Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.03 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN DIỆU LOAN

KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU, ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH
CHUNG TRONG GIAO DỊCH GIỮA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
KINH DOANH VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN DIỆU LOAN

KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU, ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH
CHUNG TRONG GIAO DỊCH GIỮA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
KINH DOANH VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cương

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của
các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Cương, Phó
Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp với lòng nhiệt tình và sự quan
tâm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là thầy cô giáo và
các cán bộ của Khoa Đào tạo Sau Đại học - Đại học Luật Hà Nội đã giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và rèn luyện kiến thức tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã góp ý, tạo
điều kiện và hỗ trợ tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn của mình.
Cuối cùng, xin kính chúc các thầy giáo, cô giáo cùng toàn thể mọi người sức
khỏe, hạnh phúc và thành công.
Trân trọng./.
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016
Học viên

Trần Diệu Loan



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ
Giảng viên hướng dẫn là TS. Nguyễn Văn Cương. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong
phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần
tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016
Xác nhận của
Giảng viên hướng dẫn

Tác giả

TS. Nguyễn Văn Cương

Trần Diệu Loan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Nghĩa Tiếng Việt

ASEAN


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ACCP

Ủy ban điều phối quốc gia về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng của ASEAN

BLDS

Bộ luật dân sự

BVQLNTD

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

ĐKGDC

Điều kiện giao dịch chung

HĐTM

Hợp đồng theo mẫu

ICPEN

Mạng lưới cơ quan bảo vệ người tiêu dùng
thế giới

QLCT


Quản lý cạnh tranh


DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH

Bảng 1. Nhân sự triển khai hoạt động kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung tại Cục Quản lý cạnh tranh …………………………………………..42

Bảng 2. Số lượng hồ sơ đăng ký tại Cục Quản lý cạnh tranh từ năm 2012 đến 6
tháng đầu năm 2016 ………………………………………………………………45

Bảng 3. Phân loại các lĩnh vực thanh kiểm tra tại Sở Công Thương ……………...48


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 ........................................................................................................... 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU, ĐIỀU
KIỆN GIAO DỊCH CHUNG .................................................................................. 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung................................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung ....................... 6
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung ..... 7
1.2. Khái niệm kiểm soát và sự cần thiết phải kiểm soát hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung trong giao dịch với người tiêu dùng ....................... 9
1.2.1. Khái niệm và cơ chế kiểm soát ................................................................ 9

1.2.2. Sự cần thiết phải kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung trong giao dịch với người tiêu dùng ...................................................... 11
1.3. Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.. 14
1.4. Một số kinh nghiệm trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông
qua chế định hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung ........................ 16
1.4.1 Pháp luật một số nước............................................................................ 16
1.4.2 Sự kế thừa kinh nghiệm quốc tế trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng Việt Nam ................................................................................................ 26
CHƯƠNG 2 ......................................................................................................... 29
THỰC TIỄN KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU, ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH
CHUNG TRONG GIAO DỊCH GIỮA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH
VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG ................................................................................. 29
2.1. Quy định pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung trong giao dịch với người tiêu dùng ..................................................... 29
2.1.1 Đối tượng hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung bị kiểm soát .. 29
2.1.2 Cơ quan kiểm soát .................................................................................. 30
2.1.3 Cơ chế kiểm soát .................................................................................... 30
2.1.4 Phạm vi kiểm soát .................................................................................. 33
2.1.5 Quy định về chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm ............................... 39


2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều
kiện giao dịch chung......................................................................................... 42
2.2.1. Thực trạng về nguồn lực........................................................................ 42
2.2.2 Thực trạng công tác kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung .............................................................................................................. 44
2.2.3. Thực trạng công tác xử lý vi phạm ........................................................ 47
2.3. Một số dạng điều khoản vi phạm cụ thể ................................................... 49
2.3.1. Hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong lĩnh vực mua bán
căn hộ chung cư .............................................................................................. 49

2.3.2. Hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong lĩnh vực phát hành
thẻ ghi nợ nội địa; mở và sử dụng dịch vụ tài khoản thanh toán (áp dụng cho
khách hàng cá nhân); vay vốn cá nhân (nhằm mục đích tiêu dùng) ................. 53
2.4. Đánh giá thực trạng kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung................................................................................................................. 59
2.4.1. Đánh giá về quy định pháp luật ............................................................. 59
2.4.2. Đánh giá về thực trạng triển khai nhiệm vụ kiểm soát hợp đồng theo
mẫu, điều kiện giao dịch chung ....................................................................... 72
CHƯƠNG 3 ......................................................................................................... 74
KIẾN NGHỊ HƯỚNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT
HỢP ĐỒNG THEO MẪU, ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG ...................... 74
3.1. Bối cảnh ..................................................................................................... 74
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật ................................................. 75
3.2.1. Điều chỉnh cơ chế/ mô hình kiểm soát trong tương lai ........................... 75
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và các văn bản hướng dẫn thi hành ........................................................ 77
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý vi phạm hành chính ................................ 80
3.2.4. Tiếp tục giữ nguyên thẩm quyền của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ................................................................................................................ 81
3.3. Kiến nghị nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật ...................... 82
3.3.1. Tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .... 82
3.3.2. Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng
....................................................................................................................... 85
3.3.3. Tăng cường hợp tác quốc tế .................................................................. 86
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm
của toàn xã hội. Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi
trọng công tác này bởi lẽ bảo vệ người tiêu dùng chính là bảo vệ sự phát triển bền
vững của xã hội. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật có nội dung,
mục đích bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Việt Nam phải đối mặt
với những diễn biến mới trong việc quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
bị xâm hại. Trong đó, nổi lên là hình thức tổ chức, cá nhân sử dụng các hợp đồng
theo mẫu, điều kiện giao dịch chung mang ý chí đơn phương, áp đặt quyền lợi của
mình lên người tiêu dùng. Đứng trước những bất cập của Pháp lệnh Bảo vệ người
tiêu dùng 1999 trong tình hình mới, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Luật số 59/2010/QH12) vào ngày 17 tháng
11 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.
Sự ra đời của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam, trong đó
một trong những công cụ được kỳ vọng mang lại hiệu quả thiết thực chính là việc
kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung của các tổ chức, cá nhân
kinh doanh.
Từ khi có hiệu lực đến nay, chế định kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện
giao dịch chung bước đầu đã phát huy vai trò tích cực trong việc phát triển môi
trường kinh doanh lành mạnh giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua việc
loại bỏ các điều khoản xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng trong 11 (mười một)
nhóm hàng hóa, dịch vụ với phạm vi áp dụng rộng lớn từ hai tỉnh trở lên hoặc trên
phạm vi cả nước; qua đó tác động lên ý thức tuân thủ pháp luật và tôn trọng quyền
lợi người tiêu dùng của cộng đồng doanh nghiệp cũng như khuyến khích người tiêu
dùng lên tiếng yêu cầu quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Tuy nhiên, việc kiểm soát đang phải đối mặt với những khó khăn chính như sau:



2

Thứ nhất, việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chủ yếu tập trung vào cấp
Trung ương là Cục Quản lý cạnh tranh, chưa hiệu quả tại các Sở Công Thương nên
chưa tạo được sự đồng bộ trên cả nước;
Thứ hai, một số hoạt động quan trọng nhưng chưa được triển khai hoặc triển
khai chưa thường xuyên như kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
trong các lĩnh vực chưa thuộc phạm vi phải đăng ký hoặc việc thanh kiểm tra xử lý
vi phạm hành chính;
Thứ ba, cơ chế kiểm soát phù hợp với tình hình xã hội hiện tại. Tuy nhiên,
khi phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phát triển hơn, trình độ pháp quyền
của doanh nghiệp nâng cao và hoạt động của cơ quan tư pháp đơn giản và hiệu quả
hơn thì cơ chế can thiệp bằng công cụ hành chính như hiện nay sẽ đứng trước yêu
cầu cần thay đổi;
Thứ tư, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, chưa hướng tới việc khôi
phục quyền lợi bị xâm phạm của người tiêu dùng;
Thứ năm, có những ý kiến trái chiều về vai trò của cơ quan bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
trong một số lĩnh vực như bảo hiểm nhân thọ.
Trong khi đó, trong những vấn đề kinh tế trọng tâm của đất nước giai đoạn
tới có mục tiêu đô thị hóa, sự tập trung phát triển lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất
động sản. Đây là những lĩnh vực hiện nay đã được đưa vào Danh sách hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung theo
Quyết định 02/2012/QĐ-TTg ngày 13 tháng 01 năm 2012 về việc ban hành Danh
mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung và Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20 tháng 08 năm 2015 về việc
sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg. Dự báo trong thời gian tới, những
lĩnh vực này phát triển sẽ kéo theo sự phức tạp, đa dạng hơn nữa của các loại hợp
đồng giao kết với người tiêu dùng cũng như các vấn đề tranh chấp có thể phát sinh.
Bên cạnh đó, sự hội nhập của Việt Nam trong phong trào bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong khu vực và quốc tế thông qua việc tham gia vào các tổ chức
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thế giới như ACCP, ICPEN cũng đang đặt ra
những yêu cầu cao hơn trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt
Nam.


3

Vì những lý do nêu trên, việc lựa chọn đề tài “Kiểm soát hợp đồng theo
mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh
doanh với người tiêu dùng” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ luật sẽ góp
phần giúp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước đòi hỏi của
tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung được khá
nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu và phân tích. Chẳng hạn, đã có một số học
giả nghiên cứu về vấn đề này như F. Kessler, “Contracts of Adhesion--some
Thoughts about Freedom of Contract”, Colum.L.Rev.; Gillette, Clayton P.,
“Standard Form Contracts”,. NYU Law and Economics Research Paper No.09-18;
Thomas Wilhelmsson, “Standard Form Conditions”, Arthur S. Hartkamp, Towards
a European Civil Code, Kluwer Law; Martin Ebers, “Unfair Terms in B2C
Contracts”, CSECL Working Paper No. 7; P. Nebbia, “Unfair Contract Terms in
European Law”, A Study in Comparative and EC Law, Vol. 15; Schäfer, HansBernd, and Patrick C. Leyens, “Judicial control of standard terms and European
private law, Economic Analysis of the DCFR–The Work of the Economic Impact
Group within the CoPECL Network of Excellence, Munich”, Sellier European Law
Publishers; George Akerlof, “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the
Market Mechanism”, 84 QJ Econ; M. Schillig, “Inequality of Bargaining Power
Versus Market for Lemons: Legal Paradigm Change and the Court of Justice's
Jurisprudence on Directive 93/13 on Unfair Contract Terms”, Eur.Law Rev.,
Tại Việt Nam, vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch

chung được nghiên cứu và đưa vào giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của Trường đại học Luật Hà Nội. Ngoài ra, có một số học giả quan tâm nghiên
cứu như PGS.TS. Nguyễn Như Phát, “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng”; ThS. NCS Đỗ Giang Nam, “Bình luận về các quy
định liên quan đến hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung trong Dự thảo
Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” …
Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng dưới cái nhìn
phân tích, đánh giá chi tiết, tổng hợp về thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng tại
các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để từ đó tìm ra phương hướng, giải


4

pháp giải quyết vấn đề thì vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu thỏa đáng. Đây là cơ
hội để học viên chọn chủ đề “Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng”
làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng quy định và thực tiễn áp
dụng quy định pháp luật Việt Nam về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung.
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế trong pháp
luật một số quốc gia thu thập được tài liệu (bao gồm Canada (Quebec), Pháp, Châu
Âu, Đài Loan, Malaysia); quy định về pháp luật theo Luật BVQLNTD và các văn
bản hướng dẫn thi hành và thực trạng áp dụng pháp luật tại các cơ quan bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam trong thời gian từ năm 2012 đến nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu chính của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn trong việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung

theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời những câu hỏi sau về vấn đề kiểm soát hợp đồng
theo mẫu, điều kiện giao dịch chung:
Thứ nhất, tại sao phải đặt ra vấn đề kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện
giao dịch chung?
Thứ hai, việc kiểm soát có phù hợp với thực tiễn Việt Nam không và có cần
hoàn thiện thêm không?
Thứ ba, thực tế triển khai có hiệu quả và mang lại lợi ích cho xã hội không,
có khó khăn, vướng mắc cần khắc phục không?
Thứ tư, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả thực
thi pháp luật ra sao?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện theo các phương
pháp truyền thống như: phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật, biện chứng (lấy


5

nền tảng là nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
các quyền con người và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước), phương pháp phân tích, tổng hợp, luận giải, đánh giá v.v…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện
giao dịch chung theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng
dẫn thi hành.

Thứ hai, luận văn là công trình nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực, hiệu quả thực thi pháp luật về việc kiểm
soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao dịch với người tiêu
dùng.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được các cơ quan quản lý
nhà nước, các cơ quan nghiên cứu, tổ chức xã hội có chức năng, nhiệm vụ liên quan
tới công tác kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung tham khảo và
sử dụng; là tài liệu tham khảo cho sinh viên tại các đại học giảng dạy về pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
8. Bố cục của luận văn
Dựa trên mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, luận văn được cấu trúc
bao gồm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện
giao dịch chung;
Chương 2: Thực tiễn kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung trong giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng;
Chương 3: Kiến nghị hướng giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát hợp đồng
theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.


6

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HỢP ĐỒNG THEO MẪU,
ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
Trong nền kinh tế hiện đại, việc áp dụng HĐTM, ĐKGDC đã trở thành một
hiện tượng hết sức phổ biến.

Khi ký kết các hợp đồng với các nhà cung cấp hàng hóa hay sản phẩm đại
trà, người tiêu dùng dường như không nhìn thấy tinh thần “tự do khế ước” của hợp
đồng. Bên cạnh đó, họ thường phải chấp nhận những quy tắc bán hàng do chính nhà
cung cấp sản phẩm, dịch vụ đặt ra và về nguyên tắc những quy tắc này không phải
là đối tượng của việc đàm phán. Do tồn tại ở thế yếu, người tiêu dùng phải chấp
nhận và đôi khi không biết đến chúng mà cũng chẳng biết đến khả năng cần phải
kiểm soát chúng. Chỉ đến khi có tranh chấp xảy ra hay có một sự kiện nào đó, người
ta mới vỡ lẽ ra rằng, đây là một hiện tượng mang tính pháp lý có liên quan đến hợp
đồng.
Các HĐTM, ĐKGDC được các luật gia phương tây mô tả là đứa con của
cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 19. Việc xuất hiện khả năng sản xuất và cung
cấp các sản phẩm và dịch vụ mang tính hàng loạt và liên tục cho vô số các khách
hàng đã đặt ra vấn đề “tiêu chuẩn hoá” các điều khoản của các hợp đồng mua bán.
Trong bối cảnh đó, từ giữa thế kỷ trước, các doanh nghiệp, trước tiên là bảo hiểm,
giao thông, tín dụng rồi sau đó là các doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ, đều thiết lập
cho mình những quy tắc bán hàng thống nhất, áp dụng chung trong các giao dịch
với khách hàng của mình1.
Với pháp luật Việt Nam, vấn đề này được đề cập lần đầu tiên năm 1995
trong BLDS dưới khái niệm ban đầu là HĐTM. Đến nay, HĐTM, ĐKGDC được

1

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,
Trang thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày
truy cập 12/3/2016


7

điều chỉnh chủ yếu trong BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 (thay thế BLDS 2005)

và Luật BVQLNTD 20102.
Khái niệm về HĐTM lầu đầu tiên được định nghĩa trong BLDS 1995, sau đó
được định nghĩa trong Luật BVQLNTD 2010 và BLDS 2005. Điều 406 BLDS
1995, Điều 407 BLDS 2005 và Điều 405 BLDS 2015 lần lượt đưa ra định nghĩa
tương tự nhau: “HĐTM là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo
mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời
chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung HĐTM mà bên đề nghị đã đưa
ra”.
Luật BVQLNTD 2010 định nghĩa:“HĐTM là hợp đồng do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng” (khoản 3
Điều 3).
Khái niệm ĐKGDC lần đầu tiên được định nghĩa trong Luật BVQLNTD
2010 và đến năm 2015 được đề cập trong BLDS 2015. Khoản 5 Điều 3 Luật
BVQLNTD 2010 lần đầu tiên giới thiệu khái niệm “ĐKGDC” trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, theo đó, “ĐKGDC là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng
dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối
với người tiêu dùng”.
Tiếp nối quy định trong Luật BVNTD, Điều 406 BLDS 2015 lần đầu tiên
quy định về ĐKGDC trong BLDS, đã định nghĩa: “ĐKGDC là những điều khoản
ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp
đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận
các điều khoản này”.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
Từ những định nghĩa cụ thể nêu trên, có thể khái quát đặc trưng cơ bản của
HĐTM, ĐKGDC như sau3:
Một là, đây là những quy định, quy tắc, điều kiện do thương nhân đơn
phương ban hành. Đây có thể coi là đặc điểm nổi bật nhất của HĐTM, ĐKGDC.
Những quy tắc, quy định này được ban hành một cách đơn phương mà không có bất
2


Bên cạnh đó, một số pháp luật chuyên ngành cũng điều chỉnh vấn đề về điều khoản mẫu như trong Luật
Kinh doanh bảo hiểm.
3
Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,
Trang thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày
truy cập 12/3/2016.


8

kỳ sự thỏa thuận nào giữa thương nhân và người tiêu dùng. Vì vậy, HĐTM,
ĐKGDC thường thể hiện ý chí độc đoán và áp đặt của thương nhân, thường vì mục
tiêu dành lấy phần thuận lợi và an toàn pháp lý cho mình và đẩy quả bóng bất lợi
cho phía người tiêu dùng mà nội dung của nó lại có thể vi phạm pháp luật hoặc
không lành mạnh, thiếu đạo đức. Trong khi, các quy tắc, điều kiện đó dù thể hiện
trong hợp đồng (miệng hay văn bản) hay không nhưng trở thành nội dung mặc
nhiên của hợp đồng khi người tiêu dùng tham gia quan hệ tiêu dùng.
Hai là, HĐTM, ĐKGDC được áp dụng chủ yếu cho người tiêu dùng. Mục
đích của thương nhân khi ban hành các HĐTM, ĐKGDC là để tạo điều kiện thuận
lợi cho họ trong quá trình giao dịch với người tiêu dùng. Do vậy, đối tượng áp dụng
chủ yếu của HĐTM, ĐKGDC là người tiêu dùng. Thương nhân khi ban hành các
HĐTM, ĐKGDC không hướng đến các đối tượng khác như các nhà cung cấp
nguyên liệu, phụ kiện, các khách hàng lớn mà chủ yếu là để áp dụng cho đối tượng
là người tiêu dùng nhỏ lẻ. Điều này xuất phát từ thực tiễn kinh doanh của thương
nhân khi số lượng người tiêu dùng của họ là quá lớn không cho phép sử dụng các
hình thức giao kết hợp đồng truyền thống dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Về
phương diện này, HĐTM, ĐKGDC sẽ là công cụ quan trọng để cải tiến và hợp lý
hóa phương thức bán hàng hiện đại.
Ba là, HĐTM, ĐKGDC áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng nhiều
lần. Các quy tắc, quy định mà thương nhân ban hành không phải hướng đến một

người tiêu dùng nào cụ thể hay một trường hợp nào cụ thể mà nó như một “luật”
riêng mà thương nhân áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và sử dụng một cách lâu
dài. Phương thức bán hàng hóa truyền thống dựa trên cơ sở hợp đồng được giao kết
với từng đối tượng theo cách thức khác nhau và các quyền, nghĩa vụ cũng có thể có
sự khác nhau trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giữa thương nhân và người tiêu
dùng. Tuy nhiên, khi sử dụng HĐTM, ĐKGDC, thì dường như không có bất kỳ sự
phân biệt nào giữa các người tiêu dùng với nhau, hay nói cách khác là các quy tắc,
quy định mặc nhiên áp dụng cho tất cả người tiêu dùng khi xác lập giao dịch với
thương nhân.
HĐTM, ĐKGDC được thiết lập dưới nhiều hình thức đa dạng, bao gồm cả
hình thức “HĐTM” và “ĐKGDC” như được đề cập trong BLDS và Luật
BVQLNTD. Sự khác biệt giữa ĐKGDC và HĐTM thể hiện ở hai góc độ: (i) HĐTM
cần sự tuyên bố ý chí của chủ thể tham gia thông qua việc ký kết hợp đồng còn


9

ĐKGDC chỉ cần sự chấp nhận ý chí và (ii) HĐTM cần xác định chủ thể tham gia
còn ĐKGDC không cần xác định chủ thể. Theo đó, các ĐKGDC, thông thường
không nằm ngay trong bản hợp đồng, nó có thể được quy định trong các văn bản
riêng miễn là được bên cung cấp dịch vụ công bố công khai.
Mặc dù có sự khác biệt giữa khái niệm HĐTM và ĐKGDC theo quy định
của pháp luật Việt Nam nhưng cả hai khái niệm này đều cùng chỉ đến một hiện
tượng khi mà các HĐTM, ĐKGDC do một bên đơn phương soạn thảo hoặc công bố
và được sử dụng trên thực tế với đối tác mà không cần có sự thoả thuận, mặc cả về
nội dung của HĐTM, ĐKGDC đó. Bên còn lại không có khả năng đàm phán thay
đổi nội dung mà chỉ có khả năng chấp thuận hoặc từ chối điều khoản (take it or
leave it)4.
Bình luận số 2 của Điều 2.1.19 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng
Thương mại quốc tế đã miêu tả một cách chính xác đặc trưng đó như sau:

“Yếu tố quyết định không phải là hình thức trong đó các điều khoản này được
trình bày (ví dụ: các điều khoản này được chứa đựng trong văn bản riêng hay trong
chính hợp đồng; các điều khoản này được ban hành dưới dạng bản in sẵn hay chỉ
được lưu trữ online), cũng không phải người soạn thảo các HĐTM, ĐKGDC (chính là
một trong các bên, hay hiệp hội thương mại hay nghề nghiệp…), hay số lượng (bao
gồm toàn bộ các điều khoản liên quan đến tất cả các khía cạnh liên quan của hợp đồng
hay chỉ một hay hai điều khoản, chẳng hạn điều khoản miễn trừ trách nhiệm hoặc điều
khoản trọng tài). Yếu tố quyết định là việc thực tế các điều khoản này đã được soạn
sẵn để sử dụng chung, nhiều lần lặp đi lặp lại và trong trường hợp đó, được sử dụng
thực sự bởi một bên không dựa trên sự thương lượng với phía bên kia”5.
1.2. Khái niệm kiểm soát và sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng
theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao dịch với người tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm và cơ chế kiểm soát
Theo nghĩa chung, kiểm soát được hiểu là xem xét một hành vi có làm theo
đúng quy tắc, kỷ luật hay pháp luật không6 hoặc xem xét để phát hiện, ngăn chặn

4

F. Kessler (1943), “Contracts of Adhesion--some Thoughts about Freedom of Contract”, Colum.L.Rev., tr.
629.
5
Xem nguyên bản tiếng Anh tại < truy cập ngày 15/12/2015.
6 Từ điển tiếng Việt (2013), NXB Từ điển Bách Khoa, tr. 903.


10

những gì trái quy định7, bao gồm các hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động; phát hiện sai lệch vi phạm và áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tối thiểu
hóa sai lệch vi phạm đảm bảo thực hiện mục tiêu8.

Bên cạnh sự kiểm soát trong nội bộ doanh nghiệp, Nhà nước còn xây dựng
những biện pháp kiểm soát thông qua cơ chế hành chính. Việc kiểm soát HĐTM,
ĐKGDC của các tổ chức, cá nhân kinh doanh được quy định trong Luật
BVQLNTD là một trong những cơ chế như thế. Qua đó, Nhà nước can thiệp vào
nội dung HĐTM, ĐKGDC trước khi xác lập giao dịch cũng như trong quá trình áp
dụng với người tiêu dùng.
Quá trình kiểm soát này được cấu thành bởi các yếu tố sau:
- Chủ thể kiểm soát: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
bao gồm Cục QLCT và Sở Công Thương;
- Đối tượng kiểm soát: tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng HĐTM,
ĐKGDC trong giao dịch với người tiêu dùng;
- Khách thể kiểm soát: HĐTM, ĐKGDC trong giao dịch với người tiêu
dùng;
- Mục tiêu: bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng khi tham gia
giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh; giảm thiểu tranh chấp phát sinh từ việc
giao kết/ tham gia HĐTM, ĐKGDC; bảo đảm trật tự chung của toàn xã hội và môi
trường kinh doanh lành mạnh, bền vững;
- Cơ chế kiểm soát: (i) tiền kiểm (pháp luật yêu cầu đăng ký HĐTM,
ĐKGDC đối với một số hàng hóa, dịch vụ theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ trước khi áp dụng với người tiêu dùng); (ii) hậu kiểm (đối với những HĐTM,
ĐKGDC không thuộc phạm vi phải đăng ký, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh loại bỏ điều khoản vi phạm trong các HĐTM,
ĐKGDC trong quá trình áp dụng với người tiêu dùng); (iii) vừa tiền kiểm vừa hậu
kiểm (cơ quan có thẩm quyền xét duyệt hồ sơ đăng ký, đồng thời và kiểm tra việc
áp dụng HĐTM, ĐKGDC đã được chấp nhận trên thực tế).

7 Xem Từ điển tiếng Việt (2015), NXB Đà Nẵng, tr. 685.
8 Lê Hương (2014), “Quản lý hành chính nhà nước”, Thư viện chia sẻ tài liệu tại địa chỉ: ngày truy cập
30/2/2016.



11

1.2.2. Sự cần thiết phải kiểm soát các hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung trong giao dịch với người tiêu dùng
Việc sử dụng cùng một HĐTM, ĐKGDC cho nhiều giao dịch khác nhau
đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian đàm phán, qua đó tăng
hiệu quả kinh tế của việc giao kết hợp đồng9. Hơn nữa, việc chuyển từ phương thức
giao dịch truyền thống sang phương thức giao dịch điện tử trong xã hội hiện đại đòi
hỏi sử dụng các khuôn mẫu, công thức để các bên cung cấp và tham gia giao dịch
(ví dụ việc sử dụng các dịch vụ viễn thông bằng cách nhắn tin theo cú pháp, bấm
chọn vào ô “đồng ý” đối với các ĐKGDC sẵn có), đồng thời làm giảm thời gian và
chi phí xác lập giao dịch cho chính NTD. Bên cạnh đó, việc sử dụng HĐTM,
ĐKGDC đảm bảo sự bình đẳng giữa các khách hàng với nhau cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn đơn vị bán hàng hoá/ cung
ứng dịch vụ thông qua việc nghiên cứu các HĐTM, ĐKGDC sẵn có. Chính từ
những giá trị tích cực này, HĐTM, ĐKGDC đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên số với sự phát triển của thương
mại điện tử hiện nay.
Tuy nhiên, các HĐTM, ĐKGDC cũng tạo ra những thách thức mới đối với
lý thuyết truyền thống về hợp đồng vốn được xây dựng dựa trên ý niệm: hợp đồng
là kết quả của sự thoả thuận (mặc cả) giữa các bên10. Việc các HĐTM, ĐKGDC do
một bên “áp đặt” cho bên còn lại, có thể dẫn đến tình trạng làm giảm khả năng của
bên kia trong việc đạt tới một thoả thuận công bằng.
Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam đi liền với quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc thiết lập khung pháp luật dân sự làm nền
tảng cho nền kinh tế thị trường. Để đáp ứng mục tiêu trên, BLDS năm 1995 và sau
đó là BLDS năm 2005 được xây dựng dựa trên nguyên tắc nền tảng của luật hợp
đồng cổ điển: nguyên tắc tự do hợp đồng. Nội hàm cơ bản của nguyên tắc tự do hợp
đồng là quyền tự do của các bên trong việc xác lập hợp đồng, lựa chọn đối tác và

các điều khoản của hợp đồng. Chức năng của pháp luật hợp đồng khi đó là thiết lập
các cơ chế hữu hiệu để đảm bảo quá trình giao kết hợp đồng và hỗ trợ thực thi các
cam kết thỏa thuận đạt được dựa trên sự tự do ý chí của các bên. Nhà nước, thông
9

Gillette, Clayton P. (2009), “Standard Form Contracts”,. NYU Law and Economics Research Paper No.0918 tại địa chỉ ngày truy cập 15/12/2015.
10
Thomas Wilhelmsson (2011), “Standard Form Conditions”, Arthur S. Hartkamp, Towards a European
Civil Code, Kluwer Law; tr. 571-586.


12

thường không can thiệp trực tiếp vào nội dung của hợp đồng, bởi vì một khi hợp
đồng là kết quả của quá trình tự do thương lượng và thoả thuận giữa các bên có địa
vị pháp lý bình đẳng, các điều khoản của hợp đồng được kỳ vọng là kết quả công
bằng cho các bên11. Nguyên tắc này tiếp tục được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản
của luật hợp đồng trong BLDS 2015.
Tuy nhiên, khi HĐTM, ĐKGDC được sử dụng, các bên không thực sự có cơ
hội thương lượng và thoả thuận. Trên thực tế không có hoặc có rất ít cơ hội cho bên
là đối tượng áp dụng HĐTM, ĐKGDC được tham gia quyết định nội dung của hợp
đồng. Về cơ bản, có hai mô hình chủ yếu được áp dụng để lý giải nguyên nhân tại
sao cần phải kiểm soát tính công bằng trong hợp đồng mẫu, bao gồm học thuyết về
chi phí giao dịch và học thuyết về lạm dụng vị thế12.
Học thuyết về chi phí giao dịch: Học thuyết này nhấn mạnh đến bản chất của
hợp đồng mẫu khi có sự bất cân xứng về chi phí giao dịch (transaction costs) giữa
bên ban hành HĐTM, ĐKGDC và bên còn lại. Vì HĐTM, ĐKGDC có thể được sử
dụng lặp đi lặp lại cho nhiều giao dịch khác nhau, bên ban hành HĐTM, ĐKGDC
có thể phân tán chi phí đầu tư cho việc soạn thảo hợp đồng. Trong khi đó, do chỉ
tham gia giao dịch một lần, bên còn lại sẽ không có động cơ để trả chi phí tương

ứng với phía bên kia nhằm thu thập những thông tin cần thiết cho quá trình thương
lượng hợp đồng. Vì nguyên nhân đó, luôn tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa
bên ban hành HĐTM, ĐKGDC và bên đối tác13. Do đó, việc sử dụng HĐTM,
ĐKGDC thường dẫn đến hệ quả là tước đoạt khả năng của một bên trong việc
thương thảo nhằm đạt đến một điều khoản công bằng.
Bên cạnh đó, vì thiếu thông tin và động cơ để đàm phán từng nội dung của
HĐTM, ĐKGDC, phía bên kia mà tiêu biểu là người tiêu dùng sẽ dần dần hình
thành tâm lý bỏ mặc, không quan tâm đọc, tìm hiểu nội dung của điều khoản đó
nữa. Hậu quả kéo theo của hiện tượng này là, nếu người tiêu dùng không có thói
quen đọc HĐTM, ĐKGDC, bên cung cấp HĐTM, ĐKGDC cũng không có động
lực cạnh tranh để thiết kế HĐTM, ĐKGDC tốt hơn, hấp dẫn hơn đối với người tiêu
11

Atiyah (1979), P.S. The Rise and Fall of Freedom of Contract (Oxford: Oxford University Press).
Martin Ebers (2008), “Unfair Contract Terms Directive (93/13)”, H. Schulte-Nölke et al., EC Consumer
Law Compendium, tr. 337; Xem thêm P. Nebbia (2007), “Unfair Contract Terms in European Law”, A Study
in Comparative and EC Law, Vol. 15.
13
Schäfer, Hans-Bernd, and Patrick C. Leyens (2010), “Judicial control of standard terms and European
private law, Economic Analysis of the DCFR–The Work of the Economic Impact Group within the CoPECL
Network of Excellence, Munich”, Sellier European Law Publishers, tr. 97-119,103.
12


13

dùng. Các doanh nghiệp khác, ban đầu cung cấp các HĐTM, ĐKGDC tương đối
tốt, chứng kiến hiện tượng đó, sẽ dần dần loại bỏ điều khoản công bằng, thay vào đó
là điều khoản bất công cho người tiêu dùng. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ mở rộng
ra toàn bộ thị trường, dẫn đến sự “thất bại của thị trường” theo một hiện tượng mà

George Arthur Akerlof - kinh tế gia đoạt giải Nobel năm 2001 - gọi là “market for
lemons”14, trong đó chất lượng HĐTM, ĐKGDC ngày càng giảm đi theo hướng bất
lợi cho người tiêu dùng15. Chính điều đó là lý do tại sao cần phải có sự kiểm soát từ
phía nhà nước để đảm bảo tính công bằng trong nội dung các HĐTM, ĐKGDC.
Học thuyết về lạm dụng vị thế: Học thuyết này dựa trên khái niệm về sự
chênh lệch về vị thế thương lượng giữa các bên (inequality of bargaining power).
Theo đó, trái với học thuyết về chi phí giao dịch, nguyên nhân sâu xa đằng sau việc
kiểm soát tính công bằng của các HĐTM, ĐKGDC không phải nằm ở bản chất của
hợp đồng mẫu mà nhấn mạnh đến nhu cầu bảo vệ một nhóm người xác định cụ thể người tiêu dùng là bên thường được coi là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng với
doanh nghiệp16. Do có lợi thế hơn về mặt vị thế kinh tế, xã hội và tâm lý, doanh
nghiệp thường có khả năng đơn phương áp đặt các điều khoản do mình soạn thảo
gây bất lợi cho người tiêu dùng. Các đạo luật về kiểm soát tính công bằng của hợp
đồng được thiết kế dựa trên một nguyên tắc mới của luật hợp đồng hiện đại nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng17.
Hai học thuyết nêu trên đều lý giải sự cần thiết phải kiểm soát HĐTM,
ĐKGDC dưới góc độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực trong mối quan hệ giữa tổ
chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, có thể thấy việc kiểm soát còn cần thiết để giúp phát huy những
lợi ích mang lại từ việc sử dụng các khuôn mẫu, công thức sẵn có. Việc này giúp
gia tăng niềm tin cho người tiêu dùng, đặc biệt khi tham gia giao dịch trên môi
trường điện tử, đồng thời giúp thị trường phát triển bền vững trên nền tảng những
thoả thuận cân bằng.

14

George Akerlof (1970), “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”, 84 QJ
Econ., tr. 488.
15
M. Schillig (2008), “Inequality of Bargaining Power Versus Market for Lemons: Legal Paradigm Change
and the Court of Justice's Jurisprudence on Directive 93/13 on Unfair Contract Terms”, Eur.Law Rev., tr.
336-358.

16
Martijn Hesselink, Marco Loos (2012), “Unfair Terms in B2C Contracts”, CSECL Working Paper No. 7.
17
Ewoud Hondius (2004), “The Protection of the Weaker Party in Harmonized European Contract Law: A
Synthesis”, Journal of Consumer Policy 27, tr. 245-251.


14

Trước những lợi ích mang lại từ việc kiểm soát HĐTM, ĐKGDC, các nhà
soạn thảo Luật BVQLNTD Việt Nam nhận định rằng sự can thiệp của nhà nước vào
các quan hệ tư này sẽ góp phần ổn định trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của xã
hội và trong một chừng mực nhất định tạo ra thế cân bằng trong giao lưu dân sự18.
1.3. Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung
Quan hệ tiêu dùng là một loại quan hệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
mua bán, theo đó, người tiêu dùng mua và/ hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ của người cung cấp mà không vì mục đích kinh doanh (bán lại). Như vậy, quan
hệ tiêu dùng không phải là quan hệ thương mại, được điều chỉnh bởi Luật Thương
mại mà chỉ có thể là quan hệ dân sự được điều chỉnh chung bởi Bộ luật dân sự.
Là văn bản pháp luật gốc trong đời sống pháp lý dân sự, BLDS yêu cầu phải
thiết lập các quan hệ pháp luật dân sự theo các nguyên tắc như tự do thỏa thuận,
bình đẳng, thiện chí và trung thực (từ Điều 4 đến Điều 6 BLDS 2005, từ khoản 1
đến khoản 3 Điều 3 BLDS 2015).
Tuy nhiên, tính chất xã hội của quan hệ tiêu dùng là họ luôn buộc phải tham
gia vào mối quan hệ với đặc tính truyền kiếp là “thông tin bất cân xứng”. Do đó,
người tiêu dùng khó có thể có cơ hội được tự do, bình đẳng. Bên cạnh sự bất cân
xứng về thông tin, người tiêu dùng còn có thể phải rơi vào tình trạng mất khả năng
mặc cả khi họ buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp độc quyền.
Theo một thành viên Ban Soạn thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,

những kẻ có thế và lực mạnh hơn thường hành xử theo xu hướng lạm dụng quyền
lực trong quan hệ với kẻ yếu. Thêm vào đó, nếu như cứ có 300% lợi nhuận thì các
nhà “tư bản” sẵn sàng treo cổ mình lên và vì vậy, họ cũng sẵn sàng “khuyến mại”
cho khách hàng và người tiêu dùng những cạm bẫy pháp lý và kỹ thuật và thậm chí
còn cả những thứ độc hại. Vì lẽ đó, mọi hệ thống pháp luật nhân đạo đều phải ưu
tiên bảo vệ kẻ yếu và như thế, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ tựa hồ như một
công cụ hỗ trợ từ bên ngoài quan hệ dân sự để khắc phục những lổ hổng về khả

18

6.

Bộ Công Thương (2010), Tờ trình số 28/TTr-CP ngày 8/4/2010 về Dự án Luật Bảo vệ người tiêu dùng, tr.


15

năng tự do và bình đẳng của người tiêu dùng trong quan hệ với nhà cung cấp để
quan hệ dân sự có thể trở lại với đúng nguyên tắc của nó19.
Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh,
pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, pháp luật về chất lượng sản phẩm và rộng
ra là cả pháp luật dân sự, hình sự đều có thêm mục đích là bảo vệ người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nếu như những pháp luật này bảo vệ người tiêu dùng theo phương pháp
can thiệp vào hành vi của nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa
dịch vụ thông qua những hạn chế hoặc cấm đoán hành vi thì pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng (với tính cách là một chế định pháp luật độc lập) lại xuất hiện ở phía
người tiêu dùng. Theo đó, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ tạo cho người tiêu
dùng những khả năng và cơ hội thuận lợi hơn trong cơ chế điều chỉnh pháp luật
quan hệ mua bán (theo luật dân sự) mà một chủ thể pháp luật dân sự thông thường
sẽ không có được.

Nếu như trong xã hội không xuất hiện quan hệ tiêu dùng như đã trình bày
trên đây thì mọi quan hệ dân sự thông thường đều chỉ cần đến sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự truyền thống. Như thế, mọi vấn đề đều được diễn ra như theo
những nguyên tắc truyền thống trong việc xem xét, đánh giá và xử lý các hành vi
pháp lý.
Tuy nhiên, xuất phát từ những phân tích trên đây, sản xuất hàng hóa dẫn đến
những người cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ chuyên nghiệp và quan hệ tiêu
dùng nhất định phải xuất hiện trong xã hội hiện đại. Vì vậy, do bản thân quan hệ
tiêu dùng luôn tiềm ẩn những ngoại lệ của nguyên tắc dân sự truyền thống nên việc
thiết kế cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng phải tính đến việc thực thi những
ngoại lệ trong quan hệ pháp luật dân sự về nội dung và hình thức. Hơn thế nữa, do
chính pháp luật đã chứa trong mình sự bất công bằng (do phải dùng cùng một thước
đo để áp dụng cho mọi hiện tượng cụ thể khác nhau trên thực tế) nên việc áp dụng
những ngoại lệ của cơ chế áp dụng pháp luật dân sự đối với người tiêu dùng là xuất
phát từ nhu cầu nội tại của chính hiện tượng pháp luật để thiết lập sự công bằng
pháp lý trên thực tế. Điều này cũng từng được thể hiện trong quan hệ pháp luật lao
động.

19

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,
Trang thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày
truy cập 12/3/2016.


16

Từ những điều trên đây cho thấy, việc áp dụng những hiện tượng điều chỉnh
pháp luật mang tính đặc thù và ngoại lệ trong cơ chế điều chỉnh pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng là nhu cầu khách quan mà không chỉ là nhân đạo và điều này không

làm “đổ vỡ nền tảng của pháp luật dân sự” – như đã có sự lo lắng. Điều này khẳng
định được bởi lẽ, (i) thứ nhất là không có nguyên tắc nào mà không có ngoại lệ mà
ngoại lệ này đã được luận chứng như trên và (ii) thứ hai là khi áp dụng những ngoại
lệ pháp lý (về nội dung và hình thức trong cơ chế dân sự) thì những ngoại lệ này
một mặt chỉ áp dụng trong quan hệ tiêu dùng và đối với người tiêu dùng và mặt
khác, những vấn đề khác thuộc về pháp luật nội dung và hình thức trong lĩnh vực
dân sự và những những lĩnh vực pháp khác (như đất đai, tài chính…) mà không
được phát triển để trở thành “ngoại lệ” thì giữ nguyên giá trị điều chỉnh quan hệ tiêu
dùng.
Từ đây, có thể rút ra hệ quả là pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
hiểu theo nghĩa tổng quát là một hệ thống pháp luật có liên quan đến nhau mà đạo
luật riêng rẽ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chỉ có giá trị tiên phong20.
Qua tìm hiểu về các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hệ
thống pháp luật, có thể thấy cấu trúc về chế định kiểm soát HĐTM, ĐKGDC bao
gồm những nhóm quy định chính sau:
(i) Định nghĩa về HĐTM, ĐKGDC;
(ii) Đối tượng bị kiểm soát;
(iii) Cơ quan kiểm soát;
(iv) Cơ chế kiểm soát;
(v) Phạm vi kiểm soát;
(vi) Quy định về chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm.
Các quy định pháp luật cụ thể theo cấu trúc này sẽ được phân tích tại Mục
2.1 Chương 2.
1.4. Một số kinh nghiệm trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua
chế định hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung
1.4.1 Pháp luật một số nước

20

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”,

Trang thông tin Cục QLCT tại địa chỉ: ngày
truy cập 12/3/2016.


17

Trong phạm vi tài liệu tiếp cận được, tác giả đã nghiên cứu và rút ra kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới về việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế
định HĐTM, ĐKGDC như sau:
1.4.1.1 Canada (Quebec)
Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec cũng như bản hướng dẫn thực thi
Luật đã quy định một cách chi tiết các vấn đề liên quan đến hợp đồng tiêu dùng.
Quan điểm của nhà làm Luật Quebec là bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế định
hợp đồng. Do đó, các chế định trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Quebec đều
liên quan đến chế định hợp đồng. Hay nói cách khác, có thể xem Luật Bảo vệ người
tiêu dùng Quebec như một đạo luật bảo vệ người tiêu dùng thông qua quan hệ hợp
đồng giữa người tiêu dùng và thương nhân.
Chương 1 của Luật về những quy định chung trong đó đưa ra các quy định
chung liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng thông qua Hợp đồng hàng hóa,
dịch vụ. Ngay tại Điều 8, Luật khẳng định: “Người tiêu dùng có thể đề nghị tuyên
bố vô hiệu một hợp đồng hoặc đề nghị giảm nghĩa vụ của mình nếu trong hợp đồng
thể hiện rõ sự không cân xứng giữa phần nghĩa vụ tương ứng của các bên mà phần
lớn thuộc về người tiêu dùng hoặc nếu nghĩa vụ của người tiêu dùng là quá nhiều,
không hợp lý”. Điều này có nghĩa là một hợp đồng có thể bị tuyên là vô hiệu nếu nó
chứa đựng những điều khoản gây bất lợi cho người tiêu dùng về phần nghĩa vụ mà
người tiêu dùng phải thực hiện. Tuy nhiên, Luật không coi trong trường hợp này
hợp đồng sẽ bị vô hiệu đương nhiên mà chỉ bị tuyên là vô hiệu khi có yêu cầu của
người tiêu dùng. Đây là một quy định bảo vệ người tiêu dùng một cách rõ ràng
trong trường hợp họ thấy những quy định trong hợp đồng là vô lý.
Tại Điều 10, Điều 11 cũng quy định về những điều khoản bị cấm, theo đó:

“Bất kỳ quy định nào mà nhờ đó một thương nhân được giải phóng khỏi hậu quả do
việc làm của chính thương nhân hoặc đại diện của thương nhân đó gây ra đều bị
cấm” và “bất kỳ quy định nào mà nhờ đó một thương nhân duy trì quyền quyết định
đơn phương: (i) mà người tiêu dùng không có khả năng để hoàn thành một hoặc
một vài trong số các nghĩa vụ của mình, hoặc (ii) mà trên thực tế đã xẩy ra trường
hợp trên đều bị cấm”. Như vậy, kể cả khi điều khoản bất lợi trong hợp đồng chưa
gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như người tiêu dùng không đề nghị hủy bỏ
hoặc tuyên vô hiệu hợp đồng nhưng nếu hợp đồng chứa những nội dung bị cấm
(giải phóng nghĩa vụ của thương nhân) thì đều bị cấm.


×