Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.98 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ TÂM

PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Phạm Thị
Giang Thu – cô giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu
Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng


nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả

Phạm Thị Tâm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS Phạm Thị Giang Thu. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Ngoài ra, đề tài còn sử
dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ
chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có
bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng
cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2016
Tác giả

Phạm Thị Tâm


Danh mục từ viết tắt

Bộ luật dân sự


BLDS

Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

Công ty cổ phần

CTCP

Công ty hợp danh

CTHD

Sở hữu trí tuệ

SHTT

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

GCNĐKDN


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG PHẦN

VỐN GÓP TRONG CÔNG TY................................................................... 7
1.1. Khái quát về vốn góp và chuyển nhượng phần vốn góp trong công
ty ................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn góp và phần vốn góp trong công ty ..... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty.................................................................................................. 18
1.1.3. Phân biệt giữa chuyển nhượng phần vốn góp với các hình thức
định đoạt phần vốn góp trong công ty ................................................. 21
1.2. Khái quát pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công
ty .............................................................................................................. 25
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp
............................................................................................................. 25
1.2.2. Yêu cầu cơ bản đối với pháp luật về chuyển nhượng phần vốn
góp ....................................................................................................... 27
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp
trong công ty ở Việt Nam ..................................................................... 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG
PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY Ở VIỆT NAM ............................ 37
2.1. Quy định về nguyên tắc, điều kiện chuyển nhượng vốn trong công
ty .............................................................................................................. 37
2.2. Quy định về nghĩa vụ và lợi ích của người góp vốn và người có liên
quan sau khi chuyển nhượng ................................................................. 40
2.3. Quy định về hình thức pháp lý của việc chuyển nhượng .............. 43


2

2.4. Quy định áp dụng cho từng mô hình công ty ................................. 44
2.4.1. Quy định về chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH...... 44
2.4.2. Quy định về chuyển nhượng vốn góp trong công ty cổ phần .... 56

2.4.3. Quy định về chuyển nhượng vốn góp của công ty hợp danh .... 64
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG PHẦN VỐN GÓP TRONG
CÔNG TY ................................................................................................... 70
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp
trong công ty ........................................................................................... 70
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên trong công ty ........................................ 70
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chuyển
nhượng phần vốn góp trong công ty ................................................... 71
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty .................................................................................... 74
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chuyển nhượng phần
vốn góp trong công ty .......................................................................... 74
3.2.2. Xây dựng một hệ thống văn bản hoàn chỉnh về công ty ........... 78
3.2.3. Công khai và minh bạch trong chính sách tài chính của công ty
............................................................................................................. 80
KẾT LUẬN ................................................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 84


3

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty là một loại hình doanh nghiệp do các thành viên góp vốn thành
lập nhằm mục đích kinh doanh. Muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh bất cứ
ngành nghề, loại dịch vụ nào đều phải cần có vốn. Vốn này do các thành viên
góp vào để cùng nhau thực hiện các hoạt động kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, “vốn

góp” và “phần vốn góp” của thành viên góp vốn sẽ gắn liền với sự tồn tại của
công ty cho đến khi công ty giải thể hoặc bị phá sản. Bất cứ cá nhân, tổ chức nào
muốn trở thành thành viên của công ty đều phải đóng góp tiền, tài sản, trí tuệ,
v.v.. của mình. Nói cách khác việc một thành viên chuyển quyền sở hữu tài sản
của mình vào công ty đã làm phát sinh tư cách thành viên công ty của người đó.
Mặt khác, ta nhận thấy giữa ba loại mô hình công ty tồn tại ở Việt Nam
hiện nay, bao gồm: công ty TNHH, CTCP (hai loại hình công ty đối) và kể cả
đối với CTHD (loại hình công ty đối nhân) tồn tại một điểm chung. Đó là, tư
cách thành viên công ty chỉ chấm dứt khi thành viên công ty (hoặc cổ đông) đó
chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác hoặc chết, hay công ty
đó bị giải thể hoặc phá sản. Như vậy, “phần vốn góp” đóng vai trò quan trọng
quyết định vị trí, quyền lợi của thành viên góp vốn trong công ty. Điều này khác
hoàn toàn so với các mô hình hợp tác xã (tổ chức kinh tế tập thể) hay với loại
hình doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm tài sản
vô hạn.
Xét ở góc độ kinh tế, việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty là
hoạt động mua bán, đầu tư kiếm lời. Còn dưới góc độ pháp lý, việc chuyển
nhượng phần vốn góp của thành viên công ty là một loại giao dịch dân sự, được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật chuyên ngành và các quy định chung
khác. Tuy nhiên, pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành còn chưa quy định


4

rõ bản chất của “thế nào là vốn góp”, “phần vốn góp”, “hành vi chuyển nhượng
vốn góp”, cũng như việc quản lý của nhà nước về việc chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty là điều hết sức cần thiết. Do đó, trong phạm vi luận văn thạc
sỹ của mình, tác giả luận văn xin được phép nghiên cứu và làm rõ đề tài: “Pháp
luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty ở Việt nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động chuyển nhượng vốn góp trong công ty đang diễn ra thường
nhật và ngày càng phát triển, điều đó đã tạo ra sức hút mạnh mẽ cho các nhà
nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế pháp lý đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu
và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị. Một số công trình nghiên cứu có liên
quan tới đề tài như: “Tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển
nhượng vốn đối với công ty TNHH và công ty cổ phần” của tác giả Lê Vệ Quốc
(2001) – Tạp chí Nhà nước và pháp luật; “Góp vốn và quản lý phần vốn góp
trong công ty TNHH hai thành viên trở lên” của tác giả Phạm Thanh Huyền
(2010) – Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội;... Tuy nhiên, luận văn là
công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện pháp luật về việc chuyển
nhượng phần vốn góp đối với tất cả các loại hình công ty đang hoạt động ở Việt
Nam. Tác giả luận văn mong muốn đóng góp một số giải pháp mang tính chất
pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này nói riêng và hệ
thống pháp luật về công ty ở Việt Nam nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Với đề tài “Pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty ở Việt
Nam”, đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định của pháp luật
hiện hành có liên quan đến quy định về việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công
ty, cụ thể đó là các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, Bộ luật dân sự năm
2005 so sánh với Bộ luật dân sự mới năm 2015 (đến 01/01/2017 mới có hiệu lực) và
một số văn bản hướng dẫn luật khác. Luận văn cũng tập trung vào phân tích, đánh giá


5

các tình hình kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của pháp
luật về chuyển nhượng phần vốn góp trên thực tế; đồng thời cũng lý giải sự thay đổi
các quy định của pháp luật trong lĩnh vựa này để phù hợp với thực tiễn đời sống của
doanh nghiệp.
Về phạm vi tác giả luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề

pháp lý liên quan đến hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty bao
gồm: công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành viên, CTCP và
CTHD. Các quy định về chuyển nhượng vốn góp trong các hình thức tổ chức kinh tế
khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ bản chất pháp ý của hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp
trong công ty;
- Phân tích bản chất, vai trò của vốn góp, phần vốn góp và hoạt động
chuyển nhượng phần vốn góp đối với quá trình vận động của nền kinh tế;
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty ở Việt Nam hiện nay;
- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra những giải pháp pháp lý để hoàn
thiện chế định về hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung làm rõ các khái niệm mang tính chất lý luận liên quan
đến hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty ở Việt Nam mà luận
văn mà pháp luật hiện hành chưa đề cập đến. Làm sáng tỏ và phân tích các khái
niệm như “vốn góp”, “phần vốn góp”, khái niệm “chuyển nhượng phần vốn
góp”. Từ đó, nghiên cứu các quy định về điều kiện chuyển nhượng, hình thức,
thủ tục pháp lý về thủ tục cũng như hậu quả pháp lý đối với việc chuyển nhượng
phàn vốn góp áp dụng với từng loại hình công ty khác nhau ở Việt Nam. Tình


6

hình thực tiễn triển khai các quy định về chuyển nhượng trên thực tế phát sinh
những bất cập và vướng mắc như thế nào.
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát triển nền
kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp
phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội
dung khoa học của đề tài.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn, là tài liệu nghiên cứu tổng quan về lĩnh vực chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty. Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống về mặt lý luận
có ý nghĩa thiết thực cho quá trình chuyển nhượng phần vốn góp của các loại
hình công ty đang tồn tại ở Việt Nam hiện nay.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, nội
dung chính của khóa luận được kết cấu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty
và pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp
trong công ty ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng
phần vốn góp trong công ty.


7

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG
PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY
1.1. Khái quát về vốn góp và chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn góp và phần vốn góp trong công ty
1.1.1.1. Khái niệm vốn góp
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết
định sự phát triển của hoạt động kinh doanh. Vào thời điểm mới thành lập
doanh nghiệp, vốn nói chung cũng như vốn góp nói riêng là vấn đề tiên quyết
đối với sự tồn tại của bản thân doanh nghiệp. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm
vốn của công ty là tiền đề giúp chúng ta hiểu được thế nào là vốn góp và phần
vốn góp trong công ty.
Ở Việt Nam, khái niệm vốn được nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau:
- Dưới góc độ ngôn ngữ học, vốn là “tổng thể nói chung những tài sản
bỏ ra lúc ban đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất kinh
doanh nói chung và trong hoạt động sinh lợi”[17]. Định nghĩa này đã cho ta
hình dung bước đầu về vốn, tuy chưa thật rõ ràng nhưng đã nêu được nguồn
gốc của vốn là tổng thể những tài sản bỏ ra ban đầu (thường là tiền) và có
chức năng dùng trong sản xuất kinh doanh.
- Dưới góc độ kinh tế, “vốn là toàn bộ lượng tiền cần thiết nhất định
để bắt đầu và duy trì sự hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục của các chủ


8

thể kinh doanh”. Cũng có thể hiểu vốn theo cách khác, đó là “toàn bộ lượng
tiền ứng ra ban đầu cho kinh doanh sẽ vận động và chuyển hóa hình thái biểu
hiện trong quá trình kinh doanh”[7]. Cách hiểu đó đã khái quát được khái
niệm vốn khá rõ ràng, giúp ta hình dung được quy trình lưu chuyển cũng như
sự biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái phi tiền tệ của vốn.
- Dưới góc độ pháp lý, vốn được hiểu là “tiền, tài sản, quyền tài sản trị
giá được thành tiền có thể sử dụng được trong kinh doanh”. Ta thấy luật pháp
quy định đối với tiền phải tích tụ đến mức nhất định thì mới có thể sử dụng

được trong kinh doanh với tư cách là vốn. Đối với tài sản nếu chỉ thuần túy có
giá trị và giá trị sử dụng mà không có khả năng chuyển đổi thành tiền và sử
dụng trong kinh doanh thì cũng không có giá trị là vốn. Đối với các quyền tài
sản, nếu không có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt để hạch toán trong
kinh doanh thì không thể dùng để đầu tư và cũng không được xem là vốn.
Còn theo quan điểm của các nước phát triển, vốn trong công ty được
nghiên cứu dựa trên hai phương diện kinh tế và pháp lý. Do đó, nó có hai tính
chất: (i) về mặt pháp lý, vốn là số tiền để đảm bảo cho việc trả nợ của công ty;
(ii) về mặt kinh tế, vốn là phương tiện kinh doanh.[19]
Vốn trong công ty nói chung được hiểu là giá trị tính bằng tiền của
những tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của công ty và được
công ty sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, lưu thông mà nó là một
chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ qua lại với nhau
phản ánh cấu trúc nội tại của đồng vốn trong công ty.
Cấu trúc vốn trong một công ty có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau, dựa trên các tiêu chí nhất định. Đặc biệt nếu căn cứ vào nguồn gốc hình
thành, vốn trong công ty được chia thành vốn chủ sở hữu (vốn góp) – hay còn
gọi là vốn tự có và vốn tín dụng (vốn vay). Xem xét vốn của công ty từ


9

phương diện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về phương diện sở hữu
cũng như phương diện pháp lý. Mặc dù pháp luật quy định các phương thức
huy động vốn khác nhau tương ứng với mỗi loại hình công ty, nhưng vào thời
điểm mới thành lập, vốn góp là nguồn tài chính chủ yếu quan trọng nhất đối
với mọi loại hình công ty. Vậy vốn góp trong công ty là gì?
Vốn góp chính là hình thức đầu tư của chủ sở hữu. Nó là điều kiện tiền
đề để thành lập công ty ở giai đoạn mới thành lập, còn trong quá trình sản
xuất kinh doanh nó biểu hiện khả năng tài chính của chủ sở hữu công ty. Tuy

nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại chưa có định nghĩa cụ thể về “vốn
góp” mà chỉ nếu ra khái niệm “góp vốn”. Có thể thấy “vốn góp” chính là kết
quả của việc thực hiện “hành vi góp vốn” vào công ty. Tại Điều 14.3 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành
vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp
hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”. Định nghĩa
này cho phép giải thích hành vi góp vốn theo nghĩa hẹp với nội hàm là hoạt
động có chủ ý của người có tài sản, trực tiếp chuyển tài sản của mình sang
cho công ty để sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để tăng vốn hoặc bù
đắp phần vồn đã thất thoát hoặc thua lỗ trong quá trình công ty sản xuất, kinh
doanh. Người góp vốn sẽ trờ thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của
công ty đó. Chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu này được gọi là thành viên
công ty. Tài sản được đem góp vốn trở thành vốn góp của công ty và thuộc
quyền sở hữu của chính công ty đó. Đồng thời, định nghĩa trên còn chỉ ra bản
chất của vốn góp chính là tiền, tài sản và quyền tài tài sản trị giá được thành
tiền.
Tuy nhiên, sẽ rất hạn chế nếu chúng ta chỉ coi bản chất của vốn góp là
tài sản được phép góp vốn vào công ty theo quy địnnh Luật Doanh nghiệp mà
quên mất rằng bên cạnh đó cón những thứ không phải tài sản như: kinh


10

nghiệm quản lý, hệ thống mạng lưới khách hàng, thương hiệu... Bởi, các tài
sản do các chủ thể kinh doanh cùng nhau “hùn vốn” và góp vào các loại hình
công ty khác nhau tuy có cùng chung bản chất là vốn góp nhưng lại có sự
khác biệt về tính chất. Khác với công ty TNHH cũng như CTCP với tính chất
là công ty đối vốn, phần vốn góp vào công ty chỉ đơn thuần mang tính chất
vật chất thì đối với CTHD ngoài các yếu tố vật chất còn bao gồm cả yếu tố
phi vật chất đó chính là danh tiếng, là uy tín chuyên môn nghề nghiệp cá nhân

của các thành viên hợp danh. Nói cách khác, vốn góp của các thành viên hợp
danh trong CTHD không chỉ bảo gồm tài sản góp vốn với nguyên nghĩa mà
còn cả yếu tố nhân thân của các thành viên hợp danh.
Qua nghiên cứu cho thấy, vốn góp đóng vai trò quan trọng đối với hoạt
động tài chính của công ty. Bởi quá trình sản xuất kinh doanh sẽ được diễn ra
khi có ba yếu tố: yếu tố vốn, yếu tố lao động và yếu tố công nghệ. Trong ba
yếu tố đó thì yếu tố vốn là điều kiện tiền đề và có vai trò rất quan trọng. Nó là
yếu tố đầu tiên quyết định việc sản xuất kinh doanh của công ty có thành công
hay không. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng
cần phải có một lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào, thuê nhân công, mua
thông tin trên thị trường, mua bằng phát minh sáng chế... Nếu thiếu vốn việc
kinh doanh của doanh nghiệp rất dễ thất bại. Đặc biệt, trong giai đoạn mới
thành lập việc huy động vốn thông qua các hình thức khác như đi vay thường
rất khó khăn, cần phải có uy tín hoặc sự bảo lãnh của một chủ thể khác;việc
phát hành trái phiếu thì tùy thuộc vào pháp luật từng nước, cũng như quy định
đối với từng loại hình công ty có cho phép hay không, nên vốn góp là nguồn
kinh phí duy nhất chi trả cho các hoạt động và dịch vụ mà công ty sử dụng.
Vậy nên, vốn góp trong công ty đóng vai trò thực hiện mục đích sinh lời, vốn
luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản


11

vô hình nhưng kết thúc vòng tuần hoàn bao giờ cũng tồn tại dưới hình thái
biểu hiện là tiền.
Từ những vấn đề trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: “Vốn
góp là toàn bộ lượng tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền
cũng như những tài sản khác không trị giá được thành tiền mà các chủ thể
kinh doanh thỏa thuận đóng góp để phục vụ sản xuất kinh doanh sẽ vận
động và chuyển hóa hình thái biểu hiện trong quá trình sản xuất, kinh

doanh”.
1.1.1.2. Khái niệm phần vốn góp
Trong những năm gần đây, phần vốn góp trong CTHD, công ty TNHH;
cổ phần trong CTCP đã trở thành những tài sản có giá trị lớn trong tài sản
kinh doanh của chủ sở hữu. Phần vốn góp là một dạng “tài sản đặc biệt”. Trải
qua quá trình kinh doanh, công ty càng làm ăn có lãi thì giá trị phần vốn góp
hay cổ phần càng tăng lên và ngược lại. Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999
quy định: “Phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung
của công ty góp vào vốn điều lệ”. Luật doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục kế
thừa quy định này. Theo quy định của hai đạo luật này, có thể hiểu phần vốn
góp trong công ty chính là mức độ, tỷ lệ vốn góp của thành viên góp vốn
trong tổng số vốn của công ty. Tuy nhiên, đến Luật Doanh nghiệp năm 2014
đã định nghĩa cụ thể và chính xác về khái niệm này khi tách biệt cách hiểu
phần vốn góp chính là tổng giá trị tài sản vốn góp của từng thành viên vào
công ty, chứ không coi nó là tỷ lệ vốn của các chủ sở hữu trong công ty. Theo
đó: “Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam
kết góp vào công ty TNHH, CTHD. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn
góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty TNHH, CTHD”. Như vậy,
qua nhiều lần sửa đổi, Luật doanh nghiệp hiện hành đã thu hẹp phạm vi khái


12

niệm “phần vốn góp” khái niệm phần vốn góp chỉ được áp dụng cho hai loại
hình công ty TNHH và CTHD, định nghĩa này không liệt kê cổ phần trong
công ty cổ phần là phần vốn góp. Trong khi về mặt bản chất, số cổ phần mà
cổ đông CTCP sở hữu cũng chính là tổng giá trị tài sản mà thành viên CTCP
góp hoặc cam kết góp vào công ty. Theo ý kiến cá nhân của tác giả luận văn,
đã được trình bày ở phần phạm vi nghiên cứu của đề tài thì cổ phần của cổ
đông công ty cổ phần cũng chính là phần vốn góp của chủ sở hữu công ty

trong CTCP. Vì vậy, định nghĩa phần vốn góp trong luận văn này xin được
hiểu và đề cập dưới góc độ sau đây:
“Phần vốn góp chính là tổng giá trị tài sản của một thành viên hoặc cổ
đông đã góp hoặc cam kết góp vào công ty TNHH, CTHD, CTCP. Tỷ lệ phần
vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của
công ty TNHH, CTHD, CTCP”.
Qua nghiên cứu khái niệm này ta thấy, phần vốn góp là khái niệm biểu
hiện tỷ lệ vốn góp giữa các chủ sở hữu trong công ty, biểu hiện mức độ sở
hữu và quy mô giá trị vốn góp khác nhau giữa các chủ sở hữu trong công ty.
Giả sử A, B, C cùng góp vốn thành lập công ty TNHH: A góp 50 triệu, B góp
100 triệu và C góp 200 triệu. Sau một thời gian công ty làm ăn phát đạt, tổng
giá trị tài sản của công ty ABC lúc này tăng gấp đôi được xác định là 700
triệu. Ta thấy, tuy vốn góp của A vào công ty là 50 triệu, nhưng tỷ lệ phần vốn
góp của A tương ứng lúc này là 1/7. Vốn góp của A là 50 triệu, nhưng giá trị
chuyển nhượng phần vốn góp này có thể là 90 hay 100 triệu căn cứ vào giá trị
tài sản của công ty tại thời điểm chuyển nhượng. Một thành viên sẽ được xác
định cụ thể một mức độ quyền sở hữu nhất định đối với công ty căn cứ vào tỷ
lệ phần vốn của họ trong tổng số vốn điều lệ là bao nhiêu.


13

Mặt khác, như chúng ta đã biết công ty chính là một pháp nhân kinh
doanh, đặc biệt là đối với các loại hình công ty đối vốn thì chúng hoàn toàn có
tư cách pháp lý độc lập so với chủ đầu tư (người góp vốn). Do đó, bản thân
công ty có quyền sở hữu tài sản một cách độc lập, đó chính là các tài sản do
các thành viên công ty đóng góp và sau khi công ty ra đời thì quyền sở hữu
đối với các tài sản đem góp vốn được dịch chuyển từ các thành viên sang cho
công ty. Cũng từ đó chúng ta khẳng định: các thành viên không phải là chủ sở
hữu một phần tài sản của công ty mà họ là người sở hữu công ty thông qua

việc sở hữu “phần vốn góp” trong công ty.
Vì vậy, phần vốn góp là loại tài sản đặc biệt của chủ sở hữu công ty,
loại tài sản này cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ đặc biệt cho chủ
sở hữu. Điều này xuất phát từ bản chất của quan hệ góp vốn là “sự hùn vốn”
giữa các thành viên với nhau và dẫn đến sự chi phối, chia sẻ lợi ích giữa
những người cùng góp vốn. Khi thực hiện góp vốn, các chủ sở hữu vốn
chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho công ty để trở thành thành
viên công ty và nhận được phần quyền lợi tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản
đã đem vào góp vốn trong công ty. Mức độ quyền lợi của họ trong công ty tùy
thuộc vào tỷ lệ phần vốn góp, năng lực, trình độ quản lý, khả năng kinh doanh
và uy tín của họ trong công việc.
Một điểm cần lưu ý nữa là, trên thực tế chúng ta thường hay nhầm lẫn
giữa nội hàm khái niệm “phần vốn góp” với các khái niệm có liên quan như
“vốn góp”, “tài sản góp vốn” trong công ty. Thực chất đây là những khái
niệm độc lập và thuộc sở hữu của các chủ thể khác nhau. Ví dụ
Khái niệm “phần vốn góp” và “tài sản góp vốn” cũng có nhiều nhầm
lẫnn. Thực chất “phần vốn góp” là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp
vốn, còn “tài sản góp vốn” là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty. Tài sản


14

của một chủ thể khi đã góp vào công ty (đã chuyển quyền sở hữu hợp pháp)
thì trở thành “tài sản góp vốn”, lúc này thuộc sở hữu của công ty, còn chủ thể
góp vốn thì trở thành thành viên của công ty và sở hữu “phần vốn góp”. Do
đó, thành viên là đồng chủ sở hữu của công ty, còn công ty thì sở hữu tài sản
góp vốn.
Sự phân biệt này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó ảnh hưởng tới việc
quản trị công ty, sử dụng đồng vốn và các giao dịch khác liên quan đến tài sản
góp vốn, vốn góp và phần vốn góp của công ty. “Tài sản góp vốn” thuộc sở

hữu của công ty nên chỉ công ty mới có quyền định đoạt, còn thành viên chỉ
có quyền định đoạt “phần vốn góp” của mình trong công ty, chứ không có
quyền định đoạt tài sản đã góp nữa. “Vốn góp” là tài sản thuộc sở hữu của
công ty với tư cách pháp nhân độc lập, còn thành viên công ty chỉ có quyền sở
hữu công ty thông qua việc sở hữu “phần vốn góp” mà thôi.
Từ những phân tích ở trên về khái niệm phần vốn góp, có thể thấy bản
thân phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt. Dưới góc độ sở hữu, chủ sở
hữu hoàn toàn có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với phần vốn góp
này như: tặng cho, chuyển nhượng phần vốn góp, sử dụng phần vốn góp để
trả nợ hay để lại thừa kế... Vì vậy, phần vốn góp trong công ty luôn tồn tại và
xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho chủ sở hữu phần vốn góp
đó. Với tư cách là một loại quyền tài sản chứ không phải là một loại tài sản
thông thường, “phần vốn góp” trong công ty có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt – quyền tài sản
thuộc sở hữu của thành viên góp vốn trong công ty.
Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn. Nó không
phải là các loại tài sản góp vốn được hình thành từ thế giới vật chất như
những tài sản hữu hình khác (tiền, vàng, nhà xưởng...). Cũng như không phải


15

hình thành từ khối óc, sức sáng tạo của con người như các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ (tài sản phi vật chất). Mà phần vốn góp, sau khi được
chuyển sở hữu từ tài sản của thành viên góp vốn sang tài sản thuộc sở hữu của
công ty, đã trở thành một loại quyền về tài sản của thành viên công ty. Các
thành viên góp vốn trong công ty có quyền đối với phần vốn góp của mình
nằm trong khối tài sản góp vốn sở hữu của công ty1. Khi một người góp vốn
vào công ty thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty nhưng đổi lại người góp
vốn đó lại trở thành thành viên của công ty và có quyền quyền đối với phần

vốn góp. Do xuất phát từ hành vi pháp lý của chủ sở hữu (chuyển giao quyền
sở hữu tài sản vào công ty) đã làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ luật định
của người góp vốn đối với phần vốn góp của mình trong công ty. Tuy người
góp vốn có quyền đối với phần vốn góp nhưng tùy thuộc vào mỗi loại hình
công ty nhất định mà việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu có một số
hạn chế.
Hơn nữa, ta thấy có sự khác biệt nếu xem xét khái niệm phần vốn góp
dưới phương diện kinh tế và phương diện pháp lý: (i) Về phương diện kinh tế,
phần vốn góp là sản nghiệp của người góp vốn vào công ty; (ii) Về phương
diện pháp lý, thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà người góp vốn đã góp vào công
ty. Nếu không có sự phân biệt giữa số vốn góp vào công ty thì sẽ không có sự
khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn trong công ty có
nhiều thành viên góp vốn.
Vì vậy, phần vốn góp chính là một loại tài sản đặc biệt, vô hình, không
thể cầm, nắm hay thấy được bằng các xúc giác của con người, được hình
thành thông qua việc góp vốn vào công ty và tồn tại song song với sự tồn tại
của công ty. Trên thực tế việc góp vốn vào những loại hình công ty khác nhau
1

Nguyễn Hồng Anh, Phần vốn góp trong công ty có tư cách pháp nhân – Cách tiếp cận từ góc độ pháp luật
tài sản, truy cập ngày 19/05/2016


16

sẽ tạo nên những quy chế pháp lý khác nhau đối với người sở hữu phần vốn
góp trong công ty.
Thứ hai, phần vốn góp là tài sản có thể chuyển nhượng, tặng cho
hoặc thừa kế.
Phần vốn góp với tư cách là một loại quyền tài sản trị giá được thành

tiền. Xét theo quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Quyền tài
sản là quyền giá trị được thành tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Từ định nghĩa trên, ta có thể khẳng định
quyền tài sản cần phải đáp ứng được hai yêu cầu: Một là, quyền tài sản phải
trị giá được bằng tiền; Hai là, có thể chuyển giao cho người khác trong giao
dịch dân sự. Ở trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ tập trung
làm rõ quyền định đoạt về số phận pháp lý của chủ sở hữu. Điều này có nghĩa,
do phần vốn góp là một loại quyền tài sản nên chủ sở hữu có quyền chuyển
giao trong giao dịch dân sự.
Việc định đoạt số phận pháp lý của phần vốn góp là chuyển giao quyền
sở hữu đối với phần vốn góp từ thành viên công ty sang cho người khác. Các
hình thức pháp lý định đoạt cũng rất đa dạng, có thể là việc định đoạt với
phần vốn góp như: bán, trao đổi, tặng cho, để lại thừa kế... Hoặc thông qua
các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Ví dụ như:
định đoạt việc chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp của Điều lệ công ty...
Hơn nữa, chủ sở hữu có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác
định đoạt phần vốn góp của mình. Việc chủ sở hữu hoặc chủ thể khác được ủy
quyền định đoạt phần vốn góp thực hiện quyền định đoạt sẽ làm chấm dứt
hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến phần vốn góp đó. Tuy
nhiên, việc chuyển giao này cần phải tuân thủ các điều kiện nhất định và bị


17

hạn chế bởi một số quy định theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, nhằm đảm
bảo sự hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Thứ ba, phần vốn góp là cơ sở để xác định quyền hạn và nghĩa vụ
của các thành viên trong công ty
Vì phần vốn góp của các thành viên góp vốn tỷ lệ thuận với số vốn mà
họ đã góp vào công ty. Nên các thành viên tiến hành góp vốn để đổi lấy quyền

lợi trong công ty có giá trị tương ứng với phần vốn góp. Dựa trên phần vốn
góp mà ta cũng có thể xác định được quyền hạn và nghĩa vụ của các thành
viên góp vốn. Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu phần vốn góp (người
góp vốn) có các quyền sau:
- Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận của công ty tương ứng với
tỷ lệ giá trị phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ tương ứng với tỷ lệ giá trị phần
vốn góp nếu công ty làm ăn thua lỗ khi đang hoạt động cũng như khi công ty
kết thúc hoạt động; nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ phần vốn
góp sau khi đã thanh toán hết các nghĩa vụ của công ty khi công ty bị giải thể,
phá sản.
- Quyền phi tài chính: như quyền được biểu quyết trong công ty khi có
các vấn đề cần lấy ý kiến biểu quyết, quyền thông tin các vấn đề liên quan đến
hoạt động kinh doanh và quản lý của công ty như xem sổ sách kế toán và hồ
sơ khác của công ty.
Mặt khác, xem xét dưới khía cạnh nghĩa vụ, Điều 48.2 Luật doanh
nghiệp năm 2014 đã quy định rõ nghĩa vụ góp vốn của thành viên công ty:
“Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản
như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày,
kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên


18

công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công ty bằng các tài sản khác với
loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại.
Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ
phần vốn góp như đã cam kết góp”. Và Khoản 3 Điều 48 Luật doanh nghiệp
xác định rõ số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên với công ty:
“Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản
như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày,

kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên
công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công ty bằng các tài sản khác với
loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại.
Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ
phần vốn góp như đã cam kết góp”.
Cam kết thực chất là nghĩa vụ của thành viên với công ty. Chính vì vậy,
thành viên không góp đủ và đúng hạn phần vốn đã cam kết góp thì thành viên
đó sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn đã cam kết đối với các
nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty
đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên công ty.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty
Theo giáo sư Michael Blackeney của Viện nghiên cứu sở hữu trí tuệ
Queen Mary – Đại học London thì khái niệm chuyển nhượng được hiểu như
sau: Chuyển nhượng là việc chủ sở hữu bán tất cả các quyền SHTT độc quyền
của mình và được một cá nhân khác hoặc pháp nhân khác mua lại các quyền
đó. Khi tất cả các quyền độc quyền đối với một sáng chế đã được bảo hộ được
chủ sở hữu của nó chuyển giao cho một cá nhân hoặc một pháp nhân khác mà


19

không có một giới hạn bất kỳ về thời gian hoặc các điều kiện khác thì việc
chuyển nhượng các quyền đó xem như đã được thực hiện[5].
Theo giáo trình Luật dân sự của Đại học Luật Hà Nội thì khái niệm
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận của các bên, theo đó người
sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển
nhượng, còn người được chuyển nhượng trả một khoản tiền nhất định, tương
ứng với giá trị quyền sử dụng đó.
Qua phân tích ở trên ta thấy rằng chuyển nhượng là việc chủ sở hữu

giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người nhận chuyển nhượng và nhận
được từ người nhận chuyển nhượng một khoản tiền tương đương với giá trị
tài sản đó. Ở đây ta thấy có sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ.
Cùng mang bản chất là “chuyển nhượng” tuy nhiên việc chuyển
nhượng phần vốn góp trong công ty lại được hiểu một cách cụ thể như sau:
Việc chuyển nhượng vốn trong công ty là việc chuyển giao quyền sở hữu của
một thành viên đối với công ty cho một người khác (có thể là thành viên hoặc
không phải là thành viên của công ty). Như vậy, một người có thể trở thành
chủ sở hữu trong công ty thì họ có thể thực hiện việc góp vốn thành lập công
ty (tạo lập vốn ban đầu cho công ty) hoặc họ mua lại quyền sở hữu công ty
của thành viên nào đó. Chính vì vậy, muốn làm rõ bản chất của quá trình
chuyển nhượng vốn thì cần phân biệt “quyền sở hữu tài sản của công ty” và
“quyền sở hữu tài sản của các thành viên công ty” và thấy được sự khác nhau
giữa vốn góp và phần vốn góp.
Như đã phân tích ở trên, ta thấy các thành viên trong công ty không
phải là người sở hữu một phần tài sản của công ty mà họ là đồng chủ sở hữu
công ty. Xét về mặt pháp lý, đối tượng quyền sở hữu của các thành viên là


20

công ty, mà các tài sản góp vốn hiện hữu trong công ty chỉ là sự hiện thực hóa
sự tồn tại của công ty đó mà thôi. Tuy nhiên, quyền sở hữu đó được thực hiện
như thế nào và làm thế nào để xác định được phần quyền sở hữu của từng
thành viên trong công ty? Một nguyên tắc chung thống nhất để xác định mức
độ quyền sở hữu của từng thành viên là tỷ lệ vốn góp của các thành viên trong
công ty mà không phải căn cứ vào việc là họ góp bao nhiêu ở công ty. Quay
trở lại với ví dụ về phần vốn góp trong công ty TNHH ABC. Như ví dụ đã
nêu, vốn góp của A vào công ty là 50 triệu, còn phần vốn góp của A là 1/7

(chiếm khoảng 15% vốn góp của công ty). Trong trường hợp này nếu A
chuyển nhượng vốn cho một người nào đó, có nghĩa là A chuyển phần quyền
sở hữu công ty của mình cho họ là 1/7 quyền sở hữu công ty. Trong khi vốn
góp của A là 50 triệu nhưng giá trị chuyển nhượng phần vốn góp có thể cao
hơn nhiều lần giá trị tài sản đem góp vốn lúc ban đầu.
Do đó, việc chuyển nhượng phần vốn góp từ một thành viên của
công ty cho một ai đó không phải là chuyển nhượng giá trị tài sản đã đem
góp vốn của họ trong công ty mà là chuyển nhượng giá trị phần quyền sở
hữu công ty của mình cho người khác. Chuyển nhượng phần vốn góp
trong công ty có những đặc điểm nổi bật như sau:
Một là, chuyển nhượng phần vốn góp là hình thức mua bán một phần
doanh nghiệp nếu chuyển nhượng phần vốn góp chi phối. Bên nhận chuyển
nhượng phần vốn góp sẽ có quyền sở hữu một phần công ty và có quyền kiểm
soát công ty đó. Trong trường hợp nếu bên nhận chuyển nhượng nhận chuyển
nhượng phần vốn góp đến một tỷ lệ nhất định (đạt tỷ lệ phần vốn góp chi
phối) trong công ty thì trường hợp này sẽ được coi là mua bán doanh nghiệp.
Hai là, về chủ thể chuyển nhượng. Chủ sở hữu không bị bắt buộc phải
chịu ràng buộc suốt đời với phần vốn góp. Vì vậy, khi không còn nhu cầu sở


21

hữu phần vốn góp đó nữa chủ sở hữu hoàn toàn có thể chuyển nhượng nó với
tư cách là một loại tài sản trong giao dịch dân sự. Chủ thể nhận chuyển
nhượng phần vốn góp có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu sở hữu, có đủ
năng lực tài chính và đáp ứng đủ các điều kiện luật định thì đều có nhận
chuyển nhượng phần vốn góp đó. Bên từ bỏ quyền sở hữu đối với phần vốn
góp là bên chuyển nhượng.
Ba là, phần vốn góp với tư cách là một loại tài sản, có giá trị tiền tệ
được tự do chuyển giao trong giao lưu dân sự nhưng nguyên tắc tự do chuyển

giao bị hạn chế bởi một số ngoại lệ về: điều khoản về sự chấp thuận, điều
khoản về quyền ưu tiên và điều khoản cấm chuyển nhượng cổ phần ưu đãi
biểu quyết. Tất cả các điều khoản hạn chế này do pháp luật doanh nghiệp quy
định chi tiết.
Bốn là, chuyển nhượng phần vốn góp phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về điều kiện và thủ tục chuyển nhượng ứng với mỗi loại hình công
ty khác nhau.
Năm là, chuyển nhượng phần vốn góp không chỉ đơn giản là sang tên
các khoản vốn điều lệ, điều chỉnh đăng ký kinh doanh của công ty mà chủ thể
chuyển nhượng phần vốn góp còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài
chính đối với cơ quan nhà nước. Theo nguyên tắc đánh thuế thu nhập, bên nào
phát sinh thu nhập thì bên đó chịu thuế.
1.1.3. Phân biệt giữa chuyển nhượng phần vốn góp với các hình thức
định đoạt phần vốn góp trong công ty
1.1.3.1. Thừa kế phần vốn góp


×