Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.81 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ THANH HẬU

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ THANH HẬU

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thị Hằng

HÀ NỘI, NĂM 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng
dẫn của cô giáo, PGS. TS Đào Thị Hằng. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu
đó. Luận văn này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Tác giả luận văn

PGS. TS Đào Thị Hằng

Vũ Thị Thanh Hậu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................... 4
1.4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn ......................................................... 4
1.5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn ................ 5
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................... 5
1.7. Bố cục của luận văn .............................................................................. 6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY ................................................................. 7

1.1. Khái niệm quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động .............................................................................................................. 7
1.2. Sự cần thiết của việc đảm bảo quyền lợi của người lao động khi chấm
dứt hợp đồng lao động .................................................................................. 10
1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề quyền lợi của
người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động .......................................... 14
1.4. Các nội dung cơ bản của pháp luật về quyền lợi của người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động ........................................................................ 16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN........................................................................ 23
2.1. Quyền lợi của người lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt do ý chí
hai bên, ý chí bên thứ ba ............................................................................... 23
2.2. Quyền lợi của người lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt vì sự
kiện pháp lý nhất định .................................................................................. 37
2.3. Quyền lợi của người lao động khi người lao động đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động ........................................................................................ 41


2.4. Quyền lợi của người lao động khi người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động ........................................................................ 48
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp lao động liên quan đến
quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động .................... 59
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT QUYỀN
LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG
............................................................................................ 71
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết quyền lợi của người
lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động .................................................... 71

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết quyền lợi của
người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động .......................................... 74
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền
lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động .............................. 80
KẾT LUẬN

............................................................................................ 86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng lao động là hình thức quen
thuộc thể hiện sự hợp tác của các bên trong quan hệ lao động. Theo đó,
người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận các nội dung về
quyền, nghĩa vụ liên quan đến các quá trình giao kết, thực hiện và chấm
dứt hợp đồng lao động với mục đích cuối cùng hướng đến là các lợi ích
đạt được.
Có thể nói, so với các giai đoạn khác trong quan hệ hợp đồng lao
động, chấm dứt hợp đồng lao động là vấn đề mà tất cả các chủ thể đều
đặc biệt quan tâm bởi đây là sự kiện pháp lý đánh dấu sự kết thúc của
quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động. Sự kết
thúc này kéo theo việc giải quyết hậu quả pháp lý của chấm dứt hợp
đồng lao động. Đó là những quyền lợi mà mỗi bên phải thực hiện/thanh
toán/chi trả/bồi thường cho bên còn lại. Trong đó, người lao động hay
người sử dụng lao động đều có thể là bên gánh vác nghĩa vụ khi hợp
đồng lao động chấm dứt.
Xem xét trong tương quan vị thế của các bên trong quan hệ lao

động, dễ dàng nhận thấy người lao động là đối tượng được ưu đãi hơn về
quyền lợi, được Nhà nước bảo hộ và bảo đảm lợi ích thông qua các nội
dung được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về lao động, đặc
biệt là các quy định về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ vị thế yếu hơn đó, trong
thực tế, quyền lợi của người lao động vẫn chưa được giải quyết hoặc
chưa được đảm bảo đầy đủ. Hàng loạt các trường hợp người sử dụng lao
động trốn tránh trách nhiệm đối với người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động vẫn diễn ra. Người lao động dường như vẫn chưa đủ hiểu
biết, chưa đủ tự tin để đấu tranh giành quyền lợi cho bản thân mình.


2
Bên cạnh đó, mặc dù Bộ luật Lao động năm 2012 và các đạo luật
liên quan đã quy định khá chi tiết về quyền lợi của người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động, tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền
và lợi ích của người lao động, song qua quá trình thực hiện, các quy định
này cũng bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất định khiến người lao
động trong một số trường hợp bị thiệt thòi.
Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Quyền lợi của người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn tìm
hiểu, đánh giá quy định của pháp luật lao động, góp phần phát hiện ra
những thiếu sót trong các quy định của pháp luật và đưa ra những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
không phải là vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới, thậm chí, đây là nội
dung đã rất quen thuộc và được đề cập trong nhiều công trình nghiên
cứu. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu liên quan mà tôi đã tìm
hiểu, các nội dung về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp

đồng lao động thường được phân tích một cách riêng lẻ đối với từng
trường hợp. Cụ thể là:
Các công trình nghiên cứu của PGS. TS Nguyễn Hữu Chí như:
Luận văn Thạc sỹ năm 1997 về “Hợp đồng lao động với vấn đề bảo đảm
quyền và lợi ích của người lao động trong nền kinh tế thị trường”; sách
“Pháp luật hợp đồng lao động Việt Nam – Thực trạng và phát triển”
năm 2003; sách “Chế độ bồi thường trong luật Lao động Việt Nam” năm
2006 đều đề cập đến quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động nhưng ở góc độ riêng rẽ bởi tác giả nghiên cứu ở các góc
độ khác như: hợp đồng lao động, chế độ bồi thường trong luật Lao
động…


3
Nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề chấm dứt hợp đồng
lao động, bảo vệ người lao động, chi trả trợ cấp… cụ thể là các luận án,
luận văn: luận án tiến sỹ của PGS.TS Nguyễn Thị Kim Phụng (2006),
Pháp luật lao động với vấn đề bảo vệ người lao động trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam; luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Thùy
Dương (2012), Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo
quy định pháp luật lao động; luận văn thạc sỹ luật học của Hứa Thu
Hằng (2015), …các bài tạp chí: Lê Thị Hoài Thu (2010), Trợ cấp thôi
việc trong pháp luật lao động Việt Nam, tạp chí Nhà nước và Pháp luật;
Trần Thị Thanh Hà (2014), Về trách nhiệm trả trợ cấp của người sử
dụng lao động trong việc chấm dứt quan hệ lao động theo Bộ Luật Lao
động sửa đổi năm 2012, tạp chí Toà án nhân dân; Trần Thị Thanh Hà
(2014), Về hậu quả pháp lý của xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa
thải, tạp chí Tòa án nhân dân… cũng đề cập đến quyền lợi của các chủ
thể khi chấm dứt hợp đồng lao động nhưng ở góc độ riêng lẻ từng trường
hợp chấm dứt hợp đồng lao động.

Bên cạnh đó, trong quá trình tìm hiểu về tình hình nghiên cứu đề
tài, tôi đã được tiếp cận luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Ngọc
Tú (2015) với đề tài: “Chấm dứt hợp đồng lao động, quyền lợi của người
lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động”. Đây là công trình nghiên
cứu rất mới và có sự gần gũi với nội dung mà tôi nghiên cứu vì cùng đề
cập đến vấn đề quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động. Tuy nhiên, tác giả Ngọc Tú nghiên cứu vấn đề theo toàn bộ nội
dung của sự kiện chấm dứt hợp đồng lao động, bao gồm: căn cứ chấm
dứt, thủ tục chấm dứt, quyền lợi của người lao động khi chấm dứt và giải
quyết tranh chấp liên quan đến chấm dứt hợp đồng lao động. Nội dung
về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động được
tác giả đề cập ở mức độ khái quát chứ không đi sâu phân tích quyền lợi
của người lao động trong trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động.


4
Các công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả đã tiếp cận về
hợp đồng lao động, chấm dứt hợp đồng lao động và một số vấn đề liên
quan đến quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
từ nhiều góc độ khác nhau là những tài liệu vô cùng quý giá cho tôi trong
quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các quyền lợi của người lao động
khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể là người viết phân tích về quyền
lợi mà người lao động được hưởng trong từng trường hợp chấm dứt hợp
đồng lao động.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền
lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động. Bên cạnh đó,

tác giả phân tích cụ thể quy định của pháp luật về quyền lợi của người
lao động trong từng trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động; giải quyết
tranh chấp liên quan đến quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tế.
1.4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng và thực thi pháp luật Việt Nam về “Quyền lợi của
người lao động trong trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động”. Trên cơ
sở đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế của pháp luật hiện
hành để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với điều kiện
thực tiễn hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn được xác định cụ thể như
sau:


5


Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến quyền lợi của

người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động và nội dung các quy
định của pháp luật về vấn đề này.


Phân tích, đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện pháp luật Việt

Nam về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động.



Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam

về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động.
1.5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể khác nhau, như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo
cứu thực tiễn nhằm minh chứng cho những lập luận, những nhận xét
đánh giá, kết luận khoa học của luận văn.
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


Một là, luận văn nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận

và pháp luật hiện hành về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt
hợp đồng lao động.


Hai là, luận văn đã phân tích, bình luận, đánh giá một cách toàn

diện và khách quan về thực trạng pháp luật về quyền lợi của người lao
động khi chấm dứt hợp đồng lao động ở Việt Nam. Qua đó, tìm ra điểm
hợp lý và chưa hợp lý, xác định tính khả thi của các quy phạm pháp luật
về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động.


Ba là, luận văn đưa ra kiến nghị để sửa đổi, ban hành quy định mới


về nội dung, hình thức các quy định của pháp luật về quyền lợi của
người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động,
Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành.


6
Những kiến nghị cụ thể, đồng bộ của tác giả sẽ là cơ sở khoa học cho
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền lợi của người
lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, góp phần tăng cường hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật lao động, bảo đảm cho các quan hệ lao động ở
nước ta ngày càng ổn định, hài hòa và tăng tính an toàn pháp lý trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đẩu, kết luận, luận văn được kết cấu cụ thể như sau:


Chương 1. Một số vấn đề chung về quyền lợi của người lao động

khi chấm dứt hợp đồng lao động và pháp luật về vấn đề này.


Chương 2. Thực trạng các quy định về quyền lợi của người lao

động khi chấm dứt hợp đồng lao động và thực tiễn thực hiện.


Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về giải quyết quyền lợi của người lao động khi chấm
dứt hợp đồng lao động.



7

CHƯƠNG 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỢI

CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY
1.1. Khái niệm quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng
lao động
Hợp đồng lao động trải qua các giai đoạn giao kết, thực hiện, sửa
đổi, bổ sung và khi hai bên chủ thể không thể tiếp tục thực hiện hợp
đồng được nữa, hoặc do lý do khác, hợp đồng lao động sẽ chấm dứt.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006),
“chấm dứt hợp đồng lao động là sự kết thúc quan hệ lao động giữa
người lao động với người sử dụng lao động và không còn sự kiện phát
sinh quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao
động”. Đây là sự kiện pháp lý dẫn đến sự chấm dứt quyền và nghĩa vụ
mà người lao động và người sử dụng lao động đã thỏa thuận trong hợp
đồng lao động. Chấm dứt hợp đồng lao động tác động trực tiếp đến
quyền lợi của cả hai bên trong quan hệ lao động. Đối với người lao động,
việc chấm dứt hợp đồng lao động sẽ ảnh hưởng đến việc làm, nguồn thu
nhập, cuộc sống của chính họ và gia đình. Về phía người sử dụng lao
động, sự kiện chấm dứt hợp đồng lao động cũng có thể gây xáo trộn lao
động trong nội bộ người sử dụng lao động, đặc biệt trong trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động với nhiều người lao động và có thể gây
thiệt hại cho người sử dụng lao động.
Như vậy, có thể hiểu, chấm dứt hợp đồng lao động là sự kiện pháp

lý làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng
lao động trong quan hệ lao động. Chấm dứt hợp đồng lao động có các
đặc điểm như sau:


8


Thứ nhất, chấm dứt hợp đồng lao động là chấm dứt sự ràng buộc về

quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Hợp đồng lao
động bao gồm các nội dung mà hai bên thỏa thuận với quyền và nghĩa vụ
cụ thể phát sinh trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng, các bên có trách nhiệm tuân thủ nghiêm túc các nội
dung đã thỏa thuận. Tuy nhiên, khi hợp đồng lao động chấm dứt, sự ràng
buộc giữa hai bên về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động đã giao
kết cũng không còn nữa.


Thứ hai, chấm dứt hợp đồng lao động có thể hợp pháp hoặc bất hợp

pháp. Chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp là trường hợp các bên chủ
thể trong quan hệ lao động thực hiện việc chấm dứt hợp đồng lao động
đảm bảo các quy định của pháp luật về căn cứ, thủ tục chấm dứt hợp
đồng… Chấm dứt hợp đồng lao động bất hợp pháp là các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động do vi phạm các quy định của pháp luật về
căn cứ hoặc thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động. Trong quan hệ lao
động, xuất phát từ những mục đích khác nhau mà các bên có thể không
quan tâm đến quyền và lợi ích của bên kia. Do đó, pháp luật đã quy định
các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động khá chặt chẽ nhằm dung

hòa quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.


Thứ ba, chấm dứt hợp đồng lao động tạo ra những hậu quả pháp lý

đa dạng. Việc chấm dứt hợp đồng lao động trong bất kỳ điều kiện nào
cũng làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định và những hậu quả
này lại không hoàn toàn giống nhau mà phụ thuộc vào nguyên nhân dẫn
đến sự chấm dứt hợp đồng lao động. Chẳng hạn như, chấm dứt hợp đồng
lao động hợp pháp có hậu quả pháp lý khác với chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật, ngay cả trong các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao
động hợp pháp thì hậu quả pháp lý đối với người lao động và người sử
dụng lao động cũng có sự khác nhau.


9
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp,
“quyền lợi” được hiểu là “quyền được hưởng những lợi ích về chính trị,
xã hội, vật chất hoặc tinh thần do kết quả lao động của bản thân tạo nên
hoặc do phúc lợi chung do nhà nước, xã hội hoặc tập thể cơ quan, tổ
chức nơi mình sinh sống, làm việc mang lại”1. Đặt trong quan hệ lao
động, quyền lợi của người lao động có thể được hiểu là những lợi ích về
vật chất hoặc tinh thần mà người lao động được hưởng do quá trình
tham gia vào quan hệ lao động. Khi tham gia quan hệ lao động, người
lao động và người sử dụng lao động đều hướng đến mục đích cuối cùng
là lợi ích kinh tế. Để đạt được mục tiêu này, mỗi chủ thể phải xử sự phù
hợp với bên còn lại nhằm dung hòa và điều tiết quan hệ bởi tương quan
về lợi ích giữa họ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, trong
thực tế, rất nhiều trường hợp, những lợi ích kinh tế khiến người lao động
và người sử dụng lao động đặt nhau trước sự đối trọng quyết liệt.

Bên cạnh lợi ích trực tiếp của các chủ thể trong quan hệ lao động,
không thể không tính đến lợi ích của một chủ thể thứ ba – lợi ích Nhà
nước. Trong quan hệ lao động, Nhà nước không phải là một bên của
quan hệ này nhưng lực lượng lao động là nguồn nhân lực, là tài nguyên
của quốc gia. Do đó, bất cứ Nhà nước nào cũng có những biện pháp nhất
định tác động vào quan hệ lao động nhằm điều hòa và sử dụng nhân lực
một cách cân đối, có hiệu quả giữa các vùng, ngành kinh tế quốc dân và
trên phạm vi toàn quốc. Do đó, quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ
lao động nằm trong tương quan với lợi ích của Nhà nước.
Khi hợp đồng lao động chấm dứt, quyền lợi của các bên đều có thể
bị ảnh hưởng, đặc biệt là đối với người lao động bởi trong quan hệ lao
động với đối tượng trao đổi, mua bán là sức lao động, người lao động là
bên phụ thuộc nhiều hơn vào người sử dụng lao động. Như vậy, có thể
1

Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư
pháp, Hà Nội, tr. 625.


10
hiểu quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động là
những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần mà người lao động được hưởng
khi quan hệ hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng
lao động kết thúc. Các quyền lợi này rất đa dạng và tùy thuộc vào mỗi
trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà có sự khác nhau, tuy nhiên,
có thể kể đến một số quyền lợi như: trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc
làm, trợ cấp thất nghiệp, bồi thường thiệt hại, hỗ trợ dịch vụ việc làm…
Từ những nội dung đã phân tích kể trên, có thể đưa ra đặc điểm về
các quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như
sau:



Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động rất

đa dạng, bao gồm nhiều lợi ích nhưng tùy từng trường hợp chấm dứt hợp
đồng lao động mà người lao động được hưởng những lợi ích khác nhau.


Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động có

mối tương quan chặt chẽ với quyền lợi của người sử dụng lao động bởi
đây là hai chủ thể trực tiếp và mang tính đối lập nhau trong quan hệ lao
động. Quyền của bên này là nghĩa vụ tương ứng của bên kia, do đó, khi
xem xét quyền lợi của người lao động cần đối chiếu và lý giải trong mối
quan hệ với nghĩa vụ của người sử dụng lao động.


Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động còn

chịu sự tác động, chi phối bởi lợi ích Nhà nước và xã hội với vai trò điều
tiết và cân bằng các quan hệ trong thị trường.
1.2. Sự cần thiết của việc đảm bảo quyền lợi của người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động
Khi tham gia vào quan hệ lao động, các bên đều hướng tới những
lợi ích nhất định của riêng mình. Đối với người lao động đó là thu nhập,
còn đối với người sử dụng lao động đó là những khoản lợi nhuận mà họ
thu được khi bỏ ra các chi phí đầu vào của quá trình sản xuất. Khi những


11

mục tiêu đó không đạt được hoặc buộc phải chấm dứt hợp đồng lao động
do ý chí của bên thứ ba hoặc do sự kiện pháp lý nhất định thì việc duy trì
hợp đồng lao động đã ký kết không còn ý nghĩa và không đem lại quyền
lợi cho các bên. Lúc này, điều các chủ thể quan tâm hàng đầu là giải
quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng, là những quyền lợi
mà mỗi bên đạt được khi hợp đồng lao động chấm dứt. Người lao động
mong muốn được hưởng các khoản trợ cấp với mức trợ cấp cao nhất,
được nhiều chế độ ưu đãi còn ngược lại, người sử dụng lao động hy vọng
không phải hỗ trợ, bồi thường cho người lao động bất kỳ khoản nào.
Điều này dẫn đến sự đối lập về quyền lợi giữa hai bên và người lao động
– với vị thế là bên chịu phụ thuộc cần một cơ chế đảm bảo quyền lợi của
mình trong tương quan quan hệ với người sử dụng lao động.
1.2.1. Hỗ trợ, đảm bảo cuộc sống của người lao động và gia đình
Trong cuộc sống hiện đại, khi mà dân số gia tăng với tốc độ nhanh,
số người trong độ tuổi lao động ngày càng nhiều nhưng nhu cầu sử dụng
lao động lại không tăng tương ứng, giải quyết việc làm trở thành vấn đề
nhức nhối của mọi quốc gia. Thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) cho thấy, số người thất nghiệp trong năm 2015 ở mức khoảng 197
triệu người, cao hơn 27 triệu người so với thời kỳ trước khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008. Hết năm 2016, số người thất nghiệp được dự
báo tăng thêm 2,3 triệu người2. Với tình trạng này, khi chấm dứt hợp
đồng lao động, người lao động càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm
công việc mới khi mất đi nguồn thu nhập trước đó. Họ sẽ phải đối mặt
với một loạt các vấn đề để đảm bảo đời sống của bản thân, thậm chí là
của cả gia đình nếu như họ là người đem lại nguồn thu nhập chính. Điều
này lý giải nguyên do người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động

2

Quốc Hưng, Thất nghiệp toàn cầu lại tăng, Báo Quảng Nam online: ngày truy cập: 9/6/2016.



12
rất cần sự hỗ trợ từ phía người sử dụng lao động và nhà nước nhằm tạo
điều kiện cho họ duy trì cuộc sống trong thời gian tìm việc làm mới.
1.2.2. Xây dựng quan hệ lao động bình đẳng và thị trường lao động
bền vững
Đối với người sử dụng lao động, chấm dứt hợp đồng lao động
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới họ, bởi lẽ, chấm dứt hợp đồng lao động
sẽ tác động đến dây chuyền sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao
động, có thể làm giảm lợi nhuận của người sử dụng lao động.
Xét ở khía cạnh kinh tế và mối quan hệ lao động, việc bảo vệ quyền
lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động cũng có ý nghĩa
đối với người sử dụng lao động bởi đây là hai bên đối lập trong quan hệ
lao động nhưng lại có mối liên quan chặt chẽ với nhau về quyền và nghĩa
vụ. Đảm bảo quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động là cách tốt nhất để kết thúc mối quan hệ lao động, mở ra hướng đi
mới nhằm giúp mỗi bên tiếp tục tham gia các mối quan hệ khác, với
những lợi ích khác. Hơn nữa, trong trường hợp bị chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật, người lao động bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập
và họ không hợp tác trong quá trình giải quyết quyền lợi nên họ thực
hiện triệt để yêu cầu giải quyết tranh chấp của mình tới cơ quan có thẩm
quyền, khi đó, người sử dụng lao động buộc phải tham gia với tư cách là
một trong các bên đương sự trong vụ tranh chấp. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến thời gian, lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động mà còn
ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín và hoạt động sản xuất, kinh doanh của
người sử dụng lao động. Đối với các doanh nghiệp, đó là những phương
tiện để họ đảm bảo và nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
Do đó, việc đảm bảo quyền lợi của người lao động khi chấm dứt
hợp đồng lao động là cần thiết nhằm dung hòa lợi ích không chỉ của

người lao động mà còn là lợi ích của người sử dụng lao động, tạo dựng


13
quan hệ lao động tốt đẹp và hướng đến xây dựng thị trường lao động
hiệu quả, văn minh và bền vững.
1.2.3. Góp phần đảm bảo đời sống kinh tế - xã hội ổn định, phát triển
Nếu xem xét việc chấm dứt hợp đồng lao động ở phạm vi cá thể, dễ
dàng nhận thấy cuộc sống của người lao động và có thể là cả gia đình họ
sẽ gặp khó khăn khi hợp đồng lao động chấm dứt. Người lao động bị mất
đi nguồn thu nhập và theo đó, mọi nhu cầu trong cuộc sống đều không
được đáp ứng, chất lượng cuộc sống đi xuống. Tuy nhiên, đó mới chỉ là
một góc nhỏ nhất trong bức tranh toàn xã hội. Nếu nhìn nhận ở phạm vi
rộng hơn, khi mà tình trạng mất việc làm ở những tập đoàn lớn diễn ra ồ
ạt3, khi đó, giả sử quyền lợi của người lao động không được đảm bảo và
giải quyết thỏa đáng, đời sống của người dân sẽ bị suy giảm, tệ nạn xã
hội có nguy cơ gia tăng dẫn đến tình trạng mất ổn định kinh tế - xã hội.
Như vậy, việc đảm bảo quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động có ý nghĩa to lớn, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã
hội.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định việc đảm bảo quyền lợi
của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động là việc làm cần thiết
và quan trọng. Chấm dứt hợp đồng lao động không chỉ xuất phát từ ý chí
của người lao động hay người sử dụng lao động mà nó còn có thể xuất
phát từ ý chí của cả hai bên, của bên thứ ba hoặc do sự kiện pháp lý nhất
định. Việc người lao động không được đảm bảo quyền lợi khi chấm dứt
hợp đồng lao động sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng chấm dứt hợp đồng
lao động gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên và của cả xã
hội.


3
30 ngân hàng lớn nhất châu Âu cắt giảm 80.000 việc làm, Website Công ty cổ phần chứng khoán Sài
Gòn – Hà Nội tại địa chỉ: ngày truy cập: 9/5/2016.


14
1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề
quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
Quan hệ lao động cũng như nhiều quan hệ kinh tế khác trong thị
trường, các chủ thể tham gia không ngoài mục đích mưu cầu các lợi ích
cho mình, trong đó, lợi ích vật chất được quan tâm hàng đầu. Khi tham
gia quan hệ lao động, điều mà người lao động mong đợi nhất là thu nhập
cao, chế độ phúc lợi tốt và một công việc ổn định. Chính vì vậy, sự chấp
hành mệnh lệnh, tuân thủ kỷ luật lao động, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, tăng năng suất lao động hoặc ngược lại sự phản ứng của
họ với giới chủ… đều bị chi phối và tác động bởi lợi ích vật chất mà họ
có được (hoặc hy vọng có được) trong quan hệ lao động4. Đối với người
lao động, quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
đảm bảo cho họ có được những lợi ích khi hợp đồng lao động chấm dứt.
Đó là những lợi ích mà họ nhận được tương ứng với sự đóng góp của họ
đối với người sử dụng lao động, là những lợi ích có thể hỗ trợ và đảm
bảo cuộc sống của họ và gia đình trong thời gian họ chưa tìm được công
việc, nguồn thu nhập mới.
Về phía người sử dụng lao động, họ đầu tư tài chính vào hoạt động
kinh doanh mặc dù biết trước có thể phải chịu rủi ro, nhưng họ chấp
nhận mạo hiểm bởi bên cạnh yếu tố rủi ro, mọi sự đầu tư đều có thể đem
lại các khoản lợi nhuận nếu kinh doanh thuận lợi. Do đó, người sử dụng
lao động bỏ vốn, công sức để tìm hiểu thị trường, đổi mới công nghệ, mở
rộng quy mô sản xuất… là nhằm mục đích đạt được lợi nhuận cao hơn
nữa. Trong quan hệ hợp đồng lao động, người sử dụng lao động có toàn

quyền quyết định vấn đề tổ chức, quản lý, phân công lao động, thiết lập
trật tự nề nếp trong lao động, sản xuất kinh doanh, có quyền áp dụng các
biện pháp xử lý bất lợi với người vi phạm; xử lý kỷ luật, chấm dứt hợp
4

Nguyễn Hữu Chí (1997), Hợp đồng lao động với vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích của người lao
động trong nền kinh tế thị trường, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 43.


15
đồng lao động … với mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Việc
bảo vệ quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
khiến người sử dụng lao động đối mặt với việc họ phải trợ cấp, hỗ trợ,
bồi thường cho người lao động đối với quá trình làm việc, cống hiến của
người lao động khi xảy ra sự kiện chấm dứt hợp đồng lao động. Với tư
cách là nhà kinh doanh, theo lẽ thường, người sử dụng lao động sẽ thực
hiện mọi biện pháp để giảm thiểu tối đa giá trị lợi ích mà họ phải chi trả
cho người lao động.
Như vậy, cùng hướng đến mục tiêu về tài chính nhưng trong quan
hệ lao động, người lao động và người sử dụng lao động là hai chủ thể đối
lập nhau về quyền lợi và nghĩa vụ. Mỗi chủ thể trong hợp đồng lao động
khi tham gia quan hệ lao động đều thực hiện tất cả các công việc nhằm
đạt được quyền lợi cho riêng mình và quyền lợi đó chính là nghĩa vụ của
bên còn lại. Khi đó, nếu không được pháp luật điều chỉnh, không có một
cơ chế thống nhất để hai bên căn cứ vào đó thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình thì quan hệ hợp đồng lao động sẽ trở nên hỗn loạn, tranh
chấp xảy ra không thể giải quyết được bởi không bên nào muốn nhường
quyền lợi của mình cho người khác. Đặc biệt, với vị thế yếu hơn, người
lao động sẽ không được đảm bảo các quyền lợi khi chấm dứt hợp đồng
lao động. Người sử dụng lao động sẽ tìm mọi cách để chèn ép, để hạn

chế các quyền lợi mà người lao động xứng đáng được hưởng. Điều này
dẫn đến quan hệ lao động khó có thể duy trì một cách lâu dài và bền
vững trong phạm vi rộng.
Thêm vào đó, nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý phải thực
hiện chức năng dung hòa các lợi ích trong xã hội thông qua các hoạt
động như điều tiết thu nhập, giải quyết các vấn đề về lao động. Hơn nữa,
để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước cần phải có kinh phí hoạt
động và bởi Nhà nước thực hiện những công việc theo nhu cầu toàn xã
hội nên tất cả mọi cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ đóng góp cho hoạt động


16
chung đó. Như vậy, để Nhà nước đảm bảo được lợi ích của mình đồng
thời thực hiện được chức năng là trung tâm điều hòa các lợi ích khác
nhau giữa các bên trong quan hệ lao động cần thiết phải có một cơ chế
can thiệp một cách trực tiếp vào lợi ích của các bên trong quan hệ nhưng
sự vận hành của nó phải tạo ra một hành lang pháp lý thích hợp để lợi
ích của các chủ thể trong quan hệ lao động cũng như lợi ích của Nhà
nước được đảm bảo. Đó chính là cơ chế quản lý bằng pháp luật.
Những phân tích trên cho thấy ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng
pháp luật đối với vấn đề quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp
đồng lao động. Các quốc gia đều có nhiều biện pháp, cách thức để bảo
vệ người lao động trong đó có cơ chế mang tính pháp lý chiếm vị trí
quan trọng và hiệu quả nhất bởi có sự đảm bảo thực hiện từ nhà nước,
được coi là cơ sở mang tính tiền đề của các cơ chế khác. Điều này phụ
thuộc vào vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
nói chung và bảo vệ người lao động nói riêng.
1.4. Các nội dung cơ bản của pháp luật về quyền lợi của người lao
động khi chấm dứt hợp đồng lao động
Pháp luật lao động các nước đều hướng đến sự bảo vệ quyền lợi của

người lao động, trong đó bao gồm việc quy định các nội dung của pháp
luật về các quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động. Các quyền lợi này của người lao động không hoàn toàn giống
nhau mà tùy thuộc vào từng trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà
người lao động được hưởng các lợi ích phù hợp. Về cơ bản, pháp luật
quy định các nội dung chủ yếu về quyền lợi của người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động như sau:


Quyền lợi của người lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt do ý

chí hai bên, ý chí bên thứ ba


17
Khi chấm dứt hợp đồng lao động trong các trường hợp này, pháp
luật lao động của các nước thường quy định người sử dụng lao động có
trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc
trong khoảng thời gian nhất định, thanh toán đầy đủ các khoản có liên
quan đến quyền lợi của người lao động. Đây là quy định nhằm đảm bảo
cho người lao động vẫn duy trì được cuộc sống trong thời gian bị chấm
dứt hợp đồng lao động để tìm việc làm khác. Pháp luật nhiều nước ghi
nhận các trường hợp này, chẳng hạn:
Khoản 4 Điều 27 Bộ luật Lao động Brunei (1955) quy định: “Một
hợp đồng có thể được chấm dứt theo thỏa thuận giữa các bên với sự chấp
thuận của Bộ trưởng phụ thuộc vào các điều kiện bảo vệ người lao động
không bị mất quyền hồi hương, trừ khi thỏa thuận chấm dứt hợp đồng
quy định khác đi và phụ thuộc vào sự chấp thuận của Bộ trưởng rằng
toàn bộ các khoản nợ giữa các bên đã được thanh toán”5.
Bên cạnh đó, người lao động cũng được người sử dụng lao động trả

sổ lao động, sổ bảo hiểm xã hội, các giấy tờ khác liên quan và được
thanh toán các khoản lương, phụ cấp, trợ cấp hoặc các khoản tiền khác
khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể6: Điều 50 Luật Hợp đồng Lao
động của Trung Quốc năm 2007 quy định: “Khi hợp đồng chấm dứt,
doanh nghiệp sẽ cấp một giấy chứng nhận xác nhận việc kết thúc hợp
đồng lao động và trong vòng 15 ngày sẽ thực hiện các thủ tục chuyển hồ
sơ và bảo hiểm xã hội của người lao động”.


Quyền lợi của người lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt do

sự kiện pháp lý nhất định

5

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2010), Pháp luật lao động các nước ASEAN, Nxb. Lao động
– Xã hội, Hà Nội, tr. 22.
6
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2010), Tài liệu tham khảo Pháp luật lao động nước ngoài,
Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội, tr. 59.


18
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế và có mối liên
hệ, có ý nghĩa đối với pháp luật, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quan hệ pháp luật. Đối với quan hệ pháp luật lao động, cụ thể là trong
tương quan với sự kiện chấm dứt hợp đồng lao động, sự kiện pháp lý khi
hợp đồng lao động chấm dứt là những sự kiện mà khi xảy ra sẽ kéo theo
sự chấm dứt hợp đồng lao động. Những sự kiện này có thể là người lao
động chết hoặc người sử dụng lao động là cá nhân chết, hoặc người sử

dụng lao động là pháp nhân chấm dứt hoạt động… Vấn đề đặt ra trong
trường hợp này là khi những sự kiện pháp lý nhất định đó xảy ra dẫn đến
việc chấm dứt hợp đồng lao động thì quyền lợi của người lao động được
giải quyết như thế nào? Thông thường, tùy theo quy định của pháp luật
lao động các quốc gia, người lao động có thể được hưởng các quyền lợi
như: trợ cấp thôi việc, một số các quyền lợi khác.
Khoản 3 Điều 27 Bộ luật Lao động Brunei (1955) quy định7: “Nếu
do bị ốm hoặc tai nạn người lao động không thể thực hiện hợp đồng, thì
hợp đồng có thể được chấm dứt với sự chấp thuận của Bộ trưởng phụ
thuộc vào các điều kiện bảo vệ quyền của người lao động đối với các
khoản tiền lương nhận được, bất kỳ khoản tiền trả chậm nào phải trả
người lao động, bất kỳ khoản bồi thường nào phải trả cho người lao
động, và quyền hồi hương của người lao động”. Khi nghiên cứu pháp
luật lao động Brunei, có thể thấy điểm đặc biệt là người lao động được
đảm bảo nhiều quyền lợi và bên cạnh đó, quyền hồi hương – quyền được
chu cấp kinh phí trở về quê hương được Brunei rất coi trọng.


Quyền lợi của người lao động khi người lao động đơn phương chấm

dứt hợp đồng lao động.

7

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2010), Pháp luật lao động các nước ASEAN, Nxb. Lao động
– Xã hội, Hà Nội, tr. 22.


19
Pháp luật các nước đều thừa nhận quyền đơn phương chấm dứt hợp

đồng lao động của người lao động. Tuy nhiên, các quyền lợi mà người
lao động được hưởng ở mức độ như thế nào và bao gồm những gì thì còn
phụ thuộc vào tính chất của hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động: đúng pháp luật hay trái pháp luật. Thông thường, khi người lao
động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật, họ được
hưởng nhiều quyền lợi, cụ thể như trợ cấp thôi việc, bảo hiểm thất
nghiệp và một số quyền lợi khác.
Tuy nhiên, trong các trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng
lao động trái pháp luật thì thông thường, người lao động không được
hưởng các quyền lợi như trợ cấp thôi việc, bảo hiểm thất nghiệp và có
thể phải bồi thường cho người sử dụng lao động nếu gây thiệt hại.


Quyền lợi của người lao động khi người sử dụng lao động đơn

phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Tương tự như các trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người sử dụng lao động cũng được pháp luật lao động các quốc gia xem
xét ở góc độ đúng pháp luật và trái pháp luật. Căn cứ vào tính chất của
sự kiện chấm dứt đó, các quyền lợi mà người lao động được hưởng cũng
khác nhau. So với việc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động, các trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt
đa dạng hơn bởi người sử dụng lao động có thể phải chấm dứt hợp đồng
lao động trong những trường hợp đặc biệt như: khi người sử dụng lao
động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế; khi sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách doanh nghiệp. Trong các trường hợp này, thông thường,
người sử dụng lao động phải trợ cấp cho người lao động bởi họ đột ngột
bị mất việc làm mà hoàn toàn không do lỗi của họ, ví dụ: Điều 283 Bộ
luật Lao động Philippin quy định: “Trong trường hợp chấm dứt do lắp



20
đặt các thiết bị tiết kiệm sức lao động, thừa người lao động, công nhân bị
ảnh hưởng sẽ được nhận một khoản thanh toán bằng ít nhất một tháng
hoặc một tháng lương trả cho mỗi năm phục vụ, tính theo mức nào cao
hơn. Trong trường hợp giãn thợ để ngăn chặn thua thiệt và trong trường
hợp đóng cửa hoặc ngừng hoạt động của doanh nghiệp hoặc hoạt động
không phải do thua thiệt kinh doanh nghiêm trọng hoặc tác động tài
chính, khoản tiền bù mất việc sẽ tương đương với thanh toán một tháng
hoặc ít nhất ½ tháng cho mỗi năm phục vụ, tính theo mức nào cao hơn”8.
Đặc biệt, trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì quyền lợi mà họ phải dành
cho người lao động là rất nhiều: người sử dụng lao động phải có trách
nhiệm khôi phục lại quan hệ lao động, tức là nhận lại người lao động trở
lại làm việc theo hợp đồng lao động đã ký và phải bồi thường thêm một
khoản tiền cho người lao động. Bởi lẽ, việc chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật của người sử dụng lao động làm ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống của người lao động và thu nhập đáng lẽ phải có của người lao động
trong những ngày họ không được làm việc, hơn nữa, có thể ảnh hưởng
tới trạng thái tinh thần của người lao động. Do đó, ngoài việc người sử
dụng lao động phải có nghĩa vụ khôi phục lại quan hệ lao động mà còn
phải bồi thường cho người lao động trong khoảng thời gian người lao
động bị chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là hợp lý. Nếu việc
chấm dứt hợp đồng lao động gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người
lao động thì phải có trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường tùy theo
hậu quả xảy ra hành vi vi phạm. Tương ứng với nghĩa vụ của người sử
dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động là quyền lợi chính đáng,
hợp pháp của người lao động.


8

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2010), Tài liệu tham khảo Pháp luật lao động nước ngoài,
Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội, tr. 55.


×