

- Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu ở chương 2, so sánh các quy định
của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp ở các giai
đoạn khác nhau.


5
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra những
kết luận của từng chương và kết luận chung của luận văn.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận điểm, các nhận
định về thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp ở chương 2 của luận văn.
7. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học pháp lý như: Phân tích, đưa
ra khái niệm về pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp; Phân tích
quy định pháp luật và thực trạng pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp; Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thực thi pháp luật bảo vệ
môi trường trong lĩnh vực công nghiệp.
- Luận văn đánh giá thực trạng góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm, nghĩa
vụ của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường, các chủ thể khi tiến
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp. Luận văn
góp phần khẳng định yêu cầu thực tiễn phải thực hiện pháp luật về bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực công nghiệp có hiệu quả để đảm bảo sự hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế - xã hội với sự cân bằng môi trường sinh thái nhằm phục vụ mục tiêu
phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
-

Là tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp bảo đảm


thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp cũng như
nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật.
9. Kết cấu luận văn
Ngoài Lời mở đầu, phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp và pháp
luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp


6
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp tại Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường trong lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam.


7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP

1.1 KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC CÔNG
NGHIỆP
1.1.1 Lĩnh vực công nghiệp và những ảnh hưởng đến môi trường
1.1.1.1 Lĩnh vực công nghiệp
Công nghiệp là bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất
mà sản phẩm được chế tạo, chế biến cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động
kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ
trợ, thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học và kĩ thuật.

Hoạt động công nghiệp rất đa dạng nên hiện có nhiều cách phân loại hoạt động
công nghiệp. Căn cứ vào mức độ tập trung vốn và tập trung lao động, hoạt động
công nghiệp bao gồm công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Căn cứ theo sản phẩm
và ngành nghề, hoạt động công nghiệp gồm: công nghiệp khai thác khoáng sản,
công nghiệp năng lượng, công nghiệp luyện kim, công nghiệp cơ khí, công nghiệp
hóa chất, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, công
nghiệp điện tử-tin học, công nghiệp chế tạo xe, công nghiệp dệt may, công nghiệp
đóng tàu… Nếu phân loại theo cấp quản lí thì hoạt động công nghiệp bao gồm công
nghiệp địa phương và công nghiệp trung ương1.
Hiện nay, theo quy định của Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11
năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của Bộ Công thương thì Bộ này được giao cho chức năng quản lý nhà nước về công
nghiệp và thương mại, trong đó lĩnh vực công nghiệp mà bộ này quản lý (có thể
hiểu lĩnh vực công nghiệp hiện nay) bao gồm các ngành và lĩnh vực sau: cơ khí,
luyện kim, điện, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, dầu khí, hóa chất, vật liệu nổ
công nghiệp, công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, công nghiệp tiêu
1

Đại học Luật Hà Nội (2013), Tập bài giảng Pháp luật môi trường trong kinh doanh, Tập bài giảng, Nhà
xuất bản Tư pháp, tr.107.


8
dùng, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến khác. Theo báo cáo thực
hiện chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững, Bộ Công thương đã khái quát về
lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam giai đoạn hiện nay như sau: Về sản xuất công
nghiệp, mặc dù duy trì tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, tuy nhiên mô hình phát
triển vẫn chủ yếu dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất theo chiều rộng
mà chưa đề cao yếu tố về hiệu quả. Cơ cấu ngành công nghiệp trong GDP có
chuyển biến nhưng còn chậm, trong đó, cơ cấu ngành công nghiệp khai khoáng

trong GDP có xu hướng tăng trong khi ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong
GDP giảm, cụ thể: Cơ cấu ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP toàn ngành
công nghiệp trong giai đoạn 2011-2015 tăng từ 10,3% năm 2011 lên 11,4% năm
2015; Cơ cấu ngành công nghiệp chế biến trong GDP toàn ngành giảm từ 18% năm
2011 xuống 17,8% vào năm 2015. Nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến - chế tạo
(điện thoại, điện tử, dệt may, giày dép...) chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, song
hầu hết là gia công và lắp ráp, do vậy giá trị gia tăng thấp. Sản phẩm công nghiệp đã
đáp ứng phần lớn tiêu dùng trong nước tuy nhiên, khả năng cạnh tranh đối với các
sản phẩm nhập khẩu cũng như trên thị trường thế giới còn hạn chế. Các sản phẩm
thô, gia công chế biến với giá trị gia tăng thấp còn chiếm tỷ trong lớn. Các doanh
nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa vẫn chiếm phần lớn với trình độ công nghệ sản
xuất tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn vào loại thấp so với thế giới và khu vực.
Tốc độ đổi mới công nghệ còn thấp, không đồng đều và không theo một định hướng
phát triển rõ rệt. Công nghệ tiên tiến và hiện đại tập trung chủ yếu ở các liên doanh,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu
công nghiệp. Ý thức trong việc thực thi các yêu cầu và giải pháp nhằm hạn chế tác
động tới môi trường từ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập,
gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sinh thái và chất lượng cuộc
sống của cộng đồng2.
2

Bộ Công thương, (2016), Báo cáo thực hiện chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững, được phê duyệt
theo Quyết định số 76/QĐ-TTCP của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình hành động Quốc gia
về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ngày 11/01/2016, tại địa chỉ:
/>_14736_14736.strutsAction=ViewDetailAction.do&_piref33_14737_33_14736_14736.docid=4083&_piref3
3_14737_33_14736_14736.substract=, truy cập ngày 15/05/2016


9
1.1.1.2 Những hậu quả mà hoạt động công nghiệp tác động đến môi trường

Thứ nhất, con người khi tiến hành hoạt động sản xuất công nghiệp đã khai thác
và sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, gây nên khủng hoảng sinh thái cục bộ.
Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vật chất từ dạng vật chất tự nhiên
thành dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau, là các loại sản phẩm đáp ứng nhu
cầu con người. Nguồn tài nguyên khai thác được trong môi trường tự nhiên sử dụng
trong sản xuất được biến đổi thành sản phẩm công nghiệp. Công nghiệp ngày càng
phát triển đồng nghĩa với việc tài nguyên ngày càng bị khai thác và sử dụng quá
mức làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, trong hệ thống sản xuất công
nghiệp – môi trường thì những yếu tố đầu vào là tài nguyên thiên nhiên thì các yếu
tố đầu ra là chất thải (cả chất thải công nghiệp và chất thải tiêu dùng).
Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến
công nghiệp nhanh hơn nhiều lần khả năng tái sinh của thế giới động, thực vật, đã
làm giảm màu xanh trên trái đất. Hậu quả của chu trình này là các nguồn tài nguyên
bị khai thác và sử dụng quá mức, ngày càng bị cạn kiệt, tốc độ phục hồi của tự
nhiên chậm hơn nhiều lần so với tốc độ khai thác, sử dụng tài nguyên của con người
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường như phá vỡ cân bằng sinh thái.
Thứ hai, các hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, làm suy giảm chất
lượng môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, tổn thất về kinh tế.
Đồng thời, các hoạt động công nghiệp cũng gây nên ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, có thể kể đến như: Một là, không phải tất cả
các tài nguyên khai thác được, sản xuất công nghiệp đều biến thành sản phẩm có ích
cho tiêu dùng, một phần quay trở lại tự nhiên dưới dạng chất thải công nghiệp.
Ngoài ra, sau một thời gian tiêu dùng, các sản phẩm công nghiệp bị hư hỏng, mất
dần giá trị sử dụng và quay trở lại tự nhiên dưới dạng chất thải tiêu thụ. Những
ngành công nghiệp khác nhau có mức độ gây ô nhiễm và các loại ô nhiễm khác
nhau. Chính việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa hợp lý, thậm chí khai thác
bừa bãi vì những lợi ích trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài. Công nghiệp
nặng thường gây ra mức độ ô nhiễm cao hơn công nghiệp nhẹ. Đồng thời, sự phân



10
bố tổ chức sản xuất công nghiệp chưa hợp lý giữa các vùng lãnh thổ, dẫn đến tình
trạng tập trung quá mức vào từng vùng làm tăng nồng độ chất thải công nghiệp, gây
ô nhiễm cho nhiều vùng rộng lớn. Trong khi đó, về mặt kinh tế, nguyên tắc phân bổ
công nghiệp gần các vùng nguyên liệu, thị trường tiêu thụ để tiết kiệm chi phí, tăng
lợi nhuận thì ngược lại yêu cầu bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp đòi
hỏi có sự bố trí hợp lý, cách xa vùng dân cư và nguyên liệu để tránh tập trung quá
mức nguồn chất thải công nghiệp độc hại đến đời sống con người; Hai là, nguyên
nhân cơ bản và quan trọng nhất dẫn đến ô nhiễm môi trường tăng lên nhanh chóng
là do trình độ công nghệ sử dụng trong quá trình sản xuất công nghiệp lạc hậu; Ba
là, lượng chất thải công nghiệp chưa được quan tâm xử lý tốt. Công nghệ khai thác
và xử lý chất thải còn nhiều hạn chế.
Tóm lại, vấn đề ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực công nghiệp đã và đang trở
thành vấn đề cấp bách toàn cầu, không phải của riêng quốc gia nào.
1.1.2 Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
1.1.2.1 Khái niệm bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
Quan điểm của học thuyết Mác – Lê Nin về Nhà nước và pháp luật đã giải thích
một cách khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các
hiện trạng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo vệ môi trường, chính con người trong quá trình khai thác các thành
tố môi trường đã làm mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường. Do đó, pháp
luật với tư cách là hệ thống quy phạm điều chỉnh cách xử sự của con người sẽ có tác
dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường.
Theo khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định thì hoạt động bảo
vệ môi trường được hiểu là: “hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động
xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải
thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm
giữ môi trường trong lành”.
Từ định nghĩa trên ta có thể xây dựng định nghĩa hoạt động bảo vệ môi trường

trong lĩnh vực công nghiệp được hiểu là: “hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế
các tác động xấu của lĩnh vực công nghiệp đến môi trường; ứng phó sự cố môi


11
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành”.
Theo đó, bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp thực chất là những hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt
động công nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau: Một là, giữ cho môi trường được
trong lành, sạch đẹp. Để làm được điều này, tại các khu/cụm công nghiệp, tại cơ sở
công nghiệp đảm bảo các yêu cầu về môi trường trong lành, đảm bảo cảnh quan
môi trường khi tiến hành hoạt động công nghiệp; Hai là, phòng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đối với môi trường. Có nghĩa là phải phòng ngừa những tác động tiêu
cực của quá trình công nghiệp hóa đối với sức khỏe người lao động, của người dân
khu vực xung quanh, bảo vệ môi trường sống tốt cho cộng đồng; Ba là, ứng phó sự
cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi, cải thiện môi trường. Quá
trình tiến hành các hoạt động sản xuất công nghiệp không tránh khỏi các sự cố môi
trường, thải ra một lượng lớn các chất thải gây ô nhiễm nặng nề môi trường đất,
nước, không khí. Vì vậy việc ứng phó sự cố môi trường, khắc phục tình trạng môi
trường bị ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường, hạn chế tác động tiêu cực đến
môi trường từ các hoạt động công nghiệp là yêu cầu cấp thiết của công tác bảo vệ
môi trường trong lĩnh vực công nghiệp.
1.1.2.2 Thực trạng bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam
Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn cả nước ước tính có 298 khu công nghiệp
với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 81.000 hecta. Trong đó, 209 khu công nghiệp đã
đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 54.060 hecta; 878 cụm công nghiệp
với tổng diện tích 32.841 hecta. Nhìn chung, các khu công nghiệp đã đóng góp rất lớn
cho phát triển kinh tế, xã hội với giá trị sản xuất công nghiệp bình quân trên 1 hecta
đất đã cho thuê đạt khoảng 1,6 triệu USD/hecta/năm. Nhưng ngoài một số khu công

nghiệp đầu tư hệ thống xử lý chất thải và tuân thủ tốt các quy định pháp luật về bảo
vệ môi trường, công tác quản lý môi trường và công tác kiểm soát ô nhiễm ở nhiều
nơi còn nhiều hạn chế, không chỉ các khu/cụm công nghiệp, các cơ sở công nghiệp
cũng gây tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng3.
3

Văn Hào,
(2016), “Tác động của phát triển công nghiệp đến môi trường”, tại địa chỉ:
truy cập ngày 14/07/2016.


12
Điều đó cho thấy rằng thực trạng bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
tại Việt Nam ngày càng trở nên báo động nguyên nhân là do hoạt động sản xuất công
nghiệp và tiêu dùng thiếu bền vững ngày càng rõ nét: Tình trạng ô nhiễm môi trường,
cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại các giống loài, ảnh hưởng xấu sức khoẻ con người là cái
giá phải trả cho quá trình phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong bối cảnh tự do hóa
thương mại mới được tiến hành chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây ở nước ta. Cụ thể:
 Thực trạng quản lý nước thải
Nước thải nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp được xác định ở từng loại ngành
nghề và công nghệ sản xuất cụ thể. Thành phần nước thải trong các ngành công
nghiệp ô nhiễm chủ yếu bởi các thông số BOD5, COD, tổng N, tổng P, dầu mỡ, chất
béo, các chất kim loại nặng.
Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 các ngành công nghiệp điện tử, hóa chất, lọc hóa dầu, luyện kim sẽ
có tốc độ tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng GDP công
nghiệp. Đây là các ngành không chỉ phát sinh khối lượng lớn chất thải mà còn gây
nguy cơ cao đối với môi trường và sức khỏe do chất thải chứa hàm lượng lớn các
chất có độc tính cao. Hiện nay lưu lượng nước thải phát sinh tại 209 khu công
nghiệp nếu được lấp đầy sẽ là 600.000m3/ngày đêm, hệ số phát sinh nước thải

khoảng 11,1m3/ha /ngày đêm. Theo tốc độ tăng trưởng công nghiệp 7%/năm, đến
năm 2020 lưu lượng nước thải từ các khu công nghiệp 900.000m3/ngày đêm, tăng
hơn năm 2014 tới 1,5 lần. Đó là chưa kể nước thải từ các cơ sở nằm ngoài khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, nhất là từ các mỏ khoáng sản (khai thác than, bauxit,
titan, wolfram, chì, kẽm...) còn lớn hơn nhiều so với lưu lượng nước thải từ các khu
công nghiệp. Ước tính có khoảng 79% tổng số khu công nghiệp đang hoạt động đã
xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, các công trình này dù đã đi vào hoạt
động nhưng nhiều nơi hiệu quả xử lý không cao, chưa đạt quy định của các Quy
chuẩn kỹ thuật Việt Nam (QCVN). Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập
trung nhiều khu công nghiệp và dự án FDI lớn nhất cả nước. Mặc dù tỷ lệ xây dựng
hệ thống xử lý nước thải tập trung ở khu vực này cao nhất nước, nhưng tình trạng vi


13
phạm các quy định về môi trường vẫn xảy ra. Ô nhiễm do nước thải công nghiệp
kết hợp với nước thải đô thị đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nhiều kênh rạch ở
vùng ven TP.Hồ Chí Minh như Tham Lương, Ba Bò, Thầy Cai, An Hạ…. Nhiều
doanh nghiệp dùng các thủ đoạn xây dựng hệ thống ngầm kiên cố xả thẳng ra sông,
rạch, chẳng hạn như Công ty Hào Dương, Phạm Thu, Tường Trung, Tân Nhật Dũng
tại TP.Hồ Chí Minh. Hoặc lợi dụng thủy triều lên xuống để pha loãng nước thải
chưa qua xử lý đưa ra môi trường như Công ty cổ phần Sonadezi Long Thành-Đồng
Nai. Ðặc biệt nghiêm trọng là Công ty Vedan (Đài Loan) đã bơm xả trực tiếp một
lượng lớn dịch thải sau lên men với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao ra sông Thị
Vải, gây ô nhiễm sông trên một phạm vi rộng. Nước thải từ Khu Liên hợp gang thép
Formosa Hà Tĩnh có lưu lượng đến 45.000m3/ngày đêm, chứa hàm lựợng rất cao
phenol, xyanua, crom, COD, các chất rắn lơ lửng. Bằng mô hình dự báo lan truyền
ô nhiễm do lượng nước thải này, đã chứng minh rằng ngay cả khi nước thải được xử
lý đạt QCVN52:2013/BTMT nước vịnh Sơn Dương (vùng nhận nước thải), nhưng
vẫn không đạt Quy chuẩn Việt Nam đối với nước biển ven bờ cho nuôi trồng thủy
sản, du lịch. Nước thải từ các khu liên hợp lọc hóa dầu chứa hàm lượng cao các chất

hữu cơ bền vững, dầu mỡ, kim loại nặng, phenol. Công nghiệp điện tử - ngành tạo
giá trị xuất khẩu rất lớn trong vài năm gần đây và nhiều năm tới lại tạo ra khối
lượng lớn chất thải rắn có chứa các kim loại bán dẫn, đất hiếm, đặc biệt một số kim
loại nặng có độc tính rất cao như As, Se, Sb, Hg… Do đó chất thải rắn điện tử có
thể được xem là chất thải nguy hại. Nước thải, chất thải rắn, đặc biệt bùn đỏ từ các
mỏ bauxit chứa hàm lượng cao các chất kiềm, kim loại. Nước thải và nước chảy
tràn từ các mỏ đa kim chứa hàm lượng cao các kim loại nặng4.
 Thực trạng quản lý khí thải
Ô nhiễm không khí, đặc biệt tại các khu vực tập trung công nghiệp, đô thị đang ở
mức báo động: Việt Nam cũng đang bị coi là nước có ô nhiễm không khí cao tới
mức báo động. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí

4

Văn Hào, (2016), tlđd chú thích 3, tr11.


14
khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10
(tức bụi có kích thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần.
Ô nhiễm môi trường không khí gia tăng đặc biệt ở hoạt động khai thác khoáng
sản. Cùng với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu, nguồn tài nguyên khoáng sản dưới
lòng đất của nước ta đã bị khai thác khá mạnh. Theo thống kê của Tổng cục Hải
quan, từ năm 2009 - 2011, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 2,1 - 2,6 triệu tấn khoáng
sản các loại (không kể than, dầu thô) với điểm đến chủ yếu là Trung Quốc, nhưng
chỉ mang lại giá trị 130 - 230 triệu USD. Riêng năm 2012, lượng khoáng sản xuất
khẩu vẫn gần 800.000 tấn thông qua đường chính ngạch. Nếu cộng cả số xuất lậu,
xuất qua đường biên mậu, số lượng xuất khẩu còn lớn hơn nữa (vào năm 2008, chỉ
riêng xuất lậu quặng ti-tan ước tính đã lên đến 200.000 tấn). Hậu quả của ô nhiễm
môi trường từ những hoạt động khai thác khoáng sản đã quá rõ ràng. Qua điều tra,

cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có 2.500 người mắc bệnh, chủ yếu là mắc bệnh bụi
phổi, hen phế quản, tai mũi họng (80%). Kết quả quan trắc của các cơ quan chuyên
môn cho thấy nồng độ bụi ở khu vực Cẩm Phả vượt từ 3 - 4 lần tiêu chuẩn cho
phép, gần 0,3 mg/m3 trong 24 giờ (gồm bụi lơ lửng, bụi Pb, Hg, SiO2, khí thải CO,
CO2, NO2). Mỏ Đèo Nai phải xử lý lượng đổ thải chất cao thành núi trong mấy
chục năm qua. Mỏ Cọc Sáu với biển nước thải sâu 200m chứa 5 triệu m3có nồng độ
a-xít cao và độ PH 4 - 4,5mgđl/l sẽ phải tìm công nghệ phù hợp để xử lý5.
 Thực trạng quản lý chất thải rắn
Chất thải phát sinh trong lĩnh vực công nghiệp bao gồm chất thải công nghiệp
thông thường và chất thải nguy hại. Lượng chất thải rắn phát sinh trong lĩnh vực
công nghiệp phụ thuộc vào tính chất ngành, nghề và công nghệ sản xuất.
Cũng theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2011 mỗi ngày các
khu công nghiệp nước ta thải ra khoảng 8000 tấn chất thải rắn, tương đương
khoảng 3 triệu tấn một năm. Lượng chất thải rắn đang tăng lên cùng với việc gia
tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp. Nếu tính trung bình cả nước, năm 2005 2006, một ha diện tích đất cho thuê phát sinh chất thải rắn khoảng 134 tấn/năm,
đến năm 2008 - 2009 con số này đã tăng lên 204 tấn/năm (tăng 50%). Sự gia tăng
5

Bộ Công thương, tlđd chú thích 2, tr7.


15
phát thải trên đơn vị diện tích đã phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất công
nghiệp, xuất hiện các ngành có mức phát thải cao và quy mô ngày càng lớn, nên
có dự báo tổng phát thải chất thải rắn từ các khu công nghiệp năm 2015 sẽ vào
khoảng 6 đến 7,5 triệu tấn/năm; đến năm 2020 đạt từ 9 đến 13,5 triệu tấn/năm, cao
hơn hiện nay 1,8 lần. Số liệu này chưa tính tới khối lượng chất thải rắn (xỉ thép,
vật liệu phế bỏ chứa hóa chất nguy hại) của Khu Liên hợp gang thép Formosa có
thể lên tới trên 5 triệu tấn/năm vào năm 2020. Khối lượng chất thải rắn phát sinh
do công nghiệp khai thác than, sắt, các kim loại màu (đất đá chứa chất thải), đặc

biệt là bauxit (bùn đỏ và đất đá chứa chất thải) còn cao nhiều lần so với chất thải
rắn phát sinh từ các khu công nghiệp. Ngoài ra trong chất thải rắn công nghiệp,
lượng chất thải rắn nguy hại chiếm tỷ lệ đến 20 - 30 % (tỷ lệ này ở Thái Nguyên là
26,6%). Do vậy ảnh hưởng của chất thải rắn công nghiệp và khai thác khoáng sản
đến sức khỏe, cảnh quan và các hệ sinh thái tự nhiên sẽ rất nghiêm trọng nếu công
tác kiểm soát loại chất thải này kém hiệu quả6.
Tình trạng Việt Nam trở thành bãi rác công nghệ và chất thải: Hiện các doanh
nghiệp ở Việt Nam là chủ sở hữu của hơn một nghìn con tàu biển trọng tải lớn, cũ
nát. Hầu hết các cảng biển trên thế giới đều không cho phép loại tàu này vào, vì nó
quá cũ gây ô nhiễm môi trường lại không bảo đảm an toàn hàng hải. Thế nhưng,
hơn một nghìn con tàu cũ nát đó vẫn đang được neo vật vờ ở các tuyến sông, cửa
biển để chờ được “hóa kiếp” thành phế liệu mà việc phá dỡ loại tàu biển cũ này sẽ
thải ra rác thải nguy hại làm ô nhiễm môi trường sống. Nhiều dự án luyện, cán thép
lớn đã, đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thép
lớn, song đồng thời cũng có nguy cơ biến Việt Nam thành nơi tập trung “rác” công
nghệ và chất thải. Bài học “xương máu” này đã từng xảy ra với ngành sản xuất xi
măng, song vẫn có khả năng lặp lại nếu những dây chuyền luyện gang, thép bị loại bỏ
ở Trung Quốc được đưa về lắp đặt ở Việt Nam7.

6

Văn Hào, (2016), tlđd chú thích 3, tr11.

7

Bộ Công thương, tlđd chú thích 2, tr7.


16
Phát triển các ngành công nghiệp sẽ tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế Việt

Nam, nhưng đồng thời cũng tạo các nguy cơ cao đối với môi trường chủ yếu là do
gia tăng nhanh khối lượng, lưu lượng nước thải, khí thải, chất thải rắn công nghiệp,
chất thải rắn nguy hại. Mặt khác cũng làm gia tăng các thành phần có độc tính cao
trong các loại chất thải. Đây sẽ là nguồn gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, chất
lượng môi trường, đa dạng sinh học và tổn thất về kinh tế cho toàn xã hội.
1.2 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG LĨNH
VỰC CÔNG NGHIỆP
1.2.1 Khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
Phải thừa nhận rằng pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp là
một nội dung trong pháp luật môi trường trong kinh doanh – là một lĩnh vực pháp
luật chuyên ngành. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một định nghĩa
chính thống về pháp luật môi trường trong kinh doanh. Tuy nhiên ta có thể lấy định
nghĩa này theo tập bài giảng pháp luật môi trường của trường đại học Luật Hà Nội
như sau: “ Pháp luật môi trường trong kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp
luật, các nguyên tắc pháp lí điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến
quá trình bảo vệ có hiệu quả môi trường sống của con người khi các chủ thể tiến
hành hoạt động kinh doanh”8.
Từ các khái niệm trên ta có thể xây dựng khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường
trong lĩnh vưc công nghiệp như sau: “ Pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lí điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động công nghiệp liên quan trực tiếp đến
quá trình bảo vệ có hiệu quả môi trường sống của con người khi các chủ thể tiến
hành hoạt động công nghiệp”.
Pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp là một bộ phận của pháp
luật thương mại, tuy nhiên, pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
so với luật thương mại có tính riêng biệt và khác biệt riêng thể hiện ở chỗ: Luật
thương mại điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương
8

Đại học Luật Hà Nội (2013), Tập bài giảng Pháp luật môi trường trong kinh doanh, Tập bài giảng, Nhà

xuất bản Tư pháp, tr.22.


17
mại, hoạt động kinh doanh vì mục đích sinh lời. Còn pháp luật bảo vệ môi trường
trong lĩnh vực công nghiệp điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp có phát sinh hoặc có nguy cơ làm phát
sinh những yếu tố ảnh hưởng tới môi trường nên pháp luật đòi hỏi hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực công nghiệp phải gắn với hoạt động bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực công nghiệp. Tức có nghĩa các chủ thể tiến hành hoạt động công nghiệp
phải tính tới hoạt động bảo vệ môi trường, giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác
động xấu của lĩnh vực công nghiệp đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường;
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành.
Với cách tiếp cận trên, pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp
mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp là một bộ
phận của pháp luật môi trường.
Hệ thống pháp luật môi trường trên thế giới nói chung và pháp luật môi
trường tại Việt Nam nói riêng đều điều chỉnh hai vấn đề chính: mảng xanh và mảng
nâu. Cụ thể: Vấn đề thứ nhất, bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên (thường gọi là mảng xanh). Điều chỉnh vấn đề này, nhà nước ban hành các
quy định pháp luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình khai
thác, sử dụng, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học như: bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ môi trường đất, bảo vệ môi trường không khí…. Các quy định
pháp luật về vấn đề này tập trung điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh theo
hướng đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khi khai
thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt động phát triển, đồng
thời gắn trách nhiệm của họ với việc bảo tồn và sử dụng hợp lý chúng, đảm bảo lợi

ích lâu dài về môi trường của cộng đồng; Vấn đề thứ hai được pháp luật môi trường
điều chỉnh là kiểm soát, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường (thường gọi là mảng nâu).
Về lĩnh vực này, pháp luật môi trường được xây dựng và thực hiện theo hướng ràng
buộc trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan để


18
giảm thiểu các chất gây ô nhiễm môi trường, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác động xấu cho môi trường do
ảnh hưởng của các loại chất thải. Pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công
nghiệp với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh các quy tắc xử sự của cá
nhân, pháp nhân, tổ chức sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường bởi lẽ
chính các chủ thể trên trong quá trình khai thác các thành tố môi trường đã hoặc sẽ
làm mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường. Do đó, pháp luật quy định tất
cả các nội dung, các biện pháp có tác dụng ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường ở mức cao nhất có thể như: các quy định bảo vệ môi trường trong xây dựng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp nhằm kiểm soát các vấn đề
về môi trường trong các dự án đầu tư công nghiệp ngay từ khâu dự án đề xuất, thẩm
định, phê duyệt dự án đầu tư công nghiệp, quy định bảo vệ môi trường tại khu/cụm
công nghiệp tập trung, tại cơ sở công nghiệp; quy định các chế tài hình sự, hành
chính, dân sự để buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy
định pháp luật trong việc khai thác, sử dụng các thành tố môi trường (đất, nước,
không khí). Đồng thời, pháp luật còn quy định các quy chuẩn kĩ thuật môi trường là
cơ sở pháp lý cho việc xác định vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực
công nghiệp. Chúng là cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm đối với những hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp. Nói cách khác,
các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp là một bộ
phận của pháp môi trường9.
Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường trường trong lĩnh vực công nghiệp có
phạm vi và đối tượng điều chỉnh đa dạng, phức tạp, điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong hoạt động bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp, bao gồm:
- Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là Nhà nước phát
sinh từ hoạt động quản lý nhà nước về quản lý môi trường như: quan hệ phát sinh từ
hoạt động đánh giá tác động môi trường; quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo vệ
môi trường tại khu/cụm công nghiệp, tại cơ sở công nghiệp; quan hệ phát sinh từ
9

Luyện Thị Thùy Nhung, (2013), “Pháp luật bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, tr.14.


×