Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề và thực tiễn thi hành tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.86 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BIỆN MINH THÀNH

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
LÀNG NGHỀ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Phương

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật
Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình sau đại học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Giảng
viên – TS Nguyễn Văn Phương, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.


Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 18 tháng 07 năm 2016
Học viên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BVMT

Bảo vệ môi trường

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

UBND


Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Tình trạng ô nhiễm tại các nhóm làng nghề

34

Bảng 2.2. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm

40

ô nhiễm môi trường làng nghề tại Hà Nội

Bảng 2.3. Kiểm tra, thanh tra cơ sở làng nghề tại Hà Nội

47

Bảng 2.4. Bảng báo giá hệ thống xử lý nước thải

50


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ VÀ PHÁP ........ 5
LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ........ 5
1.1. Khái quát về làng nghề và ô nhiễm môi trường làng nghề .................. 5
1.1.1. Khái quát về làng nghề ...................................................................... 5
1.1.2. Khái quát về ô nhiễm môi trường làng nghề .................................... 11
1.2. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề ..................... 14
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường làng nghề ....................................................................................... 14
1.2.2. Các quy định về trách nhiệm quản lí nhà nước đối với bảo vệ môi
trường tại làng nghề .................................................................................. 16
1.2.3. Các quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm bảo vệ môi trường làng nghề ........................... 22
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ TẠI HÀ NỘI ........................ 29
2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại Hà Nội ...................... 29
2.1.1. Tình hình ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề ........................ 29
2.1.2. Hậu quả của ô nhiễm môi trường làng nghề..................................... 31
2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
làng nghề tại Hà Nội ................................................................................... 33
2.2.1. Đánh giá thực tiễn thi hành của cơ quan quản lý nhà nước .............. 33
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực thi của tổ chức, cá nhân .............................. 47
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ ........................ 56
3.1. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề của một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam ............. 56
3.2. Định hướng trong xây dựng chính sách về kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ
môi trường làng nghề ................................................................................. 59



3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
làng nghề ..................................................................................................... 61
3.3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
làng nghề đối với cấp Trung ương ............................................................. 61
3.3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường
làng nghề đối với Hà Nội .......................................................................... 66
3.4. Các giải pháp tổ chức, thực hiện tại Hà Nội ...................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................. 78


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước có nhiều làng nghề. Các làng nghề tập trung
ở nhiều tỉnh, thành, địa phương khác nhau không những mang lại nét văn hóa
truyền thống, bản sắc cho quê hương đất nước mà còn mang lại những lợi ích
kinh tế nhất định.
Trong các địa phương cả nước, Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề nhất.
“Theo Chi cục Bảo vệ môi trường TP Hà Nội, hiện thành phố có 1.350 làng
nghề và làng có nghề, trong đó có 286 làng được công nhận làng nghề truyền
thống. Số làng có nghề phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các huyện:
Phú Xuyên (124 làng), Thường Tín (125 làng), Chương Mỹ (174 làng), Ứng
Hòa (113 làng), Thanh Oai (101 làng), Ba Vì (91 làng),… một số huyện có số
lượng làng có nghề ít như: Thanh Trì (24 làng), Gia Lâm (22 làng), Từ Liêm
(11 làng)…”[1]
Trong thời gian qua, nhiều làng nghề đã được bảo tồn, khôi phục và
phát triển mang lại nhiều tín hiệu tích cực cho đời sống xã hội. Tuy nhiên, đi
kèm với những nét tích cực đó là tình trạng ô nhiễm môi trường trong cả nước
nói chung và Hà Nội nói riêng ngày một phổ biến và nghiêm trọng hơn. Ô

nhiễm môi trường làng nghề không những gây hậu quả nghiêm trọng đối với
môi trường mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, ảnh hưởng tới
thẩm mỹ, cảnh quan đời sống.
Trước thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề, pháp luật kiểm soát ô
nhiễm môi trường làng nghề đã được ban hành và đưa ra nhiều quy định
nhằm điều chỉnh, khắc phục vấn đề này. Tuy nhiên xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, mà việc áp dụng, thực thi pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường làng nghề trên thực tế còn nhiều bất cập. Biểu hiện cụ thể nhất là tại
Hà Nội – nơi tập trung nhiều làng nghề cũng như có nhiều chính sách khuyến
khích, bảo vệ môi trường làng nghề.
[1]

. />

2

Từ những lý do trên cho thấy, việc tìm hiểu những quy định pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề để từ đó đánh giá thực trạng thi
hành của các quy định này tại Hà Nội, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật là một vấn đề quan trọng và mang tính cấp thiết. Do vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài: “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề và thực
tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có rất nhiều sách-báo, các công trình nghiên
cứu về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề được nghiên cứu.
- Về sách-báo: “Làng nghề Việt Nam và môi trường”(2005) của Đặng
Kim Chi (chủ biên, Nxb Khoa học kĩ thuật, Hà Nội) là công trình nghiên cứu
tổng quan về làng nghề và tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề hiện nay.
Bên cạnh đó, có rất nhiều các bài báo, tạp chí viết về vấn đề này mang lại
nhiều giá trị như: các bài viết của Lê Kim Nguyệt (2012) “Thực trạng thực thi

pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam ,Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội nêu lên hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề
cũng như các cách giải quyết, khắc phục; bài viết của Nguyễn Trần Điện
(2015) về “Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về môi trường làng nghề
vùng đồng bằng sông Hồng tại Tạp chí Dân chủ và pháp đã đề cập về các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết khác
mang lại nhiều giá trị tham khảo.
- Về luận án, luận văn: “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do
các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay” của Lê Kim
Nguyệt (2014, Đại học luật Hà Nội) là luận án đi sâu nghiên cứu về kiểm soát
ô nhiễm môi trường làng nghề bao gồm việc phân tích, bình luận các quy định
về pháp luật hiện hành, thực trạng cũng như các giải pháp hoàn thiện pháp
luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề hiện nay. “Thực hiện pháp luật
về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam”
của Nguyễn Trần Điện (2016, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) là
luận án nghiên cứu về việc thực hiện các quy định pháp luật BVMT làng nghề
trên thực tế tại nhiều tỉnh thành trong đó có Hà Nội, chỉ ra những bất cập, hạn


3

chế của việc thực hiện, áp dụng pháp luật trên thực tế cũng như các giải pháp
khắc phục.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về ô nhiễm môi trường
làng nghề cũng như pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề nói
chung. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về việc áp dụng các quy định
pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề trên địa bàn thành phố Hà
Nội cũng như một số nội dung chưa được đề cập tới đặc biệt là các nội dung
được sửa đổi bổ sung kể từ năm 2014 qua luật BVMT 2014 hay Nghị định số
19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật BVMT…
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung tim hiểu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề tại Việt Nam hiện nay cũng
như thực trạng áp dụng pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề tại
Hà Nội để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật cụ thể tại Hà Nội.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phân tích những đặc điểm cơ bản, đặc trưng của làng nghề để thấy
được sự tồn tại, phát triển của làng nghề; ý nghĩa của làng nghề cũng như sự
tác động nhất định của làng nghề tới môi trường.
Tìm hiểu, nghiên cứu các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về
BVMT làng nghề. Từ đó đánh giá những ưu điểm để phát huy hiệu lực trong
thực tế, phát hiện những thiếu hụt, mâu thuẫn hoặc những điểm không còn
phù hợp của các chính sách, pháp luật đang cản trở hoặc làm giảm hiệu lực
của quản lý Nhà nước về BVMT làng nghề.
Nghiên cứu quá trình áp dụng, thực thi pháp luật kiểm soát ô nhiễm
môi trường làng nghề cũng như hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước
trong BVMT làng nghề tại Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật kiểm soát ô
nhiễm môi trường làng nghề bao gồm: Luật Bảo vệ môi trường, các Nghị


4

định, Thông tư hướng dẫn …và thực trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại
Hà Nội cũng như thực tiễn áp dụng của cơ quan quản lý nhà nước cũng như tổ
chức, cá nhân trên địa bàn Tp Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin. Các phương pháp nghiên cứu
gồm: phân tích, so sánh, lịch sử, chứng minh, tổng hợp, quy nạp được kết hợp
để triển khai thực hiện đề tài. Trong đó phân tích, so sánh và chứng minh
thông qua khảo sát thực tiễn là những phương pháp chính của luận văn. Cụ
thể như sau:
- Phương pháp phân tích và khái quát hóa được sử dụng để làm sáng tỏ
các căn cứ, cơ sở khoa học cho việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp so sánh sử dụng để đối chiếu, đánh giá pháp luật hiện
hành với các văn bản pháp luật tiền nhiệm, pháp luật nước ngoài và thực tiễn
áp dụng.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh các luận
điểm, các nhận định và các đề xuất phương án xây dựng, hoàn thiện.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Ô nhiễm môi trường làng nghề và pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường làng nghề
Chương 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường làng nghề tại Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường làng nghề.


5

Chương 1. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1.1. Khái quát về làng nghề và ô nhiễm môi trường làng nghề
1.1.1. Khái quát về làng nghề
1.1.1.1. Khái niệm làng nghề


Lâu nay khái niệm làng nghề thường được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Theo nhà nghiên cứu Trần Minh Yến: "Làng nghề là một thiết chế kinh
tế- xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại
trong một không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình
sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã
hội và văn hóa"[2]. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng cho rằng: "Làng nghề
truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất
thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều
trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng yêu cầu chuyên môn hóa
cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại
làng quê của mình"[ 3]. Thế nhưng, trải qua nhiều bước phát triển, có thể thấy
cho đến nay, làng nghề không còn bó hẹp trong khuôn khổ công nghệ thủ
công, tuy thủ công vẫn là chính, mà một số công đoạn đã được cơ khí hóa
hoặc bán cơ khí hóa và trong các làng nghề, không chỉ có các cơ sở sản xuất
hàng thủ công, mà đã có những có sở dịch vụ và ngành nghề phục vụ cho sản
xuất, như các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phân phối hàng hóa, cungứng-đầu-vào-và-đầu-ra-cho-sản-phẩm-làng-nghề.
Hiện nay, đang có những cách phân loại làng nghề khác nhau. Có
thể phân-loại-như-sau:
(1) Phân loại theo số lượng làng nghề: (i) làng nghề một nghề là những làng
ngoài nghề nông ra, chỉ có thêm một nghề thủ công duy nhất; (ii) làng nhiều
[2]

. Vũ Quốc Tuấn (2010), Làng nghề - Phố nghề Thăng Long Hà Nội trên đường phát triển, Nxb

Hà Nội
[3]

. Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa-Thông tin



6

nghề, là những làng ngoài nghề nông ra còn có thêm một số hoặc nhiều nghề
khác.
(2) Phân loại theo tính chất nghề: (i) làng nghề truyền thống là những làng
nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay; (ii) làng
nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của các làng
nghề truyền thống hoặc du nhập từ các địa phương khác. Một số làng mới
được hình thành do chủ trương của một số địa phương cho người đi học nghề
ở nơi khác rồi về dạy cho dân địa phương nhằm tạo việc làm cho người dân
địa phương mình.
Khi làng nghề ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, khôi
phục và phát triển làng nghề luôn được coi là một chính sách ưu đãi lớn thì
những tiêu chí để dựa vào đó xem xét, công nhận thế nào là một làng nghề
cũng đã được chú ý và được quy định trong những văn bản pháp luật. Trong
thông tư 116/2006/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn ngày 18/12/2006 về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị
định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành
nghề nông thôn, đã đưa ra một khái niệm về làng nghề: Làng nghề là một
hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các
điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành
nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Định
nghĩa này đã giới hạn rất rõ rang phạm vi của một “làng” (thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn).
Thế nào là “nghề” (ngành nghề nông thôn sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản
phẩm khác nhau). Tuy nhiên để được công nhận là một làng nghề thì phải đáp
ứng đủ ba tiêu chí cũng đã được nêu rõ tại Thông tư này, đó là:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn;

- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;


7

- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Những tiêu chuẩn nêu trên chứng tỏ làng nghề đó phải thực sự có tiềm
năng phát triển và cơ hội làm giàu cho người dân, đồng thời cũng là cơ sở
pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước thực hiện những chính sách ưu đãi
đối với làng nghề. Tuy nhiên một điểm đặt ra đó là những làng có nghề đan
xen nhưng không đáp ứng được các tiêu chí trên và theo đó mặc nhiên không
được công nhận là làng nghề, vậy khi các làng có nghề này gây ô nhiễm môi
trường thì xử lí như thế nào (Theo thống kê sơ bộ của Bộ Tài nguyên và Môi
trường hiện nay cả nước có khoảng 5.096 làng nghề và làng có nghề trong đó
số làng nghề đã được công nhận là 1.748 làng nghề )[4]. Trên thực tế việc xử
lý ô nhiễm làng nghề gặp nhiều khó khăn do tỷ lệ làng nghề không được công
nhận gây ô nhiễm là rất lớn.
1.1.1.2. Đặc điểm làng nghề
Thứ nhất, làng nghề Việt Nam mang giá trị văn hóa, tinh thần sâu sắc
Mỗi làng nghề đều có sản phẩm truyền thống của mình, nó mang tính
độc đáo và nghệ thuật cao, nó làm nên bản sắc riêng cho mỗi làng nghề. Mỗi
một sản phẩm, một nghề, một làng nghề vừa có giá trị làm ra vật dụng, vừa
thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo của mỗi dân tộc, mỗi địa
phương, vùng miền. Trong làng nghề, đã tồn tại từ lâu đời các ngành nghề
truyền thống gắn liền với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo
của người nghệ nhân được lưu truyền từ hàng trăm năm. Những giá trị đó
được đời này nối tiếp đời kia gìn giữ, kế thừa và phát triển. Có những sản
phẩm mang dấu ấn thời đại, đặc điểm làng nghề, phong cách nghệ nhân khá
đậm nét. Mỗi làng nghề đều có lịch sử phát triển, có sản phẩm vật thể và phi

vật thể truyền thống, có những nghệ nhân tiêu biểu. Nhắc đến sản phẩm của
một làng nghề là nhớ ngay đến địa danh của nó. Những tên làng đã trở thành
niềm tự hào của dân tộc Việt Nam như gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), khảm gỗ
[4]

. />

8

Đồng Kỵ (Bắc Ninh), mây, tre đan, chiếu cói (Hưng Yên) … Hàng hóa của
các làng nghề đã và đang lan rộng, vươn xa ra các nước trên thế giới, góp
phần quảng bá thương hiệu Việt, văn hóa Việt.
Thứ hai, làng nghề Việt Nam mang lại lợi ích kinh tế to lớn
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ hải quan Việt Nam, tháng 5/2015, Việt
Nam đã thu về 20,4 triệu USD từ xuất khẩu hàng mây, tre, cói và thảm, giảm
9,1% so với tháng 4/2015, tính chung từ đầu năm cho đến hết tháng 5/2015,
xuất khẩu mặt hàng này đạt 104,4 triệu USD, tăng 5,51% so với cùng kỳ năm
2014.Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, tháng 5/2015, Việt
Nam đã thu về 20,4 triệu USD từ xuất khẩu hàng mây, tre, cói và thảm, giảm
9,1% so với tháng 4/2015, tính chung từ đầu năm cho đến hết tháng 5/2015,
xuất khẩu mặt hàng này đạt 104,4 triệu USD, tăng 5,51% so với cùng kỳ năm
2014. [5]
Ngoài những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn
hóa đặc sắc, các làng nghề truyền thống còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng
nghề lại gắn với một vùng văn hóa hay một hệ thống di tích. Đây là một tiềm
năng to lớn để phát triển du lịch làng nghề, đóng góp sự phát triển chung của
nền kinh tế. Nhiều địa phương đã có những cách thức phát triển du lịch làng
nghề, thu hút lượng khách du lịch đến với địa phương ngày càng đông.
Không thể phủ nhận tác dụng của làng nghề trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn. Phát triển sản xuất sản phẩm xuất khẩu chính là chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chuyển từ lao động nông nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động
ngành nghề có năng suất và chất lượng cao thu nhập cao. Ví dụ như sự phát
triển các sản phẩm xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đã mở rộng quy mô sản
xuất, thu hút nhiều lao động đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động
[5]

. />

9

sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần lao động nông nghiệp. Chính
làng nghề sản xuất sản phẩm xuất khẩu đã hình thành các trung tâm buôn bán
trao đổi hàng hóa, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị trấn, thị tứ
và từng bước đô thị hóa.
Thứ ba, làng nghề Việt Nam có ý nghĩa xã hội lớn lao
Sự phát triển cả các làng nghề đã và đang giải quyết việc làm cho người
dân trong làng và vùng lân cận. Sản phẩm xuất khẩu của làng nghề rất quan
trọng, nó là một bộ phận hợp thành của công nghiệp nông thôn, được coi là
động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần
làm tăng thu nhập cho người lao động nông thôn. Hiện nay, nhiều làng nghề
sản xuất hàng xuất khẩu của Hà Nội đã thu hút trên 70% lao động sản xuất
phi nông nghiệp của làng, hạn chế số lao động di dơi từ nông thôn ra thành thị
tìm việc làm, đem lại giá trị sản xuất vượt trội so với nông nghiệp, thu nhập từ
làm nghề của dân cư có chiếm tới 70 - 80% tổng thu nhập.
Theo kết quả khảo sát, bình quân cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tạo
việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên và 8 - 10 lao động thời vụ,
mỗi hộ chuyên làm nghề tạo việc làm cho 4 - 6 lao động thường xuyên và 2 5 lao động thời vụ. Đặc biệt nghề dệt, may, thêu ren, mỗi cơ sở có thể thu hút
30 - 50 lao động, cá biệt có những cơ sở có hàng trăm lao động. Nhiều làng
nghề sản xuất hàng xuất khẩu không những thu hút một lực lượng lao động

lớn ở địa phương mà còn tạo việc làm cho hàng nghìn lao động nơi khác đến
làm thuê như nghề gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm), đan cỏ tế xã Phú Túc, khảm
trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên),…[6] Sự phát triển các sản phẩm xuất khẩu
của làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, chuyên chở, kinh
doanh hàng hóa phục vụ ăn uống tại các làng nghề phát triển tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động và góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông
thôn. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm truyền thống là nhân tố
[6]

. Quyết định số 7430-QĐ-UBND ngày 19 tháng 12 năm 2013 về sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu của làng nghề Hà Nội 2013-2020


10

quan trọng để kích thích sản xuất, tạo việc làm tăng thu nhập cho hàng triệu
lao động thủ công chuyên nghiệp và nhàn rỗi.
Thứ tư, làng nghề Việt Nam có tác động nhất định tới môi trường
Tại các làng nghề hiện nay, sản phẩm được sản xuất từ các nguyên, vật
liệu chủ yếu lấy từ thiên nhiên gần khu vực sản xuất, như nguyên liệu tre,
mây làm đồ thủ công mỹ nghệ; gỗ, tơ tằm, gốm, sứ … Do sự phát triển mạnh
của các làng nghề, nhu cầu xã hội ngày càng nhiều đối với các sản phẩm
truyền thống nên việc khai thác nguyên liệu ngày càng gia tăng, có khả năng
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái.
Quy mô làng nghề, hình thức tổ chức sản xuất cũng ảnh hưởng đến môi
trường. Các làng nghề thường có quy mô nhỏ, các cơ sở sản xuất tồn tại dưới
các dạng hộ gia đình, các xưởng sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hầu
hết các cơ sở sản xuất đó hoạt động tự phát, mang tính thời vụ theo nhu cầu
của thị trường. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự linh hoạt trong hoạt động
sản xuất của làng nghề nhưng vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường lại rất

khó khăn. Về cơ sở hạ tầng, hầu hết các làng nghề đều sử dụng chính diện
tích đất ở của mình là mặt bằng sản xuất. Các nhà xưởng được xây dựng rất
sơ sài, đồng thời là nơi tập kết nguyên, vật liệu, sản phẩm. Diện tích chật hẹp,
đường giao thông xấu, hệ thống điện, nước hầu hết không đáp ứng được nhu
cầu, không có hệ thống cấp nước cũng như xử lý nước thải đã làm cho môi
trường tại các làng nghề bị ảnh hưởng nặng nề.Ngoài ra trình độ công nghệ
của các làng nghề chưa cao. Công đoạn sản xuất chính của một số ngành nghề
như gốm sứ, mây tre đan, nón, gỗ mỹ nghệ … vẫn phải làm bằng tay, nhất là
các sản phẩm đòi hỏi tính mỹ thuật cao. Theo thống kê của Sở Công thương
Hà Nội, hiện 70% thiết bị được sử dụng tại các làng nghề Hà Nội là máy móc,
trang thiết bị đơn giản.[7]

[7]

. Quyết định số 7430-QĐ-UBND ngày 19 tháng 12 năm 2013 về sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu của làng nghề Hà Nội 2013-2020


11

Các làng nghề Việt Nam với công nghệ sản xuất lạc hậu không những
ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm mà còn trực tiếp gây ra
những hệ quả xấu về môi trường mà người chịu hậu quả đầu tiền lại chính là
những cơ sở sản xuất trong làng nghề bởi yếu tố đặc trưng - Tại các làng
nghề, người gây ô nhiễm (những người sản xuất) và người chịu hậu quả của ô
nhiễm môi trường là một nhóm dân cư.
Thứ năm, tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển của làng nghề Việt
Nam
Nhiều làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, trải qua
bao thăng trầm, gắn bó cùng quá trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của

đất nước. Bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống không chỉ mang ý
nghĩa là giữ gìn nét văn hóa truyền thống dân tộc, mà còn tạo ra nhiều công
ăn việc làm cho người dân, giúp người dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống. Việc phát triển làng nghề vừa góp phần bảo tồn giá trị văn hóa của dân
tộc vừa nâng cao đời sống của cư dân nông thôn. Giá trị kinh tế, văn hóa, xã
hội của các làng nghề ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Hiện nay, trước
thực trạng và nguy cơ có nhiều làng nghề bị mai một theo thời gian, chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta là luôn quan tâm, khuyến khích và có những
chính sách ưu đãi đối với làng nghề.
Một vấn đề đặt ra là khi làng nghề được khôi phục và phát triển thì vấn
đề ô nhiễm làng nghề lại xuất hiện. Nguyên nhân do đặc thù về sản xuất nghề
mà nhiều làng nghề ô nhiễm ở mức độ nhất định. Điều này gây ảnh hưởng tới
sức khỏe của người dân trong vùng bị cũng như tới môi sinh thái. Nếu tình
trạng này tiếp diễn trong thời gian dài thì sẽ gây nên sự phát triển không bền
vững của các làng nghề. Vì vậy bảo vệ môi trường làng nghề là việc làm hết
sức cần thiết trong hiện tại và tương lai.
1.1.2. Khái quát về ô nhiễm môi trường làng nghề
Có thể hiểu, ô nhiễm môi trường tại làng nghề là sự biến đổi các thành
phần môi trường do hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất


12

trong làng nghề mang lại, không còn phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi
trường, tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sinh vật và con người.
Nhìn chung có ba đặc điểm cơ bản sau:
- Ô nhiễm môi trường trong làng nghề là dạng ô nhiễm cục bộ trên phạm vi
một khu vực nông thôn (thôn, làng, xã)
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang nét đặc thù của hoạt động sản xuất
theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, tác động trực tiếp tới môi trường

nước, không khí, đất trong khu vực dân sinh.
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm trên địa bàn vừa diễn ra
hoạt động sản xuất và hoạt động sinh hoạt của dân cư địa phương
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm làng nghề đang tồn tại rất phổ biến, có xu
hướng gia tăng. Cụ thể các làng nghề ở trong cả nước đều đang gánh chịu hậu
quả do ô nhiễm môi trường làng nghề gây ra. Phụ thuộc vào lĩnh vực sản xuất
của làng nghề, ô nhiễm môi trường làng nghề tác động tới một hoặc nhiều
thành phần, yếu tố môi trường tại địa phương. Cụ thể:
- Ô nhiễm môi trường nước: Ở các làng nghề hiện nay, môi trường nước luôn
trong tình trạng bị ô nhiễm thể hiện qua việc thải bỏ các chất thải, hóa chất
xuống nguồn nước. Điều này tác động tới nguồn nước sinh hoạt cũng như sản
xuất bị ảnh hưởng. Các sinh vật ở dưới nước không sống được, sản xuất bị
ảnh hưởng , sức khỏe của người dân luôn bị đe dọa, các loại bênh tật có xu
hướng gia tăng
- Ô nhiễm môi trường không khí: là thực tế bức xúc ở nhiều làng nghề, thể
hiện ở các dạng ô nhiễm bụi, mùi, nhiêt độ và tiếng ồn. Mức độ ô nhiễm nặng
hay nhẹ tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm và quy trình sản xuất của mỗi làng
nghề. Ở các làng nghề gốm sứ, cơ khí, đúc … thì ô nhiễm đều rất nặng ở tất
cả các dạng, ở các làng nghề chế biến gỗ, mây, tre đan thì bị ô nhiễm bụi,
tiếng ồn, mùi ...
+ Ô nhiễm do bụi: Đây là một dạng ô nhiễm rất nguy hiểm đối với sức khỏe
con người. Hầu như ở làng nghề nào cũng bị ô nhiễm bụi ở mức độ khác


13

nhau. Ở các làng nghề gốm sứ, cơ khí, đúc, dệt, sản xuất đồ mộc có hàm
lượng bụi lớn hơn nhiều so với làng nghề mây, tre đan, chế biến thực phẩm. Ở
những làng nghề này không những gây bụi lắng mà còn tạo ra hàm lượng bụi
lơ lửng rất cao, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

+ Ô nhiễm do tiếng ồn: loại ô nhiễm này ảnh hưởng đến sức khỏe con người
khá lớn, gây các loại bệnh về thần kinh, thính giác. Tiếng ồn lớn chỉ tập trung
ở một số làng nghề như cơ khí, đúc, mộc, dệt do các thiết bị máy móc gây ra.
+ Ô nhiễm do mùi và nhiệt: Loại ô nhiễm này do nhiều nguyên nhân khác
nhau, tập trung ở nhiều các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, nghề
gốm sứ, nghề sử dụng các loại hóa chất và nhiên liệu than, dầu.
- Ô nhiễm môi trường đất: Cũng là một dạng ô nhiễm khá phổ biến ở các làng
nghề. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở các làng nghề sản xuất gạch ngói,
vật liệu xây dựng (cát, sỏi …), sản xuất gốm sứ - là những nghề khai thác, sử
dụng nguyên liệu trực tiếp từ tài nguyên đất, mà còn cả ở các làng nghề cơ
kim khí, đúc cán sắt, làm giấy, sản xuất đồ gỗ, tẩy nhuộm, chế biến lương
thực thực phẩm … Một mặt là do các hộ, cơ sở lạm dụng quá mức các loại đất
trong làng để mở rộng mặt bằng sản xuất, làm nhà xưởng, kho tàng, nhà ở cho
người làm công hoặc lần chiếm ao hồ, đất chuyên dùng và đất canh tác nông
nghiệp ở ven làng để làm bãi tập kết vật tư, nguyên liệu, thành phẩm và làm
bãi đổ phế thải, rác thải; mặt khác là do nguồn nước thải, chất thải và nguyên
liệu có chứa hóa chất và các chất độc hại khác gây ra. Nguồn nước thải và các
chất thải độc hại không được xử lý sẽ thấm sâu vào lòng đất, đổ ra đồng ruộng
làm thay đổi thành phần và chất lượng đất, làm ảnh hưởng đến sự phát triển
của cây cối và môi trường sinh thái nói chung.
- Ô nhiễm cảnh quan thiên nhiên và môi trường khu dân cư: Hiện tượng dễ
thấy nhất của dạng ô nhiễm môi trường này ở các làng nghề là tình trạng rác
thải, phế thải và các bãi tập kết vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu sản xuất ngổn
ngang, bừa bãi ở khắp mọi nơi. Cảnh quan và điều kiện vệ sinh trong làng
cũng như khu ở của dân cư bị xuống cấp hoặc bị phá vỡ. Nhà ở và không gian


14

sinh hoạt của các hộ dân cư chật chội, xen lẫn với nhà xưởng, kho tàng sản

xuất; diện tích vườn, ao hồ và cây xanh trong làng đều bị thu hẹp.
1.2. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm môi trường làng nghề
- Khái niệm:
Trước hết có thể hiểu kiểm soát ô nhiễm môi trường là tổng hợp các
hoạt động của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân nhằm loại trừ, hạn chế những
tác động xấu đối với môi trường, phòng ngừa ô nhiễm môi trường, khắc phục,
xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên.
Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề là một bộ phận
cấu thành của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường. Nó bao gồm hệ
thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý của các cơ quan
nhà nước và hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân tại làng
nghề nhằm hạn chế, loại trừ những tác động xấu, gây ô nhiễm môi trường tại
làng nghề.
- Nội dung, đặc điểm:
Nội dung chính của pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề
được thể hiện trong các văn bản pháp luật hiện hành do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành ở trung ương cũng như địa phương. Ở cấp trung ương
có nhiều văn bản, chính sách về BVMT làng nghề trên phạm vi cả nước mang
tính chất định hướng. Ở địa phương, các cấp chính quyền cũng ban hành
những văn bản liên quan nhằm cụ thể hóa chính sách, pháp luật của Nhà nước
về môi trường làng nghề tại địa phương mình. Nội dung pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm môi trường làng nghề bao gồm các quy định về trách nhiệm
quản lý Nhà nước đối với BVMT tại làng nghề và các quy định về trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
BVMT làng nghề. Theo đó, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng
nghề bao gồm một số đặc điểm như sau:



15

+ Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề quy định về
các chủ thể trong quan hệ kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của
làng nghề gây ra bao gồm các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân làng
nghề.
+ Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch
làng nghề gắn với kiểm soát ô nhiễm; quản lý thông tin về môi trường; ban
hành và áp dụng các công cụ, biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường; quy
định trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất kinh
doanh dịch vụ tại làng nghề; trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý
nhà nước, cộng đồng dân cư trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm; xử lý các
hành vi vi phạm để ứng phó, khắc phục trước các vấn đề về môi trường với
mục đích ngăn ngừa, giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường và con
người, góp phần cải thiện môi trường tại các làng nghề.
- Vai trò:
Khi môi trường làng nghề ngày càng trở thành một vấn đề cấp bách thì
vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề là rất
quan trọng. Đối với các cơ quan nhà nước, pháp luật quy định chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan này hoạt
động thực sự hiệu quả. Đối với tổ chức, cá nhân là những chủ trực tiếp khai
thác, sử dụng các thành phần môi trường để phục vụ sản xuất tại làng nghề,
pháp luật đưa ra những định hướng, tiêu chuẩn để giới hạn mức độ tác động
đến môi trường. Đồng thời pháp luật quy định các chế tài buộc các tổ chức, cá
nhân phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
môi trường làng nghề, vừa có tác dụng ngăn chặn, vừa có ý nghĩa giáo dục
người dân tôn trọng và thực hiện pháp luật khi tiến hành các hoạt động sản
xuất trong làng nghề.



16

1.2.2. Các quy định về trách nhiệm quản lí nhà nước đối với bảo vệ
môi trường tại làng nghề
Thứ nhất, các quy định về xây dựng chiến lược, chính sách về bảo vệ
môi trường làng nghề
Có thể nói Đảng và Nhà nước ta đã thực sự quan tâm, coi trọng việc
phát triển kinh tế, trong đó có phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với việc
bảo vệ môi trường. Ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số
36/CT-TƯ về tăng cường công tác BVMT trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được thông
qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định quan
điểm “Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường …” và đặt ra các mục tiêu chiến lược về môi trường là: “Cải thiện chất
lượng môi trường…Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp
dụng công nghệ sạch hoặc trang thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên
80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các
đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ
thống xử lý nước thải tập trung… Cải thiện và phục hồi môi trường các khu
vực bị ô nhiễm nặng…”
Tại Nghị quyết 24/NQ-TƯ của Bộ Chính trị năm 2013 về bảo vệ môi
trường, ứng phó biến đổi khí hậu cũng đã khẳng định quyết tâm coi vấn đề
BVMT là một nhiệm vụ được thực hiện song hành với phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó có xác định nhiệm vụ đối với bảo vệ
môi trường làng nghề là: “Khắc phục cơ bản nạn ô nhiễm môi trường ở các
làng nghề, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi đôi với hình thành các
cụm làng nghề, bảo đảm điều kiện về xử lý môi trường, chủ động có kế hoạch
thu gom và xử lý khối lượng rác thải đang ngày càng tăng lên”. Với những
ích lợi và ý nghĩa to lớn mà làng nghề mang lại, Đảng và Nhà nước ta luôn

khuyến khích khôi phục và phát triển làng nghề. Tuy nhiên vấn đề môi trường
tại làng nghề cũng luôn được coi trọng, trong đó đặc biệt chú trọng đến công


17

tác quy hoạch “hình thành các cụm làng nghề” với các kế hoạch, biện pháp xử
lý chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại làng nghề.
Thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm đặc biệt tới công tác
BVMT làng nghề như tổ chức giám sát tối cao về BVMT làng nghề; ban hành
Nghị quyết số 19/2011/QH13 ngày 26/11/2011 về kết quả giám sát và đẩy
mạnh thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng
nghề. Đồng thời, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô
nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012-2015, trọng tâm là xử lý ô
nhiễm môi trường làng nghề. Ngoài ra, Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết
số 35/NQ-CP về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực BVMT, trong đó xác
định ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là một trong những vấn đề “nóng”
của giai đoạn hiện nay và Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/4/2013 phê
duyệt “Đề án BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”,
với hai mục tiêu tổng quát là tăng cường công tác BVMT trong quản lý và
phát triển làng nghề trên phạm vi toàn quốc, ngăn chặn phát sinh các làng
nghề ô nhiễm mới; từng bước khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi
trường tại các làng nghề, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống
dân cư, góp phần phát triển kinh tế – xã hội khu vực nông thôn bền vững.
Thứ hai, các quy định về xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề
Từ những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, các cơ quan
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường làng
nghề. Cụ thể Luật BVMT 2005, gần đây có Luật BVMT 2014. Bảo vệ môi
trường làng nghề là một trong những vấn đề bức xúc, khó khăn hiện nay. Việc

lạm dụng danh nghĩa làng có nghề, áp dụng công nghệ sản xuất thô sơ và lạc
hậu, quản lý nhà nước có những điểm thiếu rõ ràng và chồng chéo là những
nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm làng nghề. Vì vậy, các quy định về
BVMT làng nghề đã được viết lại theo hướng quy định rõ các điều kiện về
bảo vệ môi trường mà làng nghề, các cơ sở sản xuất thuộc ngành nghề được


18

khuyến khích phát triển và các đối tượng khác trong làng nghề phải thực hiện.
Đồng thời, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định rõ trách nhiệm của ủy
ban nhân dân cấp các cấp đối với bảo vệ môi trường làng nghề.
Thứ ba, các quy định về trách nhiệm của UBND các cấp đối với bảo vệ
môi trường làng nghề
Luật bảo vệ môi trường 2014 đã quy định rất rõ ràng về trách nhiệm
của UBND các cấp đối với việc bảo vệ môi trường làng nghề. Cụ thể điều 70
Luật bảo vệ môi trường quy định:
+ Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã có làng nghề:
a) Lập, triển khai thực hiện phương án bảo vệ môi trường cho làng nghề trên
địa bàn;
b) Hướng dẫn hoạt động của tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường làng nghề;
c) Hằng năm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện về công tác bảo vệ môi
trường làng nghề.
+ Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện có làng nghề:
a) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường làng
nghề trên địa bàn;
b) Hằng năm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về công tác bảo vệ môi
trường làng nghề.
+ Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có làng nghề:
a) Quy hoạch, xây dựng, cải tạo và phát triển làng nghề gắn với bảo vệ môi

trường;
b) Bố trí ngân sách cho các hoạt động bảo vệ môi trường làng nghề;
c) Chỉ đạo, tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường
làng nghề trên địa bàn;
d) Chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải; khu tập kết, xử lý
chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại cho làng nghề;
đ) Quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề; có kế hoạch di
dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư.


×