Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.55 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SONESAVANH SAYAKONE

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT
CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới lãnh đạo Trường Đại
học Luật Hà Nội và tập thể cán bộ, giảng viên đã trang bị cho tôi những kiến
thức thiết thực trong suốt quá trình học tập tại Việt Nam.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS. TS. Trần
Ngọc Dũng, người đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt quá trình làm luận
văn thạc sĩ của mình.
Để thực hiện tốt luận văn, không thể không nói đến sự giúp đỡ của Thư
viện Trường Đại học Luật Hà Nội đối với tôi trong việc tìm tài liệu và giải


quyết khó khăn về ngôn ngữ. Không thể không nói đến sự động viên giúp đỡ
của gia đình, bạn bè,…
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 3 tháng 11 năm 2016
Tác giả

Sonesavanh Sayakone


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng
dẫn của PGS. TS. Trần Ngọc Dũng. Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong
đề tài là nghiêm túc và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin về số liệu,
dẫn chững phân tích và một số ý kiến đánh giá đều được trích dẫn từ những
nguồn tư liệu đáng tin cậy.

Tác giả

Sonesavanh Sayakone


1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 3
CHƯƠNG 1 ................................................................................................. 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA CỘNG HÒA

DCND LÀO ................................................................................................. 10
1.1. Khái quát chung về quyền tự do kinh doanh ....................................... 10
1.1.1. Khái niệm kinh doanh................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm quyền tự do kinh doanh ............................................... 13
1.2. Pháp luật về quyền tự do kinh doanh của Cộng hòa DCND Lào......... 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền tự do kinh doanh ........................... 17
1.2.2. Cơ cấu của pháp luật về quyền tự do kinh doanh của Lào ............ 18
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở Lào ............ 19
1.3. Lịch sử phát triển của pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở nước
CHDCND Lào. ......................................................................................... 24
1.4. Ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh đối với nền kinh tế của nước
CHDCND Lào. ......................................................................................... 27
CHƯƠNG 2 ................................................................................................. 31
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở
NƯỚC CỘNG HÒA DCND LÀO ............................................................... 31
2.1. Các quy định về quyền tự do thành lập doanh nghiệp. ........................ 31
2.2. Các quy định về quyền tự do quản lý doanh nghiệp............................ 38
2.3. Các quy định về quyền sở hữu đối với tài sản đưa vào kinh doanh. .... 42
2.4. Các quy định về quyền tự do giao kết hợp đồng. ................................ 46
2.5. Các quy định về quyền tự do trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế. 52
2.6. Các quy định về quyền tự do sử dụng lợi nhuận thu được. ................. 56
2.7. Các quy định về quyền tự do tổ chức lại doanh nghiệp. ...................... 60
CHƯƠNG 3 ................................................................................................. 65


2

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở NƯỚC CỘNG HÒA DCND LÀO ...... 65
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở Cộng

hòa DCND Lào. ........................................................................................ 65
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở Cộng
hòa DCND Lào ......................................................................................... 68
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tự do
kinh doanh tại CNDCND Lào ................................................................... 70
KẾT LUẬN.................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 76


3

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh
doanh. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở trong từng thời kỳ lịch sử
cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh doanh cũng khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó, pháp luật giữ vai trò
đặc biệt quan trọng. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh hệ thống pháp luật là
một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo quyền tự do kinh
doanh.
Sự khác nhau về tính hoàn thiện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật
là một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo thực hiện quyền tự
do kinh doanh. Thông thường, ở những quốc gia có hệ thống pháp luật đồng
bộ thống nhất, minh bạch, có hiệu quả là những nước có thể khơi dậy nguồn
hứng khởi cho các nhà kinh doanh, thu hút được các nguồn đầu tư cho sự phát
triển kinh tế.
Tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây, do áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, tự do kinh
doanh đã không được pháp luật công nhận và trên thực tế không tồn tại khái
niệm "quyền tự do kinh doanh".

Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn kiện chính thức của
Đảng và Nhà nước của Cộng hòa nhân chủ nhân dân Lào hiện nay cũng khó
có thể tìm thấy khái niệm "quyền tự do kinh doanh", do đó quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể kinh doanh còn rất nhiều hạn chế.
Bởi vây, việc nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa học, những định
hướng và giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
kinh doanh là một yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã lựa
chọn vấn đề: “Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của nước Cộng hòa


4

dân chủ nhân dân Lào” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học của mình với
mong muốn góp phần vào việc bổ sung thêm cơ sở lý luận cũng như đưa ra
một số giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này tại nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, khái niệm quyền tự do kinh doanh từ lâu đã được sử
dụng khá phổ biến và rộng rãi. Quyền tự do kinh doanh gắn liền với thuyết tự
do hóa kinh tế của Adam Smith. Ông cho rằng, “tự do trong kinh tế là tự do
chọn nghề, tự do hành nghề, tự do sở hữu và tự do cạnh tranh được pháp luật
đảm bảo.” (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations,
1776)
Quyền tự do kinh doanh ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào gắn
liền với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đang được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học
thuộc nhiều lĩnh vực.
Tại Việt Nam, ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có khá nhiều
công trình trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề quyền tự do kinh doanh
và pháp luật kinh tế, như: Quyền con người trong thế giới hiện đại do TS.

Phạm Khiêm Ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ biên (Viện thông tin khoa
học xã hội, Đề tài KX 07-16, xuất bản năm 1995); Pháp luật trong cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước của PGS.TS Trần Ngọc Đường (Nghiên
cứu lý luận, (4), 1992); Thực trạng pháp luật kinh tế ở nước ta và cấc quan
điểm đổi mới đưa pháp luật kinh tế vào cuộc sống của PGS.TS Nguyễn Niên
[Kỷ yếu Đề tài KX03-13, 1993]; Quan điểm pháp luật kinh tế trong nền kinh
tế thị trường của cố PGS.TS Trần Trọng Hựu [Kỷ yếu Hội thảo pháp luật
kinh tê Bộ Tư pháp 1993]; Một số vấn đề cấp thiết cần giải quyết để đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của TS. Dương Đăng Huệ [Kỷ yếu hội thảo: Pháp
luật hợp đồng, do Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức, ngày 29/4/2004];


5

Pháp luật kinh tế nước ta trong bước chuyển sang kinh tế thị trường của TS.
Nguyễn Như Phát và Bùi Nguyên Khánh [NXB CNND, 2001]; Môi trường
pháp luật kinh tế đầy đủ phù hợp với cơ chế thị trường của TS. Hoàng Thế
Liên [Tập bài giảng dự án TA2853/VIE – Đào tạo lại cán bộ luật của Chính
phủ, tr 16-41, 1998]; Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của PGS.TS Lê Hồng Hạnh
chủ biên [Trung tâm học liệu – DHSP Hà Nội, 2002]; Hoàn thiện luật kinh tế
ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận
án Phó Tiến sĩ của Nguyễn Am Hiếu [Luận án Phó tiến sỹ Luật học, Hà Nội,
1996]; Đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế
thị trường Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh Mẫn [Luận án
Phó tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1996]; Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật
kinh tế Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của Bùi Ngọc Cường [NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004].
Ngoài ra, vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế còn thu hút sự chú ý của
nhiều đề tài khoa học thuộc dự án do các tổ chức quốc tế thực hiện như: Dự

án của UNDP mang tên Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam (Dự án
VIE/94/003 Dự án VIE/94/003 – thực hiện bởi Bộ Tư pháp Việt Nam cùng
Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc, 2003-2008) mà nội dung chính là
xây dựng khung pháp luật kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên ở Việt
Nam đã đề cập đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của quyền tự
do kinh doanh. Trong khi đó, việc nghiên cứu vấn đề quyền tự do kinh doanh
tại Lào vẫn chưa có tác giả nào đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản và hệ
thống, cho đến nay mới chỉ có một số công trình nghiên cứu được công bố
liên quan đến pháp luật kinh tế nói chung như: “Xây dựng đội ngũ quản trị
kinh doanh trong bước chuyển sang kinh tế thị trường ở Cộng hòa dân chủ


6

nhân dân Lào” Luận án tiến sỹ của tác giả Chăn Phon Bunsulin, Học viện
Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, năm 1995; “Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật trong điều kiện đổi mới hiện nay ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào” Luận án tiến sỹ của ChomKham Búp Phả Li Văn, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; “Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong
quá trình đổi mới quản lý kinh tế của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào”, Luận án tiến sỹ của Xổm Xay Xỉ Hà Chắc, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2001; Vì vậy vấn đề quyền tự do kinh doanh tại Lào cần phải được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Căn cứ vào những quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và
Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về xây dựng và phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cũng như từ thực tiễn xây dựng pháp luật trong thời gian qua, mục

đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ quan niệm về quyền tự do kinh
doanh, vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc đảm bảo quyền tự do kinh
doanh. Trên cơ sở đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở Lào.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh; từ đó
xác định đúng đắn bản chất, nội dung, những yếu tố chi phối quyền tự do kinh
doanh.
- Nghiên cứu, lý giải vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của quyền tự do
kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành.


7

- Đề ra phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp
luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào.
4. Đối tượng và phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Quyền tự do kinh doanh là vấn đề rất nhạy cảm có quan hệ mật thiết
với nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phương
tiện quan trọng nhất đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh được thực hiện và
phát huy giá trị tích cực trong cuộc sống.
Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trong khuôn khổ pháp
luật kinh tế. Pháp luật kinh tế là bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế. Với nội
dung, cơ cấu, cơ chế điều chỉnh của mình, pháp luật kinh tế có mối quan hệ
mật thiết và có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh.
Pháp luật kinh tế được đề cập trong luận văn là khái niệm tổng hợp chỉ tổng
thể các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có quan

hệ trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý nền kinh
tế.
Khi nghiên cứu hệ thống pháp luật kinh tế, luận văn cũng chủ yếu chỉ
đi sâu nghiên cứu những chế định pháp luật có liên quan trực tiếp nhất với sự
hình thành và đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Vì vậy, hướng nghiên cứu
của luận văn là luôn bám sát mối quan hệ giữa yêu cầu của quyền tự do kinh
doanh mà pháp luật kinh tế phải thể chế hóa và đảm bảo.
Tác giả của luận văn cũng ý thức được rằng để đảm bảo quyền tự do
kinh doanh cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau
như cải cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ, công
chức nhà nước, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh... Đó là những vấn đề phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu
ở các công trình khoa học pháp lý tiếp theo sau này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài


8

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thực chất của quá trình này là dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội để phát huy mọi tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác
- Lênin, của lý luận về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là lý luận về pháp luật
kinh tế trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Luận văn đặc biệt chú ý đến việc
vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp, như phân tích, so
sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài
đặt ra.

6. Những điểm mới của luận văn
Sauk hi nghiên cứu đề tài, luận văn đã đạt được những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống lý
luận về quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
- Luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện
những chế định pháp luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc đảm bảo
thực hiện quyền tự do kinh doanh ở Lào. Trong đó, đáng chú ý là hình thức sở
hữu pháp nhân; thống nhất sự điều chính pháp luật về doanh nghiệp; thống
nhất sự điều chỉnh pháp luật về hợp đồng. Đó là những vấn đề mới mẻ trong
khoa học pháp lý tại Lào hiện nay.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm
bảo quyền tự do kinh doanh ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, luận văn đã


9

đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần vào hoạt động xây dựng pháp luật
kinh tế của Lào trong thời gian tới, nhằm đảm bảo sự vận hành của nền kinh
tế thị trường với nguyên tắc cơ bản là tự do kinh doanh.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, nội dung luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh và pháp
luật về quyền tự do kinh doanh của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
tự do kinh doanh ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.


10

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH CỦA
CỘNG HÒA DCND LÀO
1.1. Khái quát chung về quyền tự do kinh doanh
1.1.1. Khái niệm kinh doanh
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất
hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương pháp và biện pháp nhằm tổ chức
các hoạt động kinh tế, phản ánh quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục đích
thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Kinh doanh (tiếng
Anh: Business) là hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm mục đích đạt lợi
nhuận qua một loạt các hoạt động như: Quản trị, tiếp thị, tài chính, kế toán,
sản xuất.
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài
người. Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh
như công ty, tập đoàn, tư nhân... nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của
các cá nhân. Để đánh giá các hoạt động kinh doanh, người ta có nhiều chỉ tiêu
khác nhau như doanh thu, tăng trưởng, lợi nhuận biên, lợi nhuận ròng...
Hoạt động kinh doanh gắn liền với quan hệ sở hữu và bị quan hệ sở
hữu chi phối. Trong tác phẩm "Tư bản", Karl Marx đã phân biệt rõ hai loại tư
bản: tư bản sở hữu và tư bản chức năng. Tư bản sở hữu là tư bản "chết", nằm
yên; tư bản chức năng là tư bản hoạt động, tư bản kinh doanh, làm cho tư bản

"chết" thành tư bản "sống".
Tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu sẽ có một chế độ kinh doanh
nhất định. Mặt khác, quan hệ kinh doanh có tác động trở lại quan hệ sở hữu.


11

Quan hệ sở hữu quyết định bản chất xã hội của quan hệ kinh doanh, mục đích
và xu hướng vận động của nó. Nhưng tự nó, quan hệ sở hữu không tạo ra và
không làm tăng thêm sản phẩm và giá trị. Nó chỉ là điều kiện cơ bản và tiên
quyết của kinh doanh. Muốn làm được điều đó quan hệ sở hữu phải được thực
hiện thông qua quan hệ kinh doanh. Nhờ có quan hệ kinh doanh mà quan hệ
sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, kinh doanh càng có hiệu quả thì mức
độ thực hiện sở hữu về mặt kinh tế càng cao.
Kinh doanh bao giờ cũng phục vụ cho chế độ sở hữu, là hành động tiếp
theo của sở hữu. Do đó, kinh doanh đóng vai trò làm cho sở hữu từ chỗ tồn tại
về mặt hình thức trở thành tồn tại hiện thực. Với quan niệm đó, kinh doanh
được chia thành nhiều kiểu, chế độ, lĩnh vực khác nhau, như kinh doanh trong
nền sản xuất hàng hóa giản đơn, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; kinh
doanh tư bản chủ nghĩa, kinh doanh xã hội chủ nghĩa; kinh doanh trong công
nghiệp, kinh doanh trong nông nghiệp, kinh doanh trong thương nghiệp, kinh
doanh trong vận tải... Tuy nhiên, dù phân chia như thế nào thì mục đích cuối
cùng của kinh doanh là làm tăng thêm giá trị vật chất cho xã hội và đối với
từng nhà kinh doanh thì đó chính là lợi nhuận.
Theo Tiến sĩ Bùi Xuân Hải và Thạc sĩ Hà Thị Thanh Bình, kinh doanh
là phương thức hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn tại nền kinh tế hàng hoá,
gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương tiện mà chủ thể kinh
tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao gồm quá trình
đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ...) trên cơ sở vận dụng quy luật
giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời cao nhất

[22, tr.1] Trước đây, kinh doanh và tự do kinh doanh đã không được thừa
nhận trong đường lối, chính sách và thực tiễn pháp luật của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới sau Nghị quyết của
phiên họp bất thường lần thứ 4 của Quốc hội Lào về việc ban hành Luật Kinh
doanh số 005, ngày 18 tháng 7 năm 1994, và tiếp tục được khẳng định lại


12

trong Luật Doanh nghiệp 2005, quyền tự do kinh doanh của công dân cũng đã
được ghi nhận trong Hiến pháp 2003.
Ở góc độ đời thường, hành vi kinh doanh thường được hiểu là hành vi
mà chủ thể thực hiện nhằm mục đích sinh lợi. Trong luật thực định của Việt
Nam, kinh doanh được định nghĩa trong các đạo luật về công ty (năm 1990),
Luật Doanh nghiệp (1999, 2005) và hiện nay là trong Luật Doanh nghiệp
(2014). Khoản 2, Điều 4 của Luật Doanh nghiệp (2014) quy định: “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Khái niệm kinh doanh đề cập đến mục đích của hành vi và nơi mà hành
vi của chủ thể có thể thực hiện, nó bao trùm tất cả các giai đoạn của hoạt động
đầu tư kinh doanh, từ việc bỏ vốn vào đầu tư, đến sản xuất, gia công, chế biến
hàng hóa, cung ứng các loại dịch vụ trên thị trường, như: đại lý, môi giới, ủy
thác, dịch vụ giao nhận v.v… nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nói một cách khác,
khái niệm này tập trung vào bản chất của hành vi, mục đích của hành vi chứ
không phải kết quả cụ thể mà các bên đạt được trong thực tiễn.
Khái niệm về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp (2014) hàm ý ba
đặc tính cơ bản:
- Hoạt động kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp;
- Hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường;

- Hoạt động kinh doanh có mục đích là lợi nhuận;
Một khái niệm nữa rất gần với kinh doanh là thương mại. Cụ thể, nếu
xem xét trong luật thực định của Việt Nam, có thể so sánh định nghĩa về kinh
doanh trong Luật Doanh nghiệp và định nghĩa về họat động thương mại theo
Luật Thương mại (2005) khi mà đạo luật này đã có sự mở rộng khái niệm
họat động thương mại rất nhiều so với Luật Thương mại (1997). Theo Khoản
1 Điều 3 của Luật Thương mại (2005), “hoạt động thương mại là hoạt động


13

nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Với khái niệm trên, kinh doanh đã được hiểu một cách đầy đủ, đúng
đắn bao gồm tất cả các hoạt động như: đầu tư, sản xuất, trao đổi, dịch vụ nếu
các hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động này không nhất thiết
phải bao gồm tất cả các công đoạn để đạt đến kết quả cuối cùng mà chỉ cần
một trong các hoạt động nói trên là đủ, miễn sao hoạt động đó có mục đích
sinh lợi. Với khái niệm này, kinh doanh có nội dung rất rộng và ở mức độ
khái quát có thể đưa ra những dấu hiệu đặc trưng sau:
- Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là
trong xã hội đã có những người, nhóm người, tổ chức mà nghề nghiệp chính
của họ là kinh doanh, sống bằng nghề kinh doanh. Kinh doanh mang tính
thường xuyên, liên tục, ổn định và lâu dài.
- Kinh doanh là hành vi diễn ra trên thị trường. Cụ thể, hoạt động kinh
doanh phản ánh mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau, với xã hội nói
chung thông qua các quan hệ mua bán, trao đổi, tiêu dùng... Những quan hệ
này tự nó phản ánh quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
- Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận.
Kinh doanh đã trở thành một nghề trong xã hội (và là nghề quan trọng

vì nó tạo ra của cải vật chất, tinh thần để xã hội tồn tại và phát triển), do đó nó
có những đòi hỏi riêng về chủ thể cũng như điều kiện để hoạt động kinh
doanh.
1.1.2. Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các
quyền tự do của công dân. Để có quan niệm đúng đắn về nó, trước hết cần tìm
hiểu để nhận thức đầy đủ nội hàm các khái niệm quyền con người, quyền
công dân nói chung.


14

Quyền con người (nhân quyền), quyền công dân (dân quyền) luôn là
mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời kỳ lịch sử. Mỗi bước phát triển của
lịch sử xã hội loài người đều gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng
xã hội nhằm giải phóng con người. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại có các
quan niệm khác nhau về sự ra đời, bản chất của quyền con người.
Trước khi học thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời, trong lịch sử nhân
loại đã từng có quan niệm (tuy còn ít và rời rạc) cho rằng con người mang
thuộc tính tự nhiên, con người ra đời đương nhiên có quyền tự do. Quyền tự
do của con người không do ai ban phát. Quyền con người xuất hiện trước khi
có Nhà nước, pháp luật. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, quan niệm này thể
hiện khát vọng của con người, khi mà các quyền tự do của họ bị chà đạp, nhu
cầu về quyền tự do đã trở nên bức xúc. Lúc đó người ta thường tìm đến tính
chất tự nhiên "tạo hóa", "bẩm sinh" các quyền tự do của con người. Nhận xét
về quan niệm này, GS.TS Hoàng Văn Hảo viết: "Quan niệm này thể hiện tính
triết học nhân bản, nhưng khó tránh khỏi tính trừu tượng phi lịch sử, khó
tránh khỏi tính chất ảo tưởng khi xác định nội dung các quyền con người,
quyền công dân trong đời sống thực tiễn" [20]
Quan Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đặt con người cũng

như quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của
con người là khái niệm mang tính lịch sử, hình thành và phát triển trong cuộc
đấu tranh giai cấp vì sự tiến bộ xã hội. Quyền tự do của con người không phải
là khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang
tính tự nhiên bẩm sinh, mà luôn gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã hội,
chịu sự chi phối của chế độ chính trị, chế độ kinh tế...
Khái niệm quyền tự do của con người không thể đặt trừu tượng bên
ngoài Nhà nước và pháp luật. Quyền tự do của con người phản ánh mối quan
hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Với quan niệm đó, quyền con người được xem


15

là giá trị được xã hội hóa, nghĩa là phải được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm
bằng pháp luật thì mới trở thành hiện thực.
Cũng cần lưu ý là khái niệm quyền con người và khái niệm quyền công
dân là không đồng nhất, xét về cả hai phương diện chủ thể và nội dung.
Quyền con người là khái niệm rộng hơn khái niệm quyền công dân. Khái
niệm quyền công dân mang tính xác định gắn liền với mỗi quốc gia, được
pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Khái niệm quyền công dân không chứa
đựng hết khái niệm quyền con người. Về phương diện chủ thể, quyền công
dân là cá nhân được xác định là công dân (có quốc tịch), trong khi đó chủ thể
quyền con người, ngoài những cá nhân là công dân, còn bao gồm cả những
người không phải là công dân (người nước ngoài, người không có quốc tịch,
người bị pháp luật tước quyền cồng dân). Những người này tuy không được
hưởng thể tự nhiên - xã hội.
Ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, cũng như ở các nước xã hội chủ
nghĩa khác, trong đó có Việt Nam, quyền con người ít được nói đến, được
mặc nhiên đồng nhất với quyền công dân. Trong các văn bản pháp luật chỉ sử
dụng thuật ngữ quyền công dân. Trong quá trình đổi mới do Đảng nhân dân

Cách mạng Lào đề xướng, những tri thức hợp lý của nhân loại đã và đang
được Lào và Việt Nam tiếp thu. Điều 5 Hiến pháp Lào quy định “Nhà nước
bảo hộ quyền tự do và dân chủ của người dân mà không thể bị xâm phạm bởi
bất cứ ai. Tất cả các tổ chức nhà nước và chính phủ các quan chức phải phổ
biến và nâng cao nhận thức của tất cả các chính sách, quy định và pháp luật
trong nhân dân, và cùng với nhân dân, tổ chức của họ thực hiện nhằm đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tất cả các hành vi quan
liêu, sách nhiễu làm có thể gây phương hại đến danh dự của nhân dân, thể
chất, sức khỏe, đời sống, lương tâm và tài sản đều bị cấm.”


16

Điều 14 Hiến pháp Việt Nam (2013) của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định: “1.Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện
tốt các quyền công dân cũng chính là đã thực hiện nội dung cơ bản của quyền
con người.
Các quyền tự do của công dân rất đa dạng, liên quan đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Trong hệ thống các quyền tự do đó thì quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền tự do kinh
doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế
luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các hoạt động khác.
Từ quan niệm chung về quyền tự do của con người, chúng ta có thể
khẳng định rằng quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý. Dưới góc

độ này, quyền tự do kinh doanh được hiểu theo nghĩa chủ quan và nghĩa
khách quan.
+ Theo nghĩa chủ quan (hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chủ thể),
quyền tự do kinh doanh là khả năng hành động một cách có ý thức của cá
nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo
nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân hay
pháp nhân có thể xử sự, như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp,
tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập
các quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt trong việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh... Những khả năng xử sự
này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp nhân) chứ không phải do


17

Nhà nước ban tặng. Song những khả năng xử sự đó muốn trở thành hiện thực
thì phải được Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó nó mới trở thành
"thực quyền". Cũng chính vì vậy mà quyền tự do kinh doanh với tư cách là
quyền năng chủ thể cũng có giới hạn nhất định, vì như V. Lênin từng chỉ rõ:
"Sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều
không thể được" [23, tr.90]
+ Theo nghĩa khách quan (hoặc được xem xét dưới góc độ là một chế
định pháp luật), quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật
và những đảm bảo pháp lý do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các
cá nhân hay pháp nhân thực hiện quyền chủ thể nói trên. Với quan niệm đó,
quyền tự do kinh doanh bao gồm những quyền mà họ được hưởng; mặt khác,
đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước khi thực
hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ những quyền của chủ
thể kinh doanh. Hai mặt này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý tự do
kinh doanh. Nếu chỉ thừa nhận những quyền của chủ thể mà không đảm bảo

cho nó những điều kiện đế thực hiện thì quyền tự do kinh doanh cũng chỉ
mang tính hình thức mà thôi.
1.2. Pháp luật về quyền tự do kinh doanh của Cộng hòa DCND
Lào.
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh được hình thành trong tiến trình đổi mới cơ
chế kinh tế của Nhà nước Lào. Để quyền này được thực hiện một cách tự
giác, đầy đủ và phát huy giá trị đích thực của nó đòi hỏi phải có những tiền
đề, điều kiện về chính trị, kinh tế và pháp luật. Pháp luật đóng vai trò chủ đạo
trong việc hình thành và bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở Lào. Hệ thống
pháp luật có chất lượng cao (về cơ cấu, nội dung, hình thức và cơ chế điều
chỉnh) thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đồng bộ những yêu cầu của quyền tự do
kinh doanh sẽ là sự đảm bảo pháp lý vững chắc làm cho quyền tự do kinh


18

doanh trở thành hiện thực sống động trong đời sống kinh tế của đất nước.
Trong đó, pháp luật kinh tế là yếu tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất trong
việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh.
Như vậy, ở mức độ khái quát có thể hiểu pháp luật về quyền tự do kinh
doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực
hiện và quản lý hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh được quy định
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Lào. Hiến pháp 2003
Luật Doanh nghiệp 2013; có nhiều quy định cụ thể về hoạt động này. Tiếp
đến là các đạo luật chứa đựng các chế định bảo vệ cũng như thúc đẩy quyền
tự do kinh doanh đồng thời hạn chế những hoạt động xâm phạm hoặc cản trở
tự do kinh doanh như Luật Hợp đồng (2008), Luật Giải quyết tranh chấp kinh
tế (2005) … và các văn bản dưới luật có liên quan.

1.2.2. Cơ cấu của pháp luật về quyền tự do kinh doanh của Lào
Cơ cấu của pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ
nội tại thống nhất, được phân định thành các chế định pháp luật và ngành luật.
Trong đó:
Quy phạm pháp luật là đơn vị nhỏ nhất cấu thành hệ thống pháp luật.
Chế định pháp luật là một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh một
nhóm quan hệ xã hội cùng loại có mối liên hệ mật thiết với nhau
Ngành luật là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Về lý luận, hệ thống
pháp luật về quyền tự do kinh doanh là khái niệm chỉ toàn bộ các bộ phận
cấu thành có mối quan hệ với nhau theo những nguyên tắc pháp lý nhất
định, tạo nên chỉnh thể pháp luật về quyền tự do kinh doanh.
Quyền tự do kinh doanh có nội dung rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh
vực và luôn được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Cơ cấu của nó bao gồm các


19

chế định của Luật Kinh tế và của các ngành luật chuyên ngành trên các
phương diện:
Thứ nhất là sự ghi nhận, công nhận quyền tự do của các chủ thể trong
quá trình sản xuất, kinh doanh (quyền chủ thể). Ở phương diện này, chủ thể
có quyền tự do thực hiện một loạt các hành vi trong kinh doanh, như: Quyền
tự do thành lập doanh nghiệp, quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh,
quy mô kinh doanh, quyền tự do hợp đồng, quyền tự do liên kết, quyền tự do
lựa chọn bạn hàng, tự do thuê mướn lao động…
Thứ hai là những quy định về những điều kiện, những bảo đảm pháp lý
nhằm tạo ra khuôn khổ hay môi trường nhằm đảm bảo thực hiện những quyền
tự do đó, làm cho quyền tự do kinh doanh phát triển một cách tự giác, bao
gồm hàng loạt các biện pháp bảo đảm như: Bảo đảm an toàn về sở hữu, bảo

đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, bảo đảm giải quyết phá sản, giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ kinh doanh, bảo đảm những điều kiện, thủ
tục trong kinh doanh như giấy phép thành lập, đăng kí kinh doanh… cùng với
trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước có liên quan.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở Lào
Pháp luật về quyền tự do kinh doanh ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
bao gồm 7 chế định chính là: Chế định quyền tự do thành lập doanh nghiệp,
Chế định quyền tự do quản lý doanh nghiệp, Chế định quyền sở hữu đối với
tài sản đưa vào kinh doanh, Chế định quyền tự do giao kết hợp đồng, Chế
định quyền tự do trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế, Chế định quyền tự
do sử dụng lợi nhuận thu được và Chế định quyền tự do tổ chức lại doanh
nghiệp.
1.2.3.1. Chế định quyền tự do thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh
doanh
Đây là chế định quy định nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh,
là tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc nội dung của quyền tự do kinh


20

doanh. Với quyền tự do thành lập doanh nghiệp các nhà đầu tư có khả năng
quyết định lựa chọn mô hình kinh doanh và lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh
thích hợp để tiến hành hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao.
1.2.3.2. Chế định quyền tự do giao kết hợp đồng
Tự do giao kết và thực hiện hợp đồng là một trong những nội dung
quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Thông qua việc thiết lập và thực hiện
các hợp đồng, các chủ thể kinh doanh có thể tiến hành các hoạt động kinh
doanh một cách chủ động. Về mặt lý luận, quyền tự do hợp đồng được coi là
một bộ phận cấu thành quan trọng, là biểu hiện sinh động nhất bằng pháp luật
có tác động lớn tới quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, bao

gồm những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất là quyền tự do giao kết hợp đồng,
Thứ hai là quyền lựa chọn đối tác, Thứ ba là quyền tự do thỏa thuận những
hợp đồng và cuối cùng là quyền tự do thỏa thuận để thay đổi, đình chỉ hay
hủy bỏ hợp đồng.
1.2.3.3. Chế định quyền tự do trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế
Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền,
nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi tham gia quan hệ kinh
doanh. Quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế
được thể hiện ở quyền định đoạt của các đương sự. Bảo đảm quyền tự do kinh
doanh chính là bảo đảm cho đương sự có quyền tự do quyết định những vấn
đề liên quan đến việc bảo vệ lợi ích của họ. Pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế ở Lào bước đầu đã được xác lập cơ chế để đảm bảo quyền tự định đoạt
của các đương sự trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế. Pháp luật ghi nhận
quyền tự do định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc của tố
tụng kinh tế.
Trong hệ thống pháp luật, quyền tự do định đoạt của chủ thể kinh
doanh được cụ thể hóa thành quyền năng pháp lý ở nhiều phương diện như:
Nhà nước khuyến khích các chủ thể kinh doanh chủ động giải quyết với nhau


21

theo phương châm “ đóng cửa bảo nhau” nhằm giữ gìn quan hệ bạn bè thân
thiện trong một số lĩnh vực tranh chấp, vấn đề “ tự giải quyết” không còn là
sự khuyến khích nữa mà là yêu cầu bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Chỉ
khi nào các bên không tự giải quyết được thì mới nhờ đến sự giúp đỡ của các
cơ quan tài phán. Việc có yêu cầu các cơ quan tài phán giúp đỡ giải quyết
tranh chấp hay không là quyền của các bên. Họ có quyền khởi kiện hay không
khởi kiện. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp kinh tế được coi là công việc
riêng tư, tự nguyện của các chủ thể kinh doanh.

1.2.3.4. Chế định quyền tự do quản lý doanh nghiệp
Trong xã hội ngày nay, ở đâu chúng ta cũng có thể nhìn thấy lãnh đạo:
mỗi quốc gia đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo; các công ty có
chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch công ty, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận
lãnh đạo; quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân
đội các cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng đầu có
quyền uy lãnh đạo các thành viên trong tổ chức.
Trong cuộc sống thực tế, lãnh đạo và quản lý là những khái niệm có sự
tương đồng, quá trình lãnh đạo gần như chính là quá trình quản lý. Tuy nhiên
thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý quan hệ giữa
người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Còn về quản lý,
ngoài quản lý con người, đối tượng của quản lý còn bao gồm tài chính, vật
chất ... Quản lý không chỉ xử lý quan hệ giữa người với người mà còn phải xử
lý mối quan hệ tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con
người và tài chính.


22

Bên cạnh quyền tự do thành lập thì quyền quản lý doanh nghiệp cũng là
một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của quyền tự do kinh doanh. Quyền
và nghĩa vụ của một chủ thể kinh doanh thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa chủ
thể kinh doanh và cơ sở kinh doanh của họ. Hay nói cách khác, nhà nước trao
quyền đinh đoạt cho chủ thể kinh doanh, trong đó có quyền quản lý và điều
hành doanh nghiệp. Theo đó, chủ doanh nghiệp có quyền quyết định cơ cấu tổ
chức quản lý doanh nghiệp, có thể trực tiếp hoặc thuê người khác để quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp của mình theo quy định của pháp
luật.
1.2.3.5. Chế định quyền sở hữu đối với tài sản đưa vào kinh doanh

Đối với quyền tự do kinh doanh thì quyền sở hữu tư liệu sản xuất giữ vị
trí, vai trò quan trọng nhất. Đây được coi là nền tảng, là tiền đề cho việc hình
thành và thực hiện quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi được sở hữu tư liệu sản
xuất thì người ta mới có thể dùng tài sản để đầu tư vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Người nắm giữ tài sản sẽ nắm giữ quyền quản lý, quyền phân
phối thu nhập.
Quyền được đảm bảo sở hữu tài sản có tác động tích cực, mạnh mẽ đến
các quyền tự do khác, như: tự do thành lập doanh nghiệp, tự do hợp đồng, tự
do cạnh tranh…Đối với quyền tự do thành lập doanh nghiệp, quyền sở hữu tư
liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Không ai có thể tự do thành lập doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh nếu không có trong tay những tư liệu sản xuất
hay vốn nhất định. Đối với quyền tự do hợp đồng thì vai trò của quyền sở hữu
tư liệu sản xuất càng có vai trò quan trọng. Không ai có thể mua bán, trao đổi
hàng hóa, nếu không xác định được quyền sở hữu của người bán đổi với tài
sản là đối tượng của hợp đồng.
1.2.3.6. Chế định quyền tự do sử dụng lợi nhuận thu được


×