Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.09 KB, 18 trang )

Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải
rắn ở Việt Nam

Bùi Đức Nhật

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí và pháp luật về
bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng.
Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các của pháp luật về phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn. Luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ
môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, đồng thời đề ra các giải
pháp để hoàn thiện các quy định này.

Keywords: Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Phí môi trường; Chất thải rắn

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường và phát triển có mối quan hệ khăng khít với nhau. Môi trường là địa bàn và
đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên những biến đổi tích cực và tiêu cực
đối với môi trường. Phát triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên
trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường, nhưng nếu vì phát
triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được hoặc khai thác
quá khả năng phục hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ không còn nguyên liệu, năng
lượng để phát triển, từ đó dẫn tới đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống kinh tế.
Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế và trong cuộc sống sinh hoạt của con người lượng
chất thải thải ra môi trường ngày càng nhiều, tác động xấu đến không khí, nước, đất và các


yếu tố môi trường khác làm tổn hại môi trường sống và khiến cho hệ thống kinh tế không thể
hoạt động một cách bình thường được. Bên cạnh mưa xít là thảm họa thủng tầng ôzôn. Tầng
ôzôn được ví như là một tấm áo che phủ trái đất tránh khỏi những tia từ ngoại trực tiếp từ mặt
trời. Theo báo cáo môi trường của Liên hợp quốc, nếu tầng ôzôn mỏng đi 1% thì cường độ
của tia tử ngoại chiếu xuống mặt đất sẽ tăng lên 2%, tỷ lệ về bệnh ung thư da sẽ tăng lên 8%
mưa axít, tia tử ngoại cũng sẽ làm tổn thương lớn tới vật nuôi, cây trồng cả trong nước lẫn
trên mặt đất. Ước tính với tốc độ tăng trưởng công nghiệp như hiện nay, thì tới năm 2075 tầng
ôzôn sẽ giảm đi 40% so với năm 1985. Khi đó, thế giới sẽ có 150 triệu người mắc bệnh ung
thư da, 18 triệu người bị đục thuỷ tinh thể, tài nguyên thuỷ sản sẽ tổn thất 25%, sản lượng
mùa màng sẽ giảm 7,5% Còn nếu như tầng ôzôn bị phá huỷ thì con người và mọi sinh vật
trên trái đất sẽ bị huỷ diệt bởi tia tử ngoại của mặt trời.

2
Vì vậy, phát triển phải đi đôi với quản lý và bảo vệ môi trường. Hài hòa giữa
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường trong đó có việc lựa chọn các công cụ để
đảm bảo sự phát triển hài hòa đó đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế
giới. Trong đó, việc sử dụng các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường là
một trong những biện pháp khả thi nhất vì nó không mâu thuẫn hay đi ngược lại
các mục tiêu của kinh tế thị trường mà ở nó có sự kết hợp hợp lý giữa phát triển
kinh tế với bảo vệ môi trường.
Trên thế giới và đặc biệt trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD) các công cụ
kinh tế là biện pháp quản lý và bảo vệ môi trường đã và đang được ứng dụng rộng rãi. Việt
Nam hiện nay được xếp vào diện các nước có nền kinh tế chuyển đổi, điều đó có nghĩa là
chúng ta đang chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường khi mà lợi nhuận là thứ được đặt lên hàng đầu thì
đôi khi vì lợi nhuận thu được mà con người cố tình làm ngơ trước sự phá hoại môi
trường. Đứng trước tình trạng đó buộc chúng ta phải sử dụng các công cụ kinh tế để
tạo ra các động cơ khuyến khích, thúc đẩy con người cố gắng giảm bớt mức phát

thải ô nhiễm, hoặc áp dụng các công nghệ sạch hơn cho môi trường để đảm bảo tăng
trưởng đi đôi với duy trì chất lượng môi trường như chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta đề ra.
Một trong các công cụ kinh tế quan trọng bên cạnh thuế bảo vệ môi trường là
phí bảo vệ môi trường. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, một vấn đề phổ biến
đang diễn ra thường xuyên, hàng ngày ở mọi nơi trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Việc tìm hiểu và phân tích quy định của pháp luật trong lĩnh vực này đối với việc
bảo vệ môi trường là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo
sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Với những lý do đó, việc nghiên cứu Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở
Việt Nam″ có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay các bài viết và các đề tài nghiên cứu về phí bảo vệ môi trường đối với
chất thải rắn còn rất ít, chủ yếu là các bài viết liên quan đến quản lý chất thải rắn là chủ
yếu, đó là bài viết của TS. Nguyễn Văn Phương: "Chất thải và các quy định về quản lý chất
thải", Tạp chí Luật học, số 4/2003; bài viết của TS. Nguyễn Văn Phương: "Một số vấn đề về
khái niệm chất thải", Tạp chí Luật học, số 10/2006; bài viết của Lê Kim Nguyệt: "Một cơ chế
phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
11/2002; đề tài "Một số vấn đề quản lý chất thải y tế tại Hà Nội", Khóa luận tốt nghiệp của
Nguyễn Kim Thoa, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; đề tài khoa học cấp trường
của TS. Nguyễn Văn Phương:"Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải",2008; đề
tài "Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam", khóa luận tốt nghiệp của
Nguyễn Thu Loan, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009 v.v
Hầu hết các đề tài, bài viết này chỉ đi phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến quản
lý chất thải rắn và chỉ có một số khía cạnh liên quan đến phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn mà chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào đề cập một cách toàn

3
diện và có hệ thống, có tính chuyên sâu về vấn đề phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn

ở Việt Nam. Do đó đề tài mà luận văn đề cập sẽ là bài viết đi sâu vào tìm hiểu pháp luật về
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, là vấn đề mà chưa được quan tâm nghiên cứu
nhiều trong mối tương quan với các vấn đề liên quan đến công cụ kinh tế trong quản lý chất
thải.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích:
Một là, làm sáng tỏ những vấn đề chung về phí và pháp luật về phí bảo vệ môi trường nói
chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng, phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn;
Hai là, chỉ ra những thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định pháp luật hiện hành về
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy
định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí và pahps luật về bảo vệ
môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng;
+ Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các của pháp luật về phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn;
+ Luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo
vệ môi trường đối với chất thải rắn, đồng thời đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định
này.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những khái niệm về phí, pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn; các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện hành về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này
qua hoạt động thu phí ở một số địa phương trong những năm gần đây.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung nghiên cứu các
quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn trong pháp luật bảo vệ môi trường

Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy định cụ thể về phí bảo vệ môi trường đối với
chất thải rắn này, luận văn có đề các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường được
quy định trong Luật Bảo vệ môi trường cũng như nghiên cứu một cách khái quát về các công
cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường hiện đang được áp dụng ở một số nước trên thế
giới. Tuy nhiên, cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu toàn diện và có hệ
thống về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn theo quy định của pháp luật Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ
trương, quan điểm về việc bảo vệ môi trường phát triển bền vững.

4
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích,
tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi
những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
trong nội dung luận văn.
5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Luận văn là một công trình nghiên cứu về phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn - một công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường hiện mới được áp
dụng tại Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn ở chỗ: tìm ra được
những tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với chất thải rắn. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần
vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở
bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực pháp lý và là tư liệu tham khảo đối
với cơ quan và tổ chức hữu quan.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về phí và pháp luật phí và pháp luật bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí môi trường đối với chất
thải rắn ở Việt Nam.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÍ VÀ PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về công cụ kinh tế trong quản lý bảo vệ môi trường
1.1.1. Khái niệm về công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
Công cụ quản lý và bảo vệ môi trường được hiểu là các phương thức hay biện pháp hành
động thực hiện công tác quản lý và bảo vệ môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và
sản xuất. Các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường rất đa dạng. Nhưng tuy nhiên, về cơ bản,
các công cụ kinh tế thường mang lại hiệu quả cao hơn so với các công cụ khác.
Dưới góc độ pháp lý thì công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là những
công cụ chính sách do pháp luật quy định được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích
của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thường xuyên tác động tới môi trường
nhằm thay đổi hành vi của con người theo hướng có lợi cho môi trường.
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005: công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
bao gồm: ngân sách nhà nước về bảo vệ môi trường; thuế môi trường; phí bảo vệ môi
trường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên

5
nhiên; quỹ bảo vệ môi trường và các chính sách ưu đãi và hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi
trường.
1.1.2. Đặc điểm của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
Thứ nhất, công cụ kinh tế có tính linh hoạt và mềm dẻo tạo điều kiện cho các tổ chức và cá

nhân hành động sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
Thứ hai, công cụ kinh tế có tính hiệu quả về bảo vệ môi trường, nhất là trong nền kinh tế
thị trường; Công cụ kinh tế sử dụng lợi ích kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường do đó các
hành vi môi trường được điều chỉnh một cách tự giác; Sử dụng công cụ kinh tế sẽ đảm bảo
tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao khả năng tái chế, tái sử dụng chất thải.
Thứ ba, công cụ kinh tế có tính công bằng về mặt xã hội, bởi lẽ, một trong những nguyên
tắc hình thành lên công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là nguyên tắc "Người
gây ô nhiễm phải trả tiền" và nguyên tắc "Người hưởng lợi phải trả tiền".
Thứ tư, công cụ kinh tế có tính kích thích lợi ích kinh tế.
Thứ năm, công cụ kinh tế bảo đảm bảo vệ môi trường gắn liền trong quá trình sản xuất,
kinh doanh.
1.1.3. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
Thứ nhất, so với các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường khác, công cụ kinh tế có một
số ưu điểm nhất định và chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công
cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
Thứ hai, các công cụ kinh tế tạo ra nguồn lực tài chính cần thiết để quản lý và bảo vệ môi
trường.
Thứ ba, các công cụ kinh tế kích thích các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho
môi trường qua đó góp phần định hướng nền kinh tế phát triển thân thiện với môi trường.
1.2. Quan niệm về phí môi trường đối với chất thải rắn
* Quan niệm về phí bảo vệ môi trường
Phí bảo vệ môi trường là một khoản thu của ngân sách Nhà nước, được thu từ các tổ
chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh các nguồn tác động xấu
đối với môi trường nhằm hình thành lên nguồn tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường.
Đặc trưng phí bảo vệ môi trường:
Thứ nhất, về đối tượng nộp phí. Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Luật Bảo vệ môi
trường 2005 thì "tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh
nguồn tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ môi trường".
Thứ hai, về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường là các chất thải như nước thải (Điều 2
Nghị định số 67/2003/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung) hoặc là các yếu tố vật chất là đối

tượng tác động của các hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường như
các loại khoáng sản: đá, cát, đất, than, sét, sỏi…trong hoạt động khai thác khoáng sản (Điều 2
Nghị định số 137/2005/ NĐ-CP).
Thứ ba, về mức phí, theo quy định tại khoản 2 Điều 113 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì
mức phí bảo vệ môi trường được quy định trên cơ sở:
- Khối lượng chất thải ra môi trường, quy mô ảnh hưởng tác động xấu đối với môi trường.
- Mức độ độc hại của chất thải, mức độ gây hại đối với môi trường;
- Sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải.

6
Thứ tư, phí bảo vệ môi trường thường mang tính địa phương, ngành kinh tế sâu sắc. Bởi
lẽ, sức chịu tải của môi trường ở mỗi địa phương, mỗi ngành kinh tế khác nhau là khác nhau.
Bên cạnh việc chỉ ra các đặc điểm của phí bảo vệ môi trường, cũng cần phân biệt phí bảo
vệ môi trường với thuế môi trường sẽ được áp dụng trong thời gian tới.
- Về đối tượng, nếu thuế môi trường là lượng sản phẩm của cơ sở sản xuất hoặc doanh thu
do bán sản phẩm thì phí bảo vệ môi trường là lượng chất gây ô nhiễm có trong dòng thải hoặc
khối lượng, số lượng các yếu tố vật chất là đối tượng tác động của các hoạt động làm phát
sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường.
- Thuế môi trường không mang tính hoàn trả trực tiếp, nhưng phí bảo vệ môi trường lại
mang tính hoàn trả trực tiếp rõ ràng.
- Phạm vi áp dụng của thuế môi trường không có giới hạn, khác biệt giữa các địa phương,
ngành kinh tế, nhưng đối với các khoản thu từ phí bảo vệ môi trường có thể mang tính địa
phương, ngành kinh tế.
Ưu điểm của phí bảo vệ môi trường:
Thứ nhất, phí bảo vệ môi trường góp phần tạo nên sự công bằng đối với thiên nhiên môi
trường theo lối có vay, có trả.
Thứ hai, phí bảo vệ môi trường khuyến khích người gây ô nhiễm giảm phát thải.
Thứ ba, phí bảo vệ môi trường khuyến khích các chủ thể nghiên cứu, đổi mới công nghệ
kiểm soát ô nhiễm và sử dụng công nghệ sạch.
Hạn chế của phí bảo vệ môi trường:

Thứ nhất, chi phí quan trắc cao. Để tính toán được số phí phải nộp của mỗi chủ thể đòi hỏi
phải xác định được tổng lượng thải và nồng độ từng chất gây ô nhiễm trong dòng thải hoặc quy
mô ảnh hưởng của các tác động xấu đối với môi trường. Việc làm này đòi hỏi một khoản chi phí
không nhỏ.
Thứ hai, trong một số trường hợp phí bảo vệ môi trường không phát huy được tác dụng
bảo vệ môi trường. Đó là trường hợp mức phí thấp không đủ liều lượng để buộc các chủ thể
phải quan tâm hơn đến việc cải thiện dòng thải.
* Quan niệm về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn là một loại phí bảo vệ môi trường có đối
tượng chịu phí là các chất thải rắn theo quy định của pháp luật.
Có thể hiểu chất thải rắn là tất cả các loại vật chất tồn tại ở thể rắn được con người loại bỏ
trong các hoạt động kinh tế - xã hội của mình (bao gồm các hoạt động sản xuất, hoạt động
sống, và duy trì sự tồn tại của cộng đồng…). Chất thải rắn gồm các chất hữu cơ, nhựa, vải sợi,
đất, đá, cát và các tạp chất khác, so với các chất thải ở thể lỏng và thể khí, chất thải rắn có những
tính đặc tính riêng như dế phân loại, dễ thu gom, dễ xác định khối lượng Do đó, việc tính mức
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn phải nộp được xác định dựa trên khối lượng chất thải
và loại chất thải rắn (chất thải rắn thông thường hay chất thải rắn nguy hại).
1.3. Cơ sở của việc xây dựng các quy định pháp luật về phí môi trường đối với chất
thải rắn
1.3.1. Xuất phát từ nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polluter Pays Principle
- PPP)
Cụ thể hóa nguyên tắc này, khoản 5 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trương quy định: "Tổ chức,

7
hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường
thiệt hại và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật".
1.3.2. Xuất phát từ quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường
Đảng ta đã khẳng định: "Áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường là giải
pháp phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường, đảm bảo người gây ra thiệt hại và được hưởng
lợi từ môi trường phải trả tiền"

1.3.3. Xuất phát từ quy định về thu phí bảo vệ môi trường trong Luật Bảo vệ môi
trường nhằm tạo nên nguồn lực bảo vệ môi trường
Khoản 1 Điều 113 Luật Bảo vệ môi trường quy định: "Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi
trường hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí
bảo vệ môi trường".
1.4. Kinh nghiệm của một số nước về sử dụng phí môi trường và gợi mở cho Việt
Nam
Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm ở một số nước thuộc OECD (Canada, Pháp,
Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Điển, Mỹ và một số nước khác) có thể rút ra một số nét cơ bản về việc
sử dụng phí môi trường bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn nói riêng.
Còn đối với các quốc gia đang phát triển: Đến nay, hệ thống quản lý môi trường ở các
nước đang phát triển chủ yếu vẫn dựa vào các công cụ mệnh lệnh - kiểm soát. Tuy nhiên, vài
ba năm gần đây do có sự trợ giúp về mặt kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước OECD, một
số Chính phủ đã bắt đầu chú ý thích đáng hơn đến các công cụ kinh tế là các biện pháp mà các
nhà kinh tế cho là có tính hiệu quả cao xét từ góc độ chi phí thực hiện. Tuy đã được chú ý đến
ngay từ những năm 1970, nhưng các công cụ kinh tế mới chỉ được áp dụng trong một số ít
nước có nền kinh tế phát triển hơn như: các nước Công nghiệp mới (NIC), Thái Lan,
Malaysia, Trung Quốc với phạm vi còn hạn chế trong một số ngành hoặc lĩnh vực. Công cụ
kinh tế thường được những nước này áp dụng nhất là phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm và phí
đánh vào sản phẩm. Khác với một số nước OECD, những nước này không áp dụng các loại
phí môi trường một cách riêng biệt mà luôn thực hiện nó trong sự phối hợp chặt chẽ với hệ
thống pháp luật và biện pháp hành chính.
Kinh nghiệm thực tiễn của các nước OECD và các nước đang phát triển rút ra từ việc áp
dụng các công cụ kinh tế, xét trên cả hai góc độ lý luận và thực tiễn cho thấy: các nước trên
thế giới ngày càng có xu hướng nội vi hóa các chi phí và lợi ích môi trường để hướng tới sự
phát triển bền vững trong tương lai. Muốn thực hiện được điều này cần phải sử dụng ngày
càng sâu rộng hơn các công cụ kinh tế vào hoạch định chính sách môi trường của quốc gia.
Bài học kinh nghiệm sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đối với liên quan
đến chính sách thu phí môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn

nói riêng ở Việt Nam:
Kinh nghiệm của nước ngoài về sử dụng các công cụ kinh tế vào hoạch định chính sách
môi trường cho thấy: đối với các nước đang phát triển và các nước trong quá trình chuyển đổi
sang cơ chế thị trường như Việt Nam, do điều kiện luật pháp, thể chế chưa hoàn thiện, trình
độ dân trí chưa cao, nên có nhiều vấn đề đặt ra cần cân nhắc kỹ trước khi xây dựng và vận
dụng các công cụ kinh tế trong việc bảo vệ môi trường:

8
- Các vấn đề kỹ thuật: Cơ sở để xác định mức thuế là cần phải nắm được chi phí hoạt
động của người gây ô nhiễm, phải có hệ thống giám sát ô nhiễm (monitoring), các điều kiện
địa lý, tỷ lệ lạm phát
- Các vấn đề chính trị: Đó là sự phản ứng của công chúng, các nhóm xã hội khi đánh thuế
môi trường do nhận thức về môi trường còn thấp. Các doanh nghiệp có thể phản đối thuế môi
trường vì chúng làm tăng thêm gánh nặng chi phí sản xuất đối với họ, làm tăng khả năng cạnh
tranh trên thương trường.
- Các tác động về mặt phân phối, trợ cấp: Từ kinh nghiệm của các nước đã và đang sử
dụng công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường cho thấy nó có thể gây tác động tiêu cực tới
nhóm dân cư thu nhập thấp. Để khắc phục tình trạng đó, chúng ta có thể áp dụng các biện
pháp đặc biệt để giảm nhẹ gánh nặng này, chẳng hạn thông qua các ngành có mức độ giảm
thuế, ưu đãi, tín dụng hoặc trợ cấp nhất định.
Các vấn đề về thể chế, trách nhiệm pháp lý môi trường: Sử dụng các công cụ kinh tế đòi
hỏi phải có các cơ cấu thể chế phù hợp, đặc biệt là giám sát thi hành chính sách.
Đối với Việt Nam, khi vận dụng các công cụ kinh tế vào hoạch định chính sách môi
trường cần phải xem xét đến các yếu tố tác động sau đây:
Bổ sung và hoàn thiện các chính sách Nhà nước
- Cần phải thừa nhận và phổ cập nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền" và nguyên
tắc "người hưởng lợi phải trả tiền".
- Xây dựng một hệ thống các công cụ kinh tế ngày càng hoàn chỉnh cho bảo vệ môi
trường với những đặc điểm và tính chất của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Kết hợp hài hòa giữa các chức năng thu nhập ngân sách và chức năng khuyến khích
nhằm bảo vệ ngân sách và chức năng khuyến khích nhằm bảo vệ môi trường thông qua các
công cụ kinh tế.
- Kết hợp vận dụng các công cụ kinh tế với cải cách tài khóa (ví dụ, xóa bỏ các bất hợp lý
về thuế, giảm bớt các loại thuế, thực hiện chính sách cải cách phù hợp với cơ chế thị trường )
- Xác định rõ mục tiêu và khuôn khổ pháp lý thể chế các lĩnh vực tác dụng của công cụ
kinh tế (cá nhân gây ô nhiễm, ngành gây ô nhiễm, phân nhóm mục tiêu) để từ đó có thể vận
dụng chính xác, dễ dàng và đơn giản các công cụ kinh tế vào mục đích quản lý môi trường
theo các đối tượng gây ô nhiễm.
Những bài học rút ra cho Việt Nam đã trình bày ở trên là dựa trên cơ sở nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước thuộc OECD và các nước đang phát triển đã sử dụng các công cụ kinh
tế vào quản lý môi trường đồng thời cũng căn cứ vào thực trạng phát triển kinh tế, những vấn
đề môi trường của Việt Nam. Chúng ta cũng đã có những bài học đầu tiên về sử dụng công cụ
kinh tế vào hoạch định chính sách môi trường kết hợp với các công cụ mệnh lệnh - kiểm soát.
Tuy nhiên, về nội dung cũng như hình thức, để sử dụng có hiệu quả các công cụ kinh tế vào
quản lý môi trường cần phải tiếp tục nghiên cứu ở mức độ sâu sắc hơn những cơ sở phương
pháp luận và cách thức áp dụng chúng vào thực tiễn ở nước ta, đặc biệt là trong giai đoạn
chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

Chương 2

9
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ MÔI TRƯỜNG
ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM
2.1. Các quy định pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn
2.1.1. Quy định về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường 2005, hiện nay điều chỉnh về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn còn bao gồm các văn bản: Nghị quyết số 41/NQ - TW của Bộ Chính trị,
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nghị

định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29 tháng 11 năm 2007 quy định về phí bảo vệ môi
trường đối với chất thải rắn (sau đây gọi là Nghị định 174/2007/NĐ-CP) và thông tư số
39/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/5/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số
174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn (sau đây gọi là Thông tư 39/2008/TT-BTC); Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày
03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí; Nghị định số
24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và
lệ phí; Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
các quy định pháp luật về phí và lệ phí và Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa
đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện các quy định pháp luật về phí và lệ phí; Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007
của Chính phủ về quản lý chất thải rắn là toàn bộ các cơ sở pháp lý liên quan đến pháp luật về
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Trong đó Nghị định 174/2007/NĐ-CP và thông tư
39/2008/TT- BTC là những văn bản điều chỉnh trực tiếp vấn đề này. Với những quy định và
hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác tiến hành thu cũng như quản lý, sử dụng phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn.
2.1.2. Quy định về đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Tại Điều 3 Nghị định 174/2007/NĐ-CP và Mục 3 Phần I Thông tư 39/2008/TT- BTC thì
đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn là các tổ chức, cá nhân có thải chất
thải rắn thuộc đối tượng chịu phí quy định tại Điều 2 Nghị định này, trừ những đối tượng tự
xử lý hoặc ký hợp đồng dịch vụ xử lý chất thải rắn đảm bảo tiêu chuẩn môi trường theo quy
định của pháp luật.
Các đối tượng không phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn được quy định
tại Điều 2 Nghị định 174/2007/NĐ-CP và Mục 4 Phần I Thông tư 39/2008/TT-BTC.
2.1.3. Quy định về mức thu và chế độ thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn được quy định tại Điều 5 Nghị định
số 174/2007/NĐ-CP và Mục 1, 2 Phần II Thông tư 39/2008/ TT - BTC.
2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ về phí bảo vệ môi trường

đối với chất thải rắn
- Quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn (các
tổ chức, cá nhân có thải chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại thuộc đối tượng
chịu phí theo quy định của pháp luật, trừ những đối tượng tự xử lý hoặc ký hợp đồng dịch vụ
xử lý chất thải rắn đảm bảo tiêu chuẩn môi trường theo quy định của pháp luật) được quy định
tại điều 8 và điều 12 Nghị định 174/2007/NĐ-CP và tại Mục 1 Phần III Thông tư 39/2008/TT-

10
BTC thì đối tượng nộp phí có nghĩa vụ nộp đủ, đúng hạn số tiền phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn cùng với phí vệ sinh cho đơn vị thu phí vệ sinh; có quyền khiếu nại, tố cáo
các vấn đề liên quan đến việc thu, nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn tại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải rắn được quy định tại các điều 8, Điều 9, Điều 10, điều 11, điều
12 Nghị định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ.
2.1.5. Quản lý và sử dụng số tiền thu được từ phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, được
quản lý, sử dụng như sau: Để lại một phần số phí thu được cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu
phí để trang trải chi phí cho việc thu phí theo quy định tại Điều 11, Điều 12 Nghị định số
57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002, đó là các nguyên tắc quản lý và sử dụng số tiền phí, lệ phí
như mọi khoản lệ phí thu được đều thuộc ngân sách nhà nước; tổ chức thực hiện thu lệ phí
phải nộp đầy đủ, kịp thời số lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước, trong trường hợp ủy
quyền thu thì tổ chức được ủy quyền thu lệ phí được để lại một phần trong số lệ phí thu được
để trang trải chi phí cho việc thu lệ phí Ngoài ra việc để lại một phần số phí thu được còn
phải tuân thủ quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí và hướng dẫn tại Thông tư số 63/2002/TT-
BTC ngày 24/7/2002; Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy định
pháp luật về phí và lệ phí.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn và những
vấn đề đặt ra
2.2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, từ khi pháp luật quy định về thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn và
các địa phương triển khai thu loại phí này đã tạo thêm một công cụ mới trong hệ thống các
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường nói chung, và phí bảo vệ môi trường đối với chất
thải rắn đã góp phần tạo nên sự công bằng đối với thiên nhiên môi trường theo lối có vay, có
trả.
Thứ hai, việc pháp luật hiện hành quy định mức phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn: đối với chất thải rắn thông thường là 40.000đ/tấn và chất thải rắn nguy hại là
6.000.000đ/tấn đã khuyến khích người gây ô nhiễm giảm phát thải. Phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải tạo cơ hội cho người nộp phí giảm số phí phải nộp bằng cách giảm lượng chất
thải rắn ra môi trường, từ đó giảm tác hại tới môi trường.
Thứ ba, việc tiến hành thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn đã khuyến khích
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng
Nai nghiên cứu, đổi mới công nghệ kiểm soát ô nhiễm và sử dụng công nghệ sạch để giảm
lượng chất thải rắn ra môi trường, có tác động tích cực trong công tác bảo vệ môi trường.
Thứ tư, việc Nghị định 174/NĐ-CP và thông tư 39/2008/TT-BTC quy định giao cho Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng mức phí bảo vệ môi trường áp
dụng cho từng địa bàn, từng loại đối tượng cụ thể tại địa phương để trình Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định là tạo ra tính linh hoạt và phù hợp.

11
2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Khoản tài chính thu được từ phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn không đủ đầu tư
cho khắc phục ô nhiễm, hoàn nguyên môi trường, do hành vi phát thải chất thải rắn gây ra.
Tác dụng của phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn còn thấp, nhất là tác dụng răn đe,
cùng với trình độ dân trí thấp và nhận thức không đầy đủ nên nhiều doanh nghiệp, người dân
đã chây ỳ trong việc nộp phí này.
Việc ban hành và thực thi chính sách thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở nước

ta nhiều bất cập: các quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn chưa điều chỉnh
rộng rãi đối với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng gây tác hại cho môi trường.
Thêm vào đó khoản thu từ phí bảo vệ môi trường nói chung và khoản thu từ phí bảo vệ môi
trường đối với chất thải rắn hiện nay là không đáng kể, mới chỉ góp phần huy động một phần
nhỏ nhằm khắc phục những tổn hại về môi trường
Mức phí môi trường đối với chất thải hiện nay còn thấp không đủ liều lượng để buộc các
chủ thể phải quan tâm hơn đến việc cải thiện hệ thống xử lý chất thải rắn.
Như vậy với số liệu trên chúng ta thấy rõ ràng công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với
chất thải rắn hiện nay không hiệu quả, gây thất thu cho NSNN một nguồn tài chính lớn và từ
đó gây khó khăn cho quá trình xử lý chất thải rắn để bảo vệ môi trường.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÍ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở
Việt Nam
Tiếp thu quan điểm tiến bộ trong giải quyết mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
của thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển bền vững là một trong những quan điểm
cơ bản của phát triển đất nước. Quan điểm này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X, cụ thể bằng Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25 tháng 6 năm
1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ
Chính trị.
Nội dung chủ yếu:
- Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung quan trọng của
phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường đảm bảo nguyên
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Để thực hiện các quan điểm trên của Đảng, việc hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau:
Một là, xây dựng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam cần
xuất phát và nằm trong tổng thể các chính sách, định hướng mang tính quốc gia về phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.
Hai là, giải quyết vấn đề xác định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.

12
Ba là, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường và các quy định liên quan đến phí bảo vệ môi
trường đối với chất thải rắn trong các lĩnh vực pháp luật, chú trọng các yếu tố môi trường trong
các văn bản pháp luật, chú trọng đến các yếu tố liên quan đến nguồn nước, đồng thời giải quyết
mối quan hệ giữa Luật bảo vệ môi trường và các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh về môi
trường, phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện pháp được quy định trong luật hành chính,
hình sự, dân sự, kinh tế trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt
là các biện pháp kinh tế để bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ môi
trường
Bốn là, xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật và các thiết chế khác liên quan đến
việc bảo đảm thực thi pháp luật về phí bảo trường đối với chất thải rắn.
Năm là, hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường trong đó có vấn đề xử lý vi phạm trong lĩnh vực nộp phí bảo vệ môi trường đối với
chất thải rắn, hoàn thiện các quy định xử lý về mặt dân sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật
môi trường
Sáu là, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trước tình hình mới,
cần sớm hoàn thiện chế định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong việc thu phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải rắn, phân công, phân cấp chức năng, nhiệm vụ rõ ràng giữa các
bộ ngành và địa phương trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; xác định rõ nội dung
của quản lý nhà nước về môi trường, xác định rõ chức năng, quyền hạn và quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường và Cơ quan quản lý Nhà nước trong các lĩnh
vực khác để tạo thuận lợi cho việc quản lý mà không gây phức tạp cho cơ sở.
Bảy là, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra và giám
sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
Tám là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi
trường nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho các tổ chức, cá nhân và đẩy mạnh

công tác xã hội hóa, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi
trường.
Chín là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế
về pháp luật môi trường nói chung và pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
nói riêng.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam
Tác giả luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp
luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam như sau:
3.2.1. Cần tiến hành rà soát các quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định về thuế bảo vệ môi trường
3.2.2. Điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn phù hợp với
thực tiễn và yêu cầu trang trải các chi phí bảo vệ môi trường
3.2.3. Cần tập trung nguồn thu từ phí môi trường vào Quỹ bảo vệ môi trường
3.2.4. Cần có các biện pháp ràng buộc các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trách nhiệm
bảo vệ môi trường trong xử lý chất thải rắn
3.2.5. Cần quy định cụ thể về chế tài xử lý khi đơn vị phải nộp phí bảo vệ môi trường

13
đối với chất thải rắn vi phạm nghĩa vụ nộp
3.2.6. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý môi
trường và những người làm công tác thu phí bảo vệ môi trường
3.2.7. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về pháp luật liên quan đến việc thu phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải rắn
Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định các quy định pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng công cụ phí
bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng trong
quản lý và bảo vệ môi trường.
"Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có
tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu

tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới". Đó là mục tiêu, là nhiệm vụ
mà Đảng đã đề ra. Để thực hiện được nhiệm đó đòi hỏi phải sử dụng hữu hiệu các công cụ kinh tế
trong quản lý và bảo vệ môi trường, trong đó có phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Để
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn phát huy được hiệu quả của mình trong quản lý và bảo
vệ môi trường đòi hỏi pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn phải được hoàn
thiện cùng với đó yếu tố con người cũng là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng giúp cho
việc nâng cao hiệu quả của việc sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn trong
quản lý và bảo vệ môi trường.

KẾT LUẬN
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ chế kinh tế đó, để hoạt động bảo vệ môi
trường không mâu thuẫn hay đi ngược lại các mục tiêu của kinh tế thị trường thì việc nghiên
cứu và áp dụng các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết, trong
đó có phí bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói
riêng.
Hiện nay, các quy định của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn đã tạo
ra cơ sở pháp lý cho việc thu và sử dụng tiền phí bảo vệ môi trường đối với chát thải rắn thu
được. Tuy nhiên, nhiều quy định của pháp luật về phí bảo vệ môi trường còn mang tính khái
quát, chưa cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, việc nghiên cứu là làm rõ hơn các quy định của pháp luật
về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn là hết sức cần thiết. Do vậy, tác giả đã lựa chọn
đề tài ″Phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam″ làm Luận văn thạc sĩ Luật học của
mình.
Qua ba chương nội dung của luận văn, tác giả đã cố gắng trình bày những vấn đề liên
quan tới phí và pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam, bao gồm:
những vấn đề lý luận, kinh nghiệm quốc tế, nội dung pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn ở Việt Nam, những đề xuất kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn.


14
Trong chương 1, sau khi trình bày sơ lược về công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi
trường, Luận văn đã đi vào phân tích những vấn đề lý luận chủ yếu về phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn như khái niệm, đặc điểm của phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn,
cơ sở của việc xây dựng các quy định pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải
rắn. Bên cạnh đó, chương 1 cũng đã nêu ra một số kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ phí
trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Chương 2, luận văn tập trung phân tích nội dung chủ yếu của pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với chất thải rắn, trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra những đánh giá về những gì đã đạt
được cũng như những hạn chế của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
hiện hành.
Chương 3, luận văn đưa ra một số đề xuất, kiến nghị của tác giả nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn cũng như nhằm nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn trên thực tế.
Công cuộc bảo vệ môi trường là cuộc chiến lâu dài, khó khăn giữa cái lợi trước mắt và
lâu dài, giữa lợi ích cục bộ (của cá nhân, tổ chức) và lợi ích chung của cộng đồng và toàn xã
hội. Để phí bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói
riêng phát huy được tác dụng và thật sự trở thành một loại công cụ kinh tế hữu hiệu trong
quản lý và bảo vệ môi trường đòi hỏi pháp luật về phí bảo vệ môi trường nói chung và pháp
luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng cần được tiếp tục hoàn thiện.

References
1. Vũ Bảo (2010), "Ô nhiễm môi trường đô thị Việt Nam thực trạng và giải pháp", Quản lý
nhà nước, (171).
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1997), Môi trường và kế hoạch hóa đầu tư, Dự
án VIE/97/007, Hà Nội.
4. Bộ Tài Chính (2002), Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7 hướng dẫn thực hiện các

quy định pháp luật về phí và lệ phí. Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5 về sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy
định pháp luật về phí và lệ phí, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/5 hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1999), Thông
tư liên tịch số 126/1999/TTLT-BTC-BCN-BKHCNMT ngày 22/10 hướng dẫn việc ký quỹ

15
để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản, Hà Nội.
8. Bộ Xây dựng (2007), Thông tư 13/2007/TT-BXD ngày 31/12 hướng dẫn một số điều của
Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Chính Phủ về quản lý chất thải rắn, Hà
Nội.
9. Các Công ước quốc tế về môi trường (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. "Cán bộ quản lý môi trưởng thiếu và yếu - Những lỗ hổng cần lấp sớm",
www.baomoi.com/Info.
11. Nguyễn Thế Chinh (Chủ biên) (1999), Áp dụng các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực
quản lý môi trường ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Chính phủ (2002), Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/06 quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Phi và lệ phí, Hà Nội.
13. Chính phủ (2003), Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06 về phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải, Hà Nội.
14. Chính phủ (2003), Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12 của Thủ tướng chính phủ
về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020, Hà Nội.
15. Chính phủ (2006), Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí, Hà Nội.

16. Chính phủ (2007), Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 08/01 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải, Hà Nội.
17. Chính phủ (2007), Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4 về quản lý chất thải rắn, Hà
Nội.
18. Chính phủ (2007), Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11 về phí bảo vệ môi trường
đối với chất thải rắn, Hà Nội.
19. Chính phủ (2010), Thuyết minh chi tiết về dự án Luật Thuế bảo vệ môi trường (ngày
06/4), Hà Nội.
20. Hoàng Xuân Cơ (2007), Giáo trình Kinh tế môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16
21. Hà Trọng Đại (2002), Các công cụ kinh tế trong quản lí và bảo vệ môi trường, Khoá luận
tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6 của Bộ Chính trị Về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41/NQ-TƯ của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Lưu Đức Hải (Chủ biên) (2006), Cẩm nang quản lý môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Phạm Thị Thu Hương (2010), Bàn về chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với các
hoạt động tái chế, tái sử dụng chất thải rắn ở Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp đại học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải một công cụ
quan trọng trong quản lý và bảo vệ môi trường, Khoá luận tốt nghiệp đại học, Trường

Đại học Luật Hà Nội.
29. Vũ Đức Khánh (2002), "Xử lý chất thải tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại
Việt Nam", Bảo vệ môi trường, (7).
30. Lê Văn Khoa (1995), Môi trường và ô nhiễm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
31. Đặng Mộng Lân (2007), Các công cụ quản lý môi trường, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà
Nội.
32. Nguyễn Thu Loan (2009), Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đặng Thị Thu Nga (2005), Những quy định pháp luật về quản lý chất thải, Khoá luận tốt
nghiệp đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
35. Ngân hàng thế giới (2008), Báo cáo về nguồn phí thu được từ bảo vệ môi trường.

17
36. Phạm Duy Nghĩa (2003), Cơ sở pháp luật kinh tế Việt Nam vì một nền kinh tế phát triển
bền vững và toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Ngừng (2004), Một số vấn đề về bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Bùi Đường Nghiêu (2006), Thuế môi trường, Nxb Tài chính, Hà Nội.
39. Lê Kim Nguyệt (2002), Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11/2002, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Phương (2003), "Chất thải và các quy định về quản lý chất thải",
Luật học, (4).
41. Nguyễn Văn Phương (2006), "Khái niệm chất thải và quy định về xuất nhập khẩu chất
thải của Cộng hoà liên bang Đức", Luật học, (4).
42. Nguyễn Văn Phương (2006), "Một số vấn đề về khái niệm chất thải", Luật học,
(10).
43. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
44. Bùi Thiên Sơn (2002), Nghiên cứu sử dụng công cụ tài chính tài chính để bảo vệ môi
trường trong điều kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế.

45. Nguyễn Thị Kim Thái (2002), "Hiện trạng chất thải rắn nguy hại từ công nghiệp và sinh
hoạt tại Hà Nội - các giải pháp quản lý phù hợp", Bảo vệ môi trường, (6).
46. Vũ Quyết Thắng (2005), Quy hoạch môi trường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Vũ Duyên Thủy (2009), "Pháp luật về giảm thiểu, phân loại, lưu giữ chất thải nguy hại ở
Việt Nam: thực trạng và giải pháp", Nhà nước và pháp luật, (1).
48. Vũ Thị Duyên Thủy (2009), "Vai trò của pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt
Nam", Luật học, (3).
49. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình Kinh tế và quản lý môi trường, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
50. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2006), Giáo trình Kinh doanh và môi trường, Nxb Đại
học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.

18
52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật môi trường, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
54. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật ngân sách nhà nước, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải, Đề tài
khoa học cấp trường, Hà Nội.
57. Từ điển môi trường Anh -Việt và Việt Anh, Nxb Đà Nẵng.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2008), Quyết định số 2379/QĐ-UBND ngày 04/8 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc ban hành kế hoạch bảo vệ môi trường tỉnh
Bình Dương giai đoạn 2007 - 2010, Bình Dương.
59. Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội (2010), Báo cáo số 1206/BC-UBTCNS12
ngày 12/3 về thẩm tra sơ bộ về Dự án Luật Thuế môi trường (Phụ lục 1: Số thu phí liên

quan đến bảo vệ môi trường các năm 2004 -2008), Hà Nội
60. Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội (2010) Báo cáo số 1206/BC-UBTCNS12
ngày 12/3 về thẩm tra sơ bộ Dự án Luật Thuế môi trường, Hà Nội.
61. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh Phí và lệ phí, Hà Nội.
62. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII, Báo cáo số 369/BC-UBTVQH12 về giải trình, tiếp
thu, chỉnh lý dự án Luật thuế bảo vệ môi trường, Hà Nội.
63. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
64. Phan Thị Uyên (2000), Nguyên tắc người gây thiệt hại phải trả giá, Khoá luận tốt nghiệp
đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

×