Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.26 KB, 81 trang )

Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP
1. Lược sử phát triển của pháp luật Thuế thu nhập doanh nghịêp ở Việt Nam
1.1. Thuế lợi tức và nhược điểm của nó
Thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI
của Đảng, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế sản xuất nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ năm 1990 hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã
được cải cách một cách căn bản. Luật thuế lợi tức mới đựơc ban hành để áp dụng
thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có thu
nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh lãnh thổ Việt Nam. Luật thuế lợi
tức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 30/6/1990 và sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế lợi tức đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp khóa 3 thông qua
ngày 06/7/1993.
Trãi qua quá trình áp dụng trong thực tiễn, Luật thuế lợi tức đã thu được
nhiếu kết quả so với chế độ thu cũ2. Điển hình là áp dụng chung một chính sách
thuế lợi tức đối với các thành phần kinh tế đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong
cạnh tranh, tạo diều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Đối với kinh tế
quốc doanh áp dụng chính sách thuế lợi tức thay cho chế độ thu quốc doanh mang
nặng tính bao cấp trước đây đã thật sự có tác động mạnh mẽ thúc đẩy các xí nghiệp
tăng cường hoạch toán kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường để
tồn tại và phát triển; hạn chế tình trạng “lãi giả, lỗ thật”. Ở các cơ sở kinh doanh, đã
được sắp xếp lại từ 12000, đến 1995 còn khoản 7000 cơ sở và đến năm 1998 chỉ
còn 5000 cơ sở, giảm bớt những doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ. Đối với kinh
tế ngoài quốc doanh cũng được áp dụng một chính sách thuế như đối với kinh tế
quốc doanh đã tạo ra sự phấn khởi, kích thích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh, làm cho các ngành nghề ngày càng đa dạng, phong
phú hơn. Đến năm 1995 đã có thêm hàng vạn các cơ sở kinh doanh thhuộc các loại


hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Khu vực
cá thể, tổ chức kinh tế của các đoàn thể cũng tham gia kinh doanh thương mại, dịch
2

Từ năm 1961, hệ thống chính sách thuế nước ta được chia thành hai mảng lớn: Đối với xí nghiệp quốc
doanh thực hiện chế độ thu quốc doanh (gián tiếp) và chế độ trích nộp lợi nhuận (trực thu), đối với đơn vị
kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện chế độ thuế. Như vậy vai trò của thuế được sử dụng rất là hạn chế cả về
số lượng (chỉ trong phạm vi là kinh tế ngoài quốc doanh) và cả về chất lượng (vì giá cả, cung – cầu đều do
nhà nước trực tiếp quy định và chi phối). Hai mảng này tồn tai cho đến tháng 8 năm 1990.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

6

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
vụ ngày càng nhiều hơn. Các doanh nghiệp trong nước phát triển và hoạt động kinh
doanh ngày càng có hiệu quả và là những đối tác thu hút đầu tư nước ngoài, phát
triển mạnh các hoạt động dịch vụ góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trong
nước. Chính sách thuế quy định nhiều nhiều ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng thu hút các tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam. Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, theo tài liệu của Bộ kế
hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 31/5/1996 hiện có 1474 dự án đầu tư của 54 nước
và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép đang có hiệu lực, với tổng số vốn hơn 25,5 tỷ
đôla3. Ngoài ra còn có các hình thức đầu tư gián tiếp trong các lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, tư vấn pháp luật, giáo dục, y tế…Có thể nói, sự ra đời của thuế lợi tức
đã góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và có bước phát triển.Báo cáo
của Chính Phủ số 5211-TH ngày 15/10/1996 do Thủ tướng Võ Văn Kiệt trình bày

tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã khẳng định: “Từ chỗ dựa một phần quan
trọng vào viện trợ nước ngoài, ngân sách nhà nước đã dần dần tích lũy trong nước
làm nguồn thu chủ yếu, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và dành một phần
cho đầu tư phát triển. Đó là một thành tựu quan trọng của quá trình đổi mới”. Song
bên cạnh đó tình hình kinh tế xã hội luôn có những bước phát triển mới, kinh tế thị
trường đã và đang hình thành ở nước ta, Luật Thuế lợi tức đã ngày càng bộc lộ
nhiều hạn chế và gây ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến tiến trình phát triển của
nền kinh tế nước ta, cụ thể:
- Về tên gọi “Thuế lợi tức” không phản ánh đầy đủ nội dung kinh tế của thuế
này. Khái niệm lợi tức thường được hiểu là lợi tức trong kinh doanh.Trong kinh tế
thị trường, các khoản thu rất đa dạng, phong phú, có khoản thu từ lợi tức kinh
doanh, có khoản thu không phải từ kinh doanh như: các khoản thu từ chuyển
nhượng vốn, tài sản, chuyển giao công nghệ, bản quyền, các khoản nợ khó đòi đã
xử lý xóa nợ nay đòi được, thu các khoản phải trả nhưng không xác định được chủ
nợ và các khoản thu nhập khác trong kinh doanh. Do vậy, khái niệm lợi tức không
bao quát được hết các khoản thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Phạm vi điều chỉnh của Luật Thuế lợi tức còn hạn hẹp, không bao quát hết
mọi loại hình kinh doanh, mọi loại thu nhập đã và đang phát sinh, phát triển đa dạng
trong nền kinh tế thị trường. Trong Luật Thuế lợi tức tuy đã có những quy định lợi
tức chịu thuế bao gồm: lợi tức kinh doanh và lợi tức khác, nhưng trong thực tế việc
giải thích các khoản lợi tức khác chưa có tính thuyết phục cao, nhất là các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
3

PGS.Quách Đức Pháp – “Thuế - Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế” – NXB Xây dựng, Hà Nội 1999,
trang 114

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

7


SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
- Mức động viên thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh vào ngân sách
nhà nước còn bất hợp lý như mức thuế suất áp dụng còn quá cao, quá chênh lệch
giữa các ngành nghề, điều đó không những hạn chế doanh nghiệp tích lũy tái đầu tư
mà còn gây khó khăn, phức tạp cho công tác quản lý, thu nộp thuế đồng thời tạo kẽ
hở cho tham nhũng, tiêu cực phát sinh, phát triển. Đặc biệt, trong Luật Thuế lợi tức,
thuế suất áp dụng còn khác biệt quá lớn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gây sự bất bình đẳng lớn trong kinh doanh, trong
cạnh tranh, không khuyến khích các nhà đầu tư trong nước tăng tích lũy để tái đầu
tư mà còn tạo ra tâm lý cho các doanh nghiệp trong nước luôn tìm cách trốn thuế.
Việc dành quá nhiều ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài không những
không gây hứng thú cho họ mà làm cho họ hoài nghi về môi trường đầu tư ở Việt
Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng mức thuế suất thuế lợi
tức (25%) thấp hơn so với doanh nghiệp trong nước (25, 35, 45% tùy theo ngành
nghề kinh doanh). Tùy theo mức độ cần khuyến khích đầu tư đối với từng nghành
nghề, từng khu vực, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn có thể được hưởng
mức thuế suất lợi tức thấp hơn 25% trong một số năm; được miễn thuế lợi tức đến 8
năm và được giảm 50% số thuế lợi tức trong 4 năm tiếp theo. Tổ chức, cá nhân
nước ngoài dùng lợi nhuận thu được để tái đầu tư tại Việt Nam thì được hoàn trả số
thuế lợi tức đã nộp trên phần lợi nhuận tái đầu tư
- Nhiều quy định trong thuế lợi tức không còn phù hợp như: Một số quy định
về chi phí hợp lý, hợp lệ hoặc quy định về miễm giảm thuế lợi tức, về chế độ đa
thuế suất với ba mức thuế suất với ba nhóm nghành nghề: 25% đối với công nghiệp
nặng, vận tải, xây dựng; 35% đối với sản xuất hàng tiêu dung; 45% đối với kinh
doanh thương nghiệp, dịch vụ, ăn uống. Nhưng trong kinh tế thị trường, nhiều
doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp đa dạng; vừa sản xuất vừa đưa hàng đi tiêu thụ

và bảo hành trên địa bàn cả nước nên khó có thể phân định số lợi tức đạt được trong
từng khâu sản xuất, vận tải, thương nghiệp, dịch vụ để thu thuế theo đúng quy định.
Điều bất lợi thứ hai là không thực tế vì những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và
đời sống thì thường được áp dụng thuế suất thấp với mong muốn là có giá bán rẻ
hơn nhằm mang lại sự ưu đãi cho đối tượng tiêu dùng. Nhưng trong kinh tế thị
trường, giá cả hàng hóa do cung - cầu quyết định, cho nên trong trường hợp cung
nhỏ hơn cầu thì giá bán vẫn tăng lên và người tiêu dùng không được hưởng ưu đãi
đó. Vì vậy, chế độ đa thuế suất không còn phù hợp nên chẳng mang lại kết quả
trong thực tế.
- Nhiều quy định chưa được tập trung rải ra nhiều văn bản và phức tạp dẫn
đến việc thực hiện gặp nhiều khó khăn. Các cơ sở kinh doanh trong nước và các
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

8

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng hoạt động không theo Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh của Luật Thuế lợi tức. Trong khi đó
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức trong Luật Đầu tư phải
nộp thuế lợi tức được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Với
những nội dung không nhất quán, thuế lợi tức chồng chéo, thiếu rõ ràng dẫn đến vai
trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Thuế lợi tức còn hạn chế.
Vì vậy, phải đổi Luật Thuế lợi tức thành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.2. Sự ra đời của Thuế thu nhập doanh nghiệp (Thuế TNDN)
Để khắc phục những nhược điểm cơ bản của Luật Thuế lợi tức, đảm bảo sự
phù hợp của chính sách thuế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong
giai đoạn đổi mới, đảm bảo cho hệ thống thuế Việt Nam từng bước hòa nhập với hệ

thống thuế trong khu vực và trên thế giới, Luật Thuế thuế thu nhập doanh nghiệp đã
được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 từ ngày 02 tháng 4 đến ngày 10 tháng 5 năm
1997 thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Được ban
hành để thay thế cho Luật Thuế lợi tức trước đó, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
nhằm đạt được các mục tiêu, yêu cầu sau:
- Bao quát và điều tiết được tất cả tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ
phát sinh của cơ sở kinh doanh hoạt động trong cơ chế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa của nước ta.
- Thông qua việc ưu đãi về thuế suất, về miễn thuế, giảm thuế, khuyến khích
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích các tổ chức, cá nhân
trong nước tiết kiệm để dành vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Từng bước thu hẹp sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong
nước, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, đảm bảo sự bình đẳng
trong sản xuất, kinh doanh phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta.
- Hệ thống hóa những ưu đãi về thuế trong các luật khác vào Luật Thuế
TNDN, đảm bảo sự thống nhất trong việc thực hiện các chế độưu đãi thuế.
Luật Thuế TNDN năm 1997 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 1999 được
áp dụng thống nhất cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
có thu nhập chịu thuế thuộc mọi thành phần kinh tế đã góp phần đáng kể vào việc
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng thu cho ngân sách nhà nước. Qua
bốn năm thực hiện, Luật Thuế TNDN năm 1999 đã đạt được kết quả sau:
Thứ nhất, thông qua việc quy định miễn, giảm thuế cho các dự án đầu tư,
Luật Thuế TNDN đã góp phần quan trọng kích thích các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, xây dựng dây chuyền sản xuất mới
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

9

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng
lực sản xuất, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề,
vùng kinh tế theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, Luật Thuế TNDN đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh; số thu về Thuế TNDN tăng trưởng hàng năm và
chiếm tỷ trọng khoảng 24,4% trong tổng thu thuế và phí.
Thứ ba, thông qua việc quy định doanh thu, các khoản chi phí hợp lý phải có
hóa đơn, chứng từ hợp pháp, Luật Thuế TNDN đã thúc đẩy các cơ sở kinh doanh
tăng cường hoạch toán kinh doanh, củng cố công tác kế toán, hóa đơn, chứng từ, tiết
kiệm chi phí, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, Luật Thuế TNDN đã đơn giản, dễ thực hiện hơn so với Luật Thuế lợi
tức trước đây. Luật Thuế TNDN vối mức thuế suất chung 32% đã tạo điều kiện
thuận lợi cho cơ sở kinh doanh trong công tác hoạch toán, kế toán, trong việc xác
định thu nhập chịu thuế, trong việc kê khai, nộp thuế, nhất là đối với doanh nghiệp
kinh doanh đa dạng, nhiều ngành nghề (Luật Thuế lợi tức cũ có ba mức thuế suất
phân biệt cho ba loại nghành nghề). Do dó, đã tiết kiệm được thời gian, chi phí vật
chất, nhân lực của cơ sở kinh doanh và của cơ quan thuế.
Bên cạnh những ưu điểm, Luật Thuế TNDN 1997 còn bộc lộ một số hạn chế
chủ yếu sau:
- Một là, đối tượng chịu thuế chưa bao quát hết các khoản thu nhập cần điều
tiết cho ngân sách nhà nước.
- Hai là, thuế suất thuế TNDN còn cao, chưa tạo điều kiện cho cơ sở kinh
doanh tích tụ vốn tái sản xuất mở rộng.
- Ba là, mức thuế suất thuế TNDN và ưu đãi thuế còn phân biệt giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế TNDN được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật gây khó khăn, phức tạp cho việc theo dõi thực hiện.

Ngày 17/6/2003, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Thuế
thu nhập (sửa đổi) với những bổ sung, sửa đổi cơ bản (sau đây gọi tắt là Thuế thu
nhập doanh nghiệp năm 2003). Việc ban hành Luật Thuế TNDN năm 2003 xuất
phát từ những lý do sau:
- Giảm mức điều tiết qua thuế trực thu, hạ thuế suất Thuế TNDN để khuyến
khích đầu tư, sản xuất, kinh doanh nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Từng bước thu hẹp để tiến tới xóa bỏ sự phân biệt trong chính sách Thuế
TNDN trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

10

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
- Tạo ra sự thống nhất, đồng bộ giữa Thuế TNDN với các văn bản pháp luật
khác.
- Cải cách thủ tục hành chính trong thủ tục kê khai, nộp thuế, tăng cường
trách nhiệm của đối tượng nộp thuế.
Luật Thuế TNDN 2003 đã sửa đổi, bổ sung khá nhiều với những vấn đề cơ
bản. Bảng so sánh sau đây chỉ rõ sự khác biệt về cấu trúc các điều khoản của Luật
Thuế TNDN 2003 so với Luật Thuế TNDN 1997:
Luật Thuế TNDN 1997

Luật Thuế TNDN 2003

Chương I
Những quy định chung

Điều 1: Đối tượng nộp thuế TNDN
Điều 2: Đối tượng không nộp thuế TNDN
Điều 3: Giải thích từ ngữ
Điều 4: Nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện
Luật thuế TNDN

Chương I
Những quy định chung
Điều 1: Đối tượng nộp thuế TNDN
Điều 2: Đối tượng không nộp thuế TNDN
Điều 3: Giải thích từ ngữ
Điều 4: Nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện
Luật thuế TNDN

Chương II
Căn cứ tính thuế và thuế suất
Điều 5: Căn cứ tính thuế
Điều 6: Thu nhập chịu thuế
Điều 7: Xác định thu nhập chiu thuế
Điều 8: Doanh thu
Điều 9: Chi phí
Điều 10: Thuế suất

Chương II
Căn cứ tính thuế và thuế suất
Điều 5: Căn cứ tính thuế
Điều 6: Thu nhập chịu thuế
Điều 7: Xác định thu nhập chiu thuế
Điều 8: Doanh thu
Điều 9: Chi phí

Điều 10: Thuế suất

Chương III
Kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế
Điều 11: Trách nhiệm của cơ sở kinh
doanh
Điều 12: Kê khai thuế
Điều 13: Nộp thuế
Điều 14: Quyết toán thuế
Điều 15: Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan thuế
Điều 16: Quyền ấn định thu nhập chịu
thuế

Chương III
Kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế
Điều 11: Trách nhiệm của cơ sở kinh
doanh
Điều 12: Kê khai thuế
Điều 13: Nộp thuế
Điều 14: Quyết toán thuế
Điều 15: Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan thuế
Điều 16: Quyền ấn định thu nhập chịu thuế

Chương IV
Chương IV
Miễn thuế, giảm thuế TNDN
Miễn thuế, giảm thuế TNDN
Điều 17: Miễm thuế, giảm thuế cho cơ sở Điều 17: Miễn thuế, giảm thuế cho dự án


GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

11

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
kinh doanh mới thành lập
Điều 18: Miễn thuế, giảm thuế cho cơ sở
kinh doanh trong nước trong trường hợp
đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới,
mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải
thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng
lực sản xuất
Điều 19: Hoàn thiện cho số thu nhập tái
đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
ngước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác
kinh doanh
Điều 20: Miễn thuế cho sơ sở kinh doanh
di chuyển đến vùng núi, hải đảo và những
vùng khó khăn khác
Điều 21: Miễn thuế, giảm thuế cho các
trường hợp khác
Điềi 22: Xét miễn, giảm thuế

đầu tư thành lập cơ sở kinh doannh, hợp tác
xã, cơ sở kinh doanh di chuyển địa điểm
Điều 18: Miễn thuế, giảm thuế cho cơ sở

kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền
sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới
công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái,
nâng cao năng lực sản xuất
Điều 19: Miễn thuế, giảm thuế cho các
trường hợp khác
Điều 20: Chuyển lỗ
Điều 21: Thủ tục thực hiện miễn, giảm
thuế và chuyển lỗ

Chương V
Xử lý vi phạm, khen thưởng
Điều 24: Xử lý vi phạm về thuế dối với
đối tượng nộp thuế
Điều 25: Thẩm quyền của cơ quan thuế
trong xử lý vi phạm thuế
Điều 26: Xử lý vi phạm về thuế dối với
cán bộ thuế và cá nhân khác
Điều 27: Khen thưởng

Chương V
Xử lý vi phạm, khen thưởng
Điều 22: Khen thưởng
Điều 23: Xử lý vi phạm về thuế đối với đối
tượng nộp thuế
Điều 24: Thẩm quyền của cơ quan thuế
trong xử lý vi phạm thuế
Điều 25: Xử lý vi phạm về thuế dối với cán
bộ thuế và cá nhân khác


Chương VI
Khiếu nại và thời hiệu
Điều 28: Quyền và trách nhiệm của đối
tượng nộp thuế trong khiếu nại về thuế
Điều 29: Trách nhiệm và quyền hạn của
cơ quan thuế trong giải quyết khiếu nại về
thuế

Chương VI
Khiếu nại và thời hiệu
Điều 26: Quyền và trách nhiệm của đối
tượng nộp thuế trong khiếu nại về thuế
Điều 27: Trách nhiệm và quyền hạn của cơ
quan thuế trong giải quyết khiếu nại về
thuế

Chương VII
Tổ chức thực hiện
Điều 30: Trách nhiệm của Chính phủ

Chương VII
Tổ chức thực hiện
Điều 28: Trách nhiệm của Chính phủ

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

12

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Điều 31: Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Điều 29: Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ
Tài chính
Tài chính
Điều 32: Trách nhiệm của UBND các cấp Điều 30: Trách nhiệm của UBND các cấp
Chương VIII
Điều khoản thi hành
Điều 33: Hiệu lực thi hành
Điều 34: Quy định chi tiết

Chương VIII
Điều khoản thi hành
Điều 31: Hiệu lực thi hành
Điều 32: Quy định chi tiết

Bảng so sánh trên cho thấy, Luật Thuế TNDN 2003 vẫn có 8 chương như
Luật Thuế TNDN 1997, song chỉ có 32 điều tức là giảm đi 02 điều khoản. Hai điều
khoản không có trong Luật Thuế TNDN 2003 là Điều 17 (cũ): Miễn, giảm thuế cho
cơ sở kinh doanh mới thành lập và Điều 19 (cũ): Hoàn thuế cho số thu nhập tái đầu
tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Sự khác nhau chủ yếu thể hiện ở nội dung những điều khoản sửa đổi, bổ
sung.
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, Thuế TNDN có thể được hiểu
như sau: Thuế TNDN là loại thuế trực thu, thu vào phần thu nhập của các cở sở
kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các cá nhân, tổ chức
sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.
2. Bản chất và đặc điểmcủa Thuế thu nhập doanh nghiệp
2.1. Bản chất

Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu. Thuế này đánh vào thu
nhập của các cơ sở kinh doanh có thu nhập phát sinh trong kỳ tính thuế sau khi trừ
các chi phí liên quan đến thu nhập của các cơ sở kinh doanh, dịch vụ đó. Bản chất
kinh tế của thuế trực thu là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Căn cứ
mức thuế qui định trong pháp luật thuế, người nộp thuế tự tính và trích một phần
thu nhập của mình trực tiếp nộp cho nhà nước. Tuy nhiên nghĩa vụ thuế thu nhập
doanh nghiệp cũng có thể được chuyển cho những đối tượng khác, chẳng hạn như
cổ đông ở công ty cổ phần (vì lấy thu nhập sau thuế để chia lợi nhuận), hoặc người
tiêu dùng (vì doanh nghiệp doanh nghiệp có thể tính luôn tiền thuế vào giá thành
sản phẩm) …
Ví dụ: Một doanh nghiệp có thu nhập trước thuế là 100 triệu đồng sau khi
thực hiện nghĩa vụ thuế (với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%), doanh
nghiệp còn lại 72 triệu. Doanh nghiệp sẽ dùng 72 triệu này để chia cho các cổ đông

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

13

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
của mình. Như vậy chính các cổ đông phải là người chịu thuế mà không phải công
ty cổ phần.
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên vào thu nhập của từng tổ chức, cá
nhân có thu nhập cho nên đảm bảo được tính công bằng xã hội: người có thu nhập
cao thì phải nộp thuế nhiều người có thu nhập vừa thì phải nộp thuế ít hơn, người
không có thu nhập thì không phải nộp thuế. Nhưng thuế trực thu cũng có những mặt
bất lợi (mặt hạn chế) là: việc tính toán phức tạp hơn và thường là phải xác định rõ
thu nhập thì mới thu được thuế nên rất chậm. Nhiều trường hợp phải đến kỳ quyết

toán mới thu được đủ thuế có trường hợp thu thiếu thì phải nộp thêm, thu thừa thì
phải thoái trả. Một trở ngại khác là thuế thu trực diện vào thu nhập của tổ chức, cá
nhân nên tâm lý là dễ bị phản ứng.
2.2. Đặc điểm
Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng là một loại thuế thu nhập, nên nó có một
số đặc điểm chung với thuế thu nhập cá nhân như sau:
- Thứ nhất Thuế thu nhập doanh nghiệp có đối tượng đánh thuế là thu nhập.
Trong hệ thống thuế của các nước, bất kỳ loại thuế nào suy cho đến cùng cũng đều
lấy từ thu nhập dân cư trong xã hội để tập trung vào quỹ ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên không phải loại thuế nào cũng là thuế thu nhập. Do thuế thu nhập doanh
nghiệp có đối tượng đánh thuế là thu nhập phát sinh, vì thế một nội dung quan trong
trong chính sách thuế này là phải xác định được thu nhập chịu thuế. Không phải
khoản thu nhập nào cũng là thu nhập chịu thuế mà chỉ có một số khoản thu nhập
đáp ứng những điều kiện nhất định mới là thu nhập chịu thuế. Thông thường thu
nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính
phổ biến và nhà nước có thể kiểm soát được. Có như vậy, pháp luật thuế mới đảm
bảo tính khả thi, đảm bảo tính công bằng cho đối tượng nộp thuế đảm bảo nguồn
thu ổn định cho ngân sách nhà nước… Tuy nhiên các khoản thu nhập chịu thuế
được pháp luật qui định không hoàn toàn giống nhau ở các nước.
- Thứ hai, Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu, ngoài mục
tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế,
điều hoà thu nhập xã hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hhội của nhà
nước. Bởi vậy, pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có những quy định về
chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích thuế thu nhập.
- Thứ ba, Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế phức tạp có tính ổn định
cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn chi phí quản lý thuế thường lớn
hơn so với các loại thuế khác. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài việc xác
định các khoản thu nhập chịu thuế còn phải xác định nguồn gốc thu nhập, địa điểm
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


14

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
phát sinh thu nhập, thời gian cư trú của chủ sở hữu thu nhập, tính ổn định của thu
nhập…
Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được các khoản khấu
trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảmbảo mực tiêu công bằng và
khuyến khích đối với đối tượng nộp thuế .
- Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm các văn
bản pháp lật quốc gia và cả Luật quốc tế. Bởi thuế thu nhập doanh nghiệp là loại
thuế trực thu nên nó có thể là đối tượng được điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh
thuế hai lần. Trong quá trình kinh doanh, một đơn vị kinh doanh ngoài địa điểm
kinh doanh chính còn có các chi nhánh, công ty phụ thuộc kinh doanh ở địa điểm
khác. Ở nước ngoài, các chi nhánh, công ty phải nộp thuế đối với thu nhập phát sinh
theo luật pháp nước sở tại, đồng thời cũng khoản thu nhập đó khi chuyển về trụ sở
chính lại chịu thuế một lần nữa theo luật pháp nước đơn vị kinh doanh đó thành lập.
Như vậy xảy ra việc đánh thuế trùng đối với cùng một khoản thu nhập của một đơn
vị kinh doanh. Hiệp định tránh đánh thuế trùng của Chính phủ Việt Nam ký với
chính phủ các nước là để phân chia quyền đánh thuế và tránh hiện tượng đánh thuế
trùng đối với cùng một khoản thu nhập, nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư
nước ngoài, khuyến khích họ đầu tư vào Việt Nam. Ngược lại các nhà đầu tư Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài cũng được hưởng quy định này.
Tuy nhiên, thuế thu nhập doanh nghiệp có đặc điểm riêng là thuế thu nhập
doanh nghiệp được áp dụng một thuế suất. Thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu
nhập cá nhân đều là thuế trực thu đánh vào thu nhập nên nếu chỉ dừng lại ở bốn đặc
điểm trên thì ta có thể phân biệt được thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế
khác nhưng cũng có thể nhầm lẫn với thuế thu nhập cá nhân. Điểm khác biệt giữa

hai loại thuế này có thể là thuế suất. Vì hai chủ thể này khác nhau ở qui mô, ở hình
thức sở hữu, một bên có thể là sở hữu của nhiều người và một bên là sở hữu của
một người nên thông thường thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng một thuế
suất, còn thuế thu nhập cá nhân đánh vào thu nhập của từng cá nhân thì áp dụng
thuế suất lũy tiến từng phần.
3. Phạm vi áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp
3.1. Đối tượng có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gọi chung là cơ sở
kinh doanh) có thu nhập phải nộp Thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, đối tượng
có nghĩa vụ nộp Thuế thu nhập doanh nghiệp là rất rộng, không chỉ dừng lại ở các
doanh nghiệp kinh doanh theo đúng nghĩa như quy định của Luật Doanh nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

15

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
(doanh nghiệp gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân, nhóm công ty), mà còn có cả cá nhân kinh doanh.
@Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước,
công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp doanh; doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp; các công ty nước ngoài và tổ chức nước
ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp; tổ hợp tác; tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp có tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

@Cá nhân trong nước sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm:
- Cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh.
- Hộ kinh doanh cá thể.
- Cá nhân hành nghề độc lập: bác sĩ, luật sư, kế toán, kiểm toán, họa sĩ, kiến
trúc sư, nhạc sĩ và cá nhân hành nghề độc lập khác.
- Cá nhân cho thuê tài sản như nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết
bị và các loại tài sản khác.
@Cá nhân nước ngoài kinh doanh phát sinh thu nhập tại Việt Nam, không
phân biệt là thực hiện hoạt động kinh doanh được thực hiện tại Việt Nam hay ở
nước ngoài.
Theo thông tư 134/2007/TT-BTC hướng dẫn nghị định 24: “Công ty nước
ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính”.
@Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại
Việt Nam.
Cơ sở thường trú là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty nước
ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam
mang lại thu nhập. Cơ sở thường trú của công ty nước ngoài chủ yếu bao gồm các
hình thức sau:
- Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, xưởng sản xuất, kho giao nhận
hàng hóa, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc khí đốt, địa điểm thăm dò
hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị phương tiện phục vụ cho việc
thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
- Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; các hoạt động
giám sát xây dựng, công trình xây dựng lắp đặt, lắp ráp.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

16


SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
- Cơ sở cung cấp dịch vụ bao gồm dịch vụ tư vấn thông qua người làm công
cho mình hoặc một đối tượng khác.
- Đại lý cho công ty ở nước ngoài.
- Đại diện của Việt Nam trong các trương hợp:
+ Có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty ở nước ngoài.
+ Không có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty ở nước ngoài
nhưng thường xuyên thực hiện việc giao nhận hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ tại
Việt Nam.
Trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo quy
định của hiệp định đó.
- Theo Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được
thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư; liên hiệp hợp tác xã,
hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã; tổ chức kinh tế của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; tổ chức
được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam, tổ chức nước ngoài được
hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong các lĩnh vực từ thiện, nhân đạo, văn hoá,
giáo dục, nghệ thuật, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã hội khác vì mục tiêu
hoà bình, hữu nghị, phát triển kinh tế - xã hội có thu nhập nhưng không chia (gọi tắt
là tổ chức có thu nhập không chia); và các tổ chức khác có sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ, có thu nhập (dưới đây gọi chung là doanh nghiệp), trừ đối tượng
quy định tại Điều 3 của Luật. Như vậy, đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
đã được tiến hành rà soát, sắp xếp lại, chuyển thu nhập của các thể nhân kinh doanh
hiện đang thuộc diện điều chỉnh của Thuế thu nhập doanh nghiệp sang điều chỉnh

bởi Luật Thuế thu nhập cá nhân (được quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Luật Thuế
thu nhập cá nhân có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009).
3.2. Đối tượng không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Đối tượng không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm hộ gia
đình, cá nhân, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản xuất, trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; trừ hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng
hóa lớn, có thu nhập cao.
Việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tổ chức, cá nhân nông dân sản
xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản sẽ có quy định riêng.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

17

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Trước đây, nghi định số 30/1998 NĐ- CP ngày 13/5/1998 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 1997 có quy định về sản
xuất hàng hóa lớn, có thu nhập cao là: giá trị sản phẩm hàng hóa trên 90 triệu
đồng/năm và có thu nhập trên 36 triệu đồng/năm thì phải nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp cho phần thu nhập trên 36 triệu đồng4.
Ví dụ: Một hộ gia đình, cá nhân nông dân có giá trị sản phẩm hàng hóa 150
triệu đồng /năm và thu nhập là 60 triệu đồng /năm. Hộ gia đình, cá nhân này phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền là: (60 triệu – 36 triệu) x 32% = 7,68
triệu đồng.
Còn ở Thông tư 128/2003/TT-BTC ngày 22/12/2003 hướng dẫn thi hành
Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 thì lại quy định: “Tạm thời chưa thu

Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng
hóa lớn, có thu nhập cao từ các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
đến khi có quy định của Chính phủ” (khoản 2 mục II Thông tư 128). Thông tư
134/TT-BTC ngày 14/02/2007 vẫn giữ nguyên quy định này của Thông tư 128, tức
là khi chưa có quy định của Chính phủ thì cá nhân và hộ gia đình trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản vẫn chưa nộp Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Theo dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, đối tượng không thuộc diện
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm:
Tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Trên đây là những khái quát về thuế thu nhập doanh nghiệp. Để vào phần
trong tâm của đề tài. Xin được giới thiệu một trong những phần quan trọng chính
của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 – Thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp và hướng hoàn thiện.

4

Điểm e khoản 2 điều 1 nghi định 30/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp 1997

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

18

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp


CHƯƠNG 2:THU NHẬP CHỊU THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thu nhập chịu thuế
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thu nhập chịu thuế được xác định
trong từng kỳ tính thuế. Kỳ tính thuế được xác định theo năm dương lịch hoặc năm
tài chính. Kỳ tính thuế đầu tiên đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập và kỳ tính
thuế cuối cùng đối với cơ sở kinh doanh chuyển loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi
hình thức sở hữu, sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản... được xác định phù hợp
với kỳ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán.
Theo Thông tư số 134/2007/TT-BTC ngày 23/11/2007 của Bộ Tài chính
hướng dẫn Nghị định 24 có quy định thêm về kỳ tính thuế như sau: Trường hợp kỳ
tính thuế năm đầu tiên của cơ sở kinh doanh mới thành lập và kỳ tính thuế cuối
cùng đối với cơ sở kinh doanh chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi hình
thức sở hữu, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản có thời hạn ngắn hơn
03 tháng thì được cộng với kỳ tính thuế năm tiếp theo (đối với cơ sở kinh doanh
mới thành lập) hoặc kỳ tính thuế năm trước (đối với cơ sở kinh doanh chuyển đổi
loại hình doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức sở hữu, hợp nhất, sáp nhập, chia tách,
giải thể, phá sản) để hình thành một kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm cuối
cùng không vượt quá 15 tháng.
Thu nhập chịu thuế được xác định bao gồm: Thu nhập từ sản xuất kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác trong kỳ tính thuế, kể cả thu nhập từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở nước ngoài. Thu nhập chịu thuế từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bằng doanh thu để tính thu nhập
chịu thuế trừ (-) các khoản chi phí hợp lý liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh trong kỳ tính thuế.
Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đề xuất về xác định thu nhập tính thuế:
Thu nhập tính thuế trong kỳ được xác định bằng thu nhập chịu thuế trừ (-)
thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước.
Thu nhập chịu thuế bằng doanh thu trừ (-) các khoản chi phí được trừ của hoạt động
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, cộng (+) thu nhập khác nhận được từ các

nguồn, kể cả thu nhập thu được ở nước ngoài.
Doanh nghiệp có hoạt động chuyển nhượng bất động sản thì phải xác định
riêng thu nhập chịu thuế từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản để kê khai nộp
thuế riêng.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

19

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
1.1. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
Trước hết doanh thu được hiểu là tổng giá trị các lợi ích mà cơ sở kinh doanh
thu được trong kỳ tính thuế, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông
thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, không bao gồm
khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu.
1.1.1. Cách xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định như sau:
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng hoá, tiền cung
cấp dịch vụ bao gồm cả khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được
hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
- Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ thuế là doanh thu chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Ví dụ: Cơ sở kinh doanh A là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp
khấu trừ thuế. Hoá đơn giá trị gia tăng gồm các chỉ tiêu như sau:
Giá bán:
100.000 đồng.
Thuế GTGT (10%):

10.000 đồng.
110.000 đồng.
Giá thanh toán :
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là 100.000 đồng.
- Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực
tiếp trên giá trị gia tăng là doanh thu bao gồm cả thuế giá trị gia tăng.
Ví dụ: Cơ sở kinh doanh B là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp
trực tiếp trên giá trị gia tăng. Hoá đơn bán hàng chỉ ghi giá bán là 110.000 đồng (giá
đã có thuế GTGT).
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là 110.000 đồng.
T heo Dự thảo L uật T huế thu nhậ p d oanh ngh iệp, doanh thu để
tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch
vụ, kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng; trường hợp có
doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hối đoái do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu bằng
ngoại tệ.
1.1.2. Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hoạt động
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá,
hoàn thành dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ5.
5

Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 24/2007quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

20

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo thông tư 134/2007/NĐ-CP, đối với hoạt động bán hàng hóa là thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hoặc thời điểm xác lập hóa đơn bán hàng.
Đối với hoạt động cung ứng dịch vụ là thời điểm hoàn thành dịch vụ hoặc
thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ.
Theo quy định trên có thể hiểu việc chuyển giao quyền sở hữu, hoàn thành
việc cung ứng dịch vụ không nhất thết phải đồng thời với thời điểm lập hóa đơn bán
hàng, có thể diễn ra trước hoặc sau khi viết hóa đơn bán hàng. Hàng hóa được
chuyển giao, dịch vụ được cung cấp thì bên bán có thể viết hóa đơn để hoạch toán
doanh thu. Lợi dụng quy định này, một số doanh nghiệp yêu cầu viết hóa đơn bán
trước khi hoàn thành việc giao hàng, cung cấp dịch vụ để hoạch toán tăng chi phí,
giảm thu nhập chịu thuế. Ngược lại, một số doanh nghiệp với tư cách là người bán
trong trường hợp cho mua chịu, mặc dù đã chuyển quyền sở hữu hàng hóa, hoàn
thành việc cung cấp dịch vụ vẫn không viết hóa đơn để hoạch toán thu nhập chịu
thuế. Nếu viết hóa đơn, họ sẽ nộp một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi
chưa thu hồi được nợ. Bên bán chỉ viết hóa đơn bán lẻ, phiếu xuất kho thông thường
hay đơn giản hơn là ký sổ lưu nội bộ làm căn cứ thanh toán thực tế. Khi nào nhận
được tiền về số hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên thì bên bán mới viết hóa đơn. Trong
cả hai trường hợp, Nhà nước thất thu một khoản thuế mà lẽ ra phát sinh ngay tại
thời điểm trên.
Trong trường hợp hợp đồng xây dựng quy định nhà thầu được thanh toán
theo tiến độ thì doanh thu và chi phí được ghi nhận tương ứng với phần công việc
đã hoàn thành do nhà đầu thầu tự xác định vào ngày lập báo cáo tài chính, không
phụ thuộc vào hóa đơn đã lập hay chưa và số tiền ghi trên hóa dơn là bao nhiêu.
Phần công việc hoàn thành để xác định doanh thu có thể được xác định một trong
ba phương pháp khác nhau tùy thuộc vào bản chất của hợp đồng (ba phương pháp
đó là:so sánh chi phí đã phát sinh của phần công việc đã hoàn thành với tổng chi phí
dự toán; đánh giá phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng; hoặc theo tỷ lệ %
giữa khối lượng xây lắp hoàn thành tại thời điểm so với khối lượng xây lắp phải

hoàn thành). Nhà thầu căn cứ vào chứng từ để hoạch toán doanh thu trong kỳ kế
toán và đương nhiên trong trường hợp này không cần xác định của bên mua (chủ
đầu tư) và doanh thu này là căn cứ để xác định thu nhập chịu thuế. Trường hợp hợp
đồng xây dựng quy định nhà thầu được thanh toán theo tiến độ kế hoạch thì tài liệu
pháp lý duy nhất để nhà thầu xác định hoạch toán doanh thu chính là hợp đồng xây
dựng – trong đó ghi rõ được thanh toán theo tiến độ và bộ chứng từ xác định doanh
thu trên cơ sở phần việc hoàn thành do đơn vị tự xác định. Như vậy, đã xác định và
hoạch toán được doanh thu nhưng trường hợp này chưa chuyển giao quyền sở hữu
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

21

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
và nhà thầu chưa lập hóa đơn bán hàng. Vì vậy, cần phải quy định rõ ràng và bổ
sung về thời điểm xác định doanh thu hợp đồng xây dựng khi nhà thầu được thanh
toán theo tiến độ. Theo đó, nếu trong hợp đồng xây dựng quy định nhà thầu được
thanh toán theo tiến độ thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là doanh thu tương
ứng với phần công việc đã hoàn thành do nhà thầu tự xác định vào ngày lập báo
cáo tài chính so với tổng khối lượng công việc phải hoàn thành được ghi trong dự
toán và phản ánh trong hợp đồng xây dựng6.
1.1.3. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong một số trường hợp
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hàng hóa theo phương thức
trả góp được xác định theo giá bán hàng hóa, trả tiền một lần, không bao gồm tiền
lãi trả chậm. Về vấn đề này, Thông tư số 134/2007/TT-BTC hướng dẫn: Trường
hợp việc thanh toán theo hợp đồng mua bán trả góp, trả chậm kéo dài nhiều kỳ tính
thuế thì doanh thu là số tiền phải thu của người mua trong kỳ tính thuế không bao
gồm lãi trả góp, trả chậm theo thời hạn quy định trong hợp đồng.Việc xác định chi

phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với hàng hoá bán trả góp, trả chậm thực
hiện theo nguyên tắc chi phí phải phù hợp với doanh thu.
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở
kinh doanh làm ra dùng để trao đổi, biếu, tặng, tiêu dùng nội bộ được xác định theo
giá bán của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm
trao đổi, biếu, tặng, tiêu dùng nội bộ
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở
kinh doanh làm ra tự dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh như: điện
tự dùng, sản phẩm sản xuất ra dùng làm tài sản cố định, sản phẩm xây dựng cơ bản
tự làm là chi phí sản xuất ra sản phẩm đó.
Trong thực tế, một số tổ chức, cá nhân kinh doanh ở tỉnh Khánh Hòa đầu tư
phát triển du lịch sinh thái ven biển và một số hải đảo, nơi chưa có cơ sở hạ tầng
của nhà đầu tư như: điện thắp sáng, nước đường giao thông... nên họ phải đầu tư
toàn bộ. Khi phát điện để phục vụ kinh doanh thì phát sinh chi phí như dầu chạy
máy nổ, khấu hao thiết bị... nếu coi là doanh thu để tính thu nhập chịu thuế thì thiệt
thòi cho doanh nghiệp, bởi lẽ đây là chi phí kinh doanh họ bỏ ra để có nguồn thu từ
dịch vụ du lịch, vả lại quy định này không thể hiện chính sách ưu đãi về đầu tư vào
vùng có khó khăn, không có sự hỗ trợ về cơ sở hạ tầng của nhà nước. Ngoài ra , khi
cơ sở kinh doanh với mục đích tiết kiệm chi phí, khi xây dựng cơ bản những công
6

Sv. Nguyễn Thị Bích Phượng – Luận văn Nghiên cứu về các căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp –
trang 58, 59

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

22

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
trình nhỏ, không đòi hỏi kết cấu hạ tầng như tường rào, sân phơi, đường đi lại nội
bộ trong đơn vị... thì những tổ chức này được thuê mướn nhân công và tự mua vật
tư để thi công, đây là những chi phí xây dựng cơ bản nhằm tạo ra tài sản cố định của
doanh nghệp, nếu những chi phí này lại được coi là doanh thu để tính thuế thì khó
được sự đồng tình về nghĩa vụ thuế, không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vào những vùng khó khăn chưa có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng của nhà nước.
Với những dẫn chứng trên, những quy định về doanh thu để tính thu nhập
chịu thuế có ảnh hưởng đến sự động viên, điều tiết thu nhập và tính công bằng xã
hội. Vì vậy chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp nói chung, nhất là doanh thu để
tính thu nhập chịu thuế tiếp tục cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung đảm bảo đúng
đạo lý và tính nhân văn của chính sách thuế, phù hợp với thực tế sản xuất kinh
doanh7.
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hoạt động gia công hàng hoá
là tiền thu về gia công bao gồm cả tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và
chi phí khác phục vụ cho việc gia công hàng hoá.
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với cơ sở kinh doanh nhận làm
đại lý, ký gửi bán hàng đúng giá quy định của cơ sở kinh doanh giao đại lý, ký gửi
là tiền hoa hồng được hưởng theo hợp đồng đại lý, ký gửi hàng hoá.
@ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với hoạt động cho thuê tài sản là
số tiền bên thuê trả từng kỳ theo hợp đồng thuê. Trường hợp bên thuê trả trước cho
nhiều năm thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được phân bổ cho số năm trả
tiền trước hoặc xác định theo doanh thu trả tiền một lần.
Thông tư số 134/2007/TT-BTC hương dẫn như sau: Trường hợp bên thuê trả
tiền trước cho nhiều năm thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định
phù hợp với việc xác định chi phí của cơ sở kinh doanh.
Tuỳ theo điều kiện về việc xác định chi phí hợp lý, cơ sở kinh doanh có thể lựa
chọn một trong hai phương pháp xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế như
sau:

- Là số tiền cho thuê tài sản của từng năm được xác định bằng (=) số tiền trả
trước chia (:) cho số năm trả tiền trước.
- Là toàn bộ số tiền cho thuê tài sản của số năm trả tiền trước.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đang trong thời gian ưu đãi thuế lựa chọn
phương pháp xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ số tiền thuê
7
Sv. Nguyễn Thị Bích Phượng – Luận văn Nghiên cứu về các căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp –
trang 60

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

23

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
bên thuê trả trước cho nhiều năm thì việc xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp
từng năm miễn thuế, giảm thuế căn cứ vào tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp của
số năm trả tiền trước chia (:) cho số năm bên thuê trả tiền trước.
Đối với tổ chức và cá nhân chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ theo
chế độ quy định, có hoạt động cho thuê tài sản mà bên thuê trả tiền trước cho nhiều
năm thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ số tiền cho thuê tài sản trả
trước cho nhiều năm thu được.
@ Đối với hoạt động tín dụng là số lãi phải thu phát sinh trong kỳ tính thuế
đối với các khoản nợ xác định là có khả năng thu hồi cả gốc, lãi đúng thời hạn.
- Đối với số lãi phải thu của các khoản cho vay trong hạn đã hạch toán vào
thu nhập nhưng đến kỳ hạn trả nợ (gốc, lãi) khách hàng không trả được đúng hạn, tổ
chức tín dụng hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh và theo dõi ngoài bảng để
đôn đốc thu. Khi thu được thì hạch toán vào thu nhập.

- Đối với số lãi phải thu phát sinh trong kỳ của các khoản nợ khách hàng
không trả được đúng hạn còn lại, tổ chức tín dụng theo dõi ngoài bảng để đôn đốc
thu, khi thu được hạch toán vào thu nhập.
- Đối với thu lãi tiền gửi, lãi đầu tư trái phiếu, tín phiếu... là số lãi phải thu
trong kỳ.
@ Ngòai ra, theo Thông tư số 134/2002/TT-BTC doanh thu tính thuế còn
bao gồm các lọai doanh thu khác như:
- Đối với hoạt động vận tải hàng không là toàn bộ số tiền được hưởng từ việc
vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, không phân biệt đã thu được tiền hay
chưa thu được tiền. Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là thời
điểm hoàn thành dịch vụ vận chuyển.
- Đối với hoạt động bán điện là số tiền bán điện ghi trên hoá đơn giá trị gia
tăng. Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là ngày xác nhận chỉ
số công tơ điện và ghi trên hoá đơn tính tiền điện.
Ví dụ: Hoá đơn tiền điện ghi chỉ số công tơ từ ngày 5/12 đến ngày 5/1.
Doanh thu của hoá đơn này được tính vào tháng 1.
- Đối với hoạt động khác như kinh doanh nước sạch...doanh thu để tính thu
nhập chịu thuế được xác định tương tự như hoạt động bán điện.
- Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm là số tiền phải thu
về phí bảo hiểm gốc, phí dịch vụ đại lý (giám định tổn thất, xét giải quyết bồi
thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%); phí nhận tái
bảo hiểm; thu hoa hồng tái bảo hiểm và các khoản thu khác về kinh doanh bảo hiểm
sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu như: hoàn phí bảo hiểm, giảm phí
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

24

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
nhận tái bảo hiểm; hoàn hoa hồng nhượng tái bảo hiểm, giảm hoa hồng nhượng tái
bảo hiểm.
- Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, giá trị hạng mục
công trình nghiệm thu bàn giao hoặc giá trị khối lượng xây dựng, lắp đặt nghiệm
thu bàn giao.
- Trường hợp xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết
bị là số tiền từ hoạt động xây dựng, lắp đặt bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu, máy
móc, thiết bị.
- Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc,
thiết bị là số tiền từ hoạt động xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật
liệu, máy móc, thiết bị.
- Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là số tiền phải thu về kinh
doanh bất động sản. Thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển quyền sử
dụng đất, chuyển quyền sở hữu công trình, vật kiến trúc trên đất hoặc thời điểm bên
chuyển nhượng bàn giao bất động sản cho bên nhận chuyển nhượng hoặc thời điểm
xuất hoá đơn.
- Đối với hoạt động kinh doanh dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh:
+Trường hợp các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phân chia kết
quả kinh doanh bằng doanh thu thì doanh thu để tính thuế thu nhập doanh nghiệp
của từng bên là số tiền bán hàng hoá, dịch vụ của từng bên được chia theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
+ Trường hợp các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phân chia kết
quả kinh doanh bằng sản phẩm thì doanh thu để tính thuế thu nhập doanh nghiệp
của từng bên là số tiền bán sản phẩm đó.
+ Trường hợp các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phân chia kết
quả kinh doanh bằng lợi nhuận thì doanh thu để tính thuế thu nhập doanh nghiệp là
số tiền bán hàng hoá, dịch vụ của hợp đồng hợp tác kinh doanh . Các bên tham gia
hợp đồng hợp tác kinh doanh cử ra một bên làm đại diện, xuất hoá đơn, ghi nhận
doanh thu và kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho các bên còn lại tham

gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.2. Các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu
thuế
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành năm 2003, chi phí của
doanh nghiệp được chia thành 2 nhóm: được khấu trừ và không được khấu trừ.
Điều này đã làm mất tính chủ động của doanh nghiệp, đồng thời tạo ra cơ chế xin-

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

25

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
cho khi mà nhà làm luật không thể tiên liệu hết tất cả các loại chi phí của doanh
nghiệp.
Theo trung tâm thông tin TM – Bộ Công thương, kể từ ngày tính thuế 2008, tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sẽ thực hiện tính thuế và
quyết toán Thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định mới là Thông tư số
134/2007/TT-BTC. Điểm khác biệt lớn nhất của quy định mới là Bộ Tài chính
không quy định cụ thể các khoản chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế,
mà chỉ quy định chi tiết các khoản khác không tính vào chi phí hợp lý.
Các khoản chi phí sau đây không được tính vào chi phí hợp lý8:
@ Các khoản trích trước vào chi phí mà thực tế không chi;
@ Các khoản chi không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp pháp;
@ Các khoản tiền phạt, các khoản chi không liên quan đến doanh thu tính
thuế và thu nhập chịu thuế;
Nguyên tắc xác định các khoản chi phí không tính vào chi phí hợp lý:
+ Các khoản chi không có đầy đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định hoặc hoá

đơn, chứng từ không hợp pháp.
Theo đó mọi khoản chi mặc dù là chi phí thực tế của doanh nghiệp trong việc
tạo ra doanh thu và lợi nhuận, kể cả trường hợp thực tiễn phải có hàng hóa dịch vụ
đó thì mới có doanh thu kinh doanh nhưng nếu không có hóa đơn, chứng từ hợp
pháp thì theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ không được chấp
nhận là chi phí hợp lý để tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Việc này dẫn đến
thiệt hại cho doanh nghiệp.
Bên cạnh sự thay đổi, hoàn thiện chính sách Thuế thu nhập doanh nghiệp thì
việc sử dụng các đòn bẫy kinh tế khuyến kích sử dụng hóa đơn, chứng từ mỗi khi
mua bán và cung ứng dịch vụ thu tiền, mở rộng diện thanh toán giao dịch qua ngân
hàng, hạn chế dần hoạt động thanh toán bằng tiền mặt và xử phạt nghiêm đối với
các trường hợp vi phạm... là các biện pháp cơ bản và lâu dài nhằm giảm thiểu cơ
bản giữa chi phí hợp lý và chi phí thực tế.
+ Các khoản chi không liên quan đến việc tạo ra doanh thu, thu nhập chịu
thuế trong kỳ tính thuế.
+ Các khoản chi do nguồn kinh phí khác đài thọ.
Những khoản chi phí sau đây không tính vào chi phí hợp lý:
@ Chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc một trong các trường hợp sau:

8

Khoản 2 Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

26

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo



Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
- Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không sử dụng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Riêng tài sản cố định phục vụ cho người lao động làm việc tại cơ sở kinh
doanh như: nhà nghỉ giữa ca, nhà ăn giữa ca, nhà thay quần áo, nhà vệ sinh, bể chứa
nước sạch, nhà để xe, phòng hoặc trạm y tế để khám chữa bệnh, xe đưa đón người
lao động, cơ sở đào tạo, dạy nghề, nhà ở cho người lao động do cơ sở kinh doanh
đầu tư xây dựng được trích khấu hao tính vào chi phí hợp lý.
- Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không có giấy tờ chứng minh
được thuộc quyền sở hữu của cơ sở kinh doanh (trừ tài sản cố định thuê mua tài
chính).
- Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định không được quản lý, theo dõi, hạch
toán trong sổ sách kế toán của cơ sở kinh doanh theo chế độ quản lý tài sản cố định
và hạch toán kế toán hiện hành.
- Phần trích khấu hao vượt mức quy định hiện hành của Bộ Tài chính về chế
độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Trường hợp cơ sở kinh doanh
có lãi áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng, khấu hao nhanh để đổi mới
công nghệ là phần trích khấu hao vượt quá 02 lần mức khấu hao theo quy định.
Trường hợp đặc biệt khác được trích khấu hao tính vào chi phí hợp lý theo
Quyết định của Bộ Tài chính.
- Chi phí khấu hao đối với tài sản cố định đã khấu hao hết giá trị.
- Chi phí khấu hao đối với công trình trên đất vừa sử dụng cho sản xuất kinh
doanh vừa sử dụng cho mục đích khác thì không được tính khấu hao vào chi phí
hợp lý đối với giá trị công trình trên đất tương ứng phần diện tích không sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
@ Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá phần vượt
mức tiêu hao hợp lý, bị tổn thất hoặc bị hư hỏng đã được các tổ chức, cá nhân bồi
thường.
@ Chi phí tiền lương, tiền công thuộc một trong các trường hợp sau:
- Chi phí tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp phải trả cho người lao

động nhưng hết thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm thực tế chưa chi.
- Chi phí tiền lương, tiền công do cơ sở kinh doanh chi ngoài hợp đồng lao
động hoặc thoả ước lao động tập thể. Chi phí tiền lương, tiền công chi không có hợp
đồng lao động hoặc thoả ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật về lao
động trừ trường hợp cơ sở kinh doanh thuê lao động thời vụ hoặc vụ việc.
- Các khoản tiền thưởng cho người lao động không mang tính chất tiền
lương, không được ghi trong hợp đồng lao động hoặc thoả ước lao động tập thể.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

27

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
- Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ cá thể, cá nhân
kinh doanh. Thù lao trả cho các sáng lập viên, thành viên của hội đồng thành viên,
hội đồng quản trị không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ.
@ Chi phí của cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, dịch vụ không có hoá đơn,
được phép lập Bảng kê thu mua hàng hoá, dịch vụ mua vào (theo mẫu số 01/TNDN
kèm theo Thông tư số 134/2007/TT-BTC) nhưng không lập Bảng kê kèm theo
chứng từ thanh toán cho cơ sở, người bán hàng, cung cấp dịch vụ trong các trường
hợp: mua sản phẩm làm bằng mây, tre, cói, dừa, cọ, của người nông dân trực tiếp
làm ra; mua sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân không kinh doanh; mua
đất, đá, cát, sỏi của người dân tự khai thác; mua nông, lâm, thuỷ sản của người sản
xuất, đánh bắt bán ra; mua phế liệu của người trực tiếp thu nhặt, mua đồ dùng, tài
sản của hộ gia đình, cá nhân đã qua sử dụng trực tiếp bán ra và một số dịch vụ mua
của cá nhân không kinh doanh.
Bảng kê thu mua hàng hoá, dịch vụ do người đại diện theo pháp luật của cơ

sở kinh doanh ký và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực.
Trường hợp giá mua hàng hoá, dịch vụ trên bảng kê cao hơn giá thị trường tại thời
điểm mua hàng thì cơ quan thuế căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm mua hàng,
dịch vụ cùng loại hoặc tương tự trên thị trường xác định lại mức giá để tính lại chi
phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế.
@ Phần chi phí tiền ăn giữa ca hàng tháng cho mỗi người lao động vượt quá
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước.
@ Phần chi phí tiền ăn định lượng chi trả cho người lao động làm việc trong
một số ngành đặc biệt vượt quá mức chế độ Nhà nước quy
@Chi thưởng sáng kiến, cải tiến mà cơ sở kinh doanh không có quy chế quy
định cụ thể về việc chi thưởng sáng kiến, cải tiến, không có hội đồng nghiệm thu
sáng kiến, cải tiến.
@ Chi tài trợ cho giáo dục không đúng đối tượng quy định tại khoản a mục
2.8 phần III Thông tư số 134/2007/TT-BTC, không có hồ sơ xác định khoản tài trợ
nêu tại điểm b mục 2.8 phần III Thông tư số 134/2007/TT-BTC:
- Tài trợ cho giáo dục gồm: tài trợ cho việc mở trường học theo các hình thức
công lập, dân lập và tư thục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo quy định của
Luật Giáo dục; Tài trợ cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập và hoạt động của
trường học; Tài trợ học bổng cho học sinh, sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục phổ
thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở sở giáo dục đại học được quy định tại

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

28

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật Giáo dục; Tài trợ cho các cuộc thi về các môn học được giảng dạy trong

trường học mà đối tượng tham gia dự thi là người học.
- Hồ sơ xác định khoản tài trợ cho giáo dục gồm: Biên bản xác nhận khoản
tài trợ có chữ ký của người đại diện cơ sở kinh doanh là nhà tài trợ, đại diện của cơ
sở giáo dục hợp pháp là đơn vị nhận tài trợ (theo mẫu số 02/TNDN ban hành kèm
theo Thông tư số 134/2007/TT-BTC).
@ Phần chi bồi thường, trợ cấp cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp vượt quá mức quy định. Chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động.
@ Chi phí trả tiền điện, nước đối với những hợp đồng điện nước do chủ sở
hữu cho thuê địa điểm sản xuất, kinh doanh ký trực tiếp với đơn vị cung cấp điện,
nước không có đủ chứng từ thuộc một trong các trường hợp sau:
- Trường hợp cơ sở kinh doanh thuê địa điểm sản xuất kinh doanh trực tiếp
thanh toán tiền điện, nước cho nhà cung cấp điện, nước không có bảng kê (theo
mẫu số 03/TNDN ban hành kèm theo Thông tư số 134/2007/TT-BTC) kèm theo
các hoá đơn thanh toán tiền điện, nước và hợp đồng thuê địa điểm sản xuất kinh
doanh.
- Trường hợp cơ sở kinh doanh thuê địa điểm sản xuất kinh doanh thanh toán
tiền điện, nước với chủ sở hữu cho thuê địa điểm kinh doanh không có bảng kê
(theo mẫu số 03/TNDN ban hành kèm theo Thông tư số 134/2007/TT-BTC) kèm
theo chứng từ thanh toán tiền điện, nước đối với người cho thuê địa điểm sản xuất
kinh doanh phù hợp với số lượng điện, nước thực tế tiêu thụ và hợp đồng thuê địa
điểm sản xuất kinh doanh.
- Phần chi phí thuê tài sản cố định vượt quá mức phân bổ theo số năm mà
bên đi thuê trả tiền trước.
Ví dụ: Doanh nghiệp A thuê tài sản cố định trong 4 năm với số tiền thuê là:
400 triệu đồng và thanh toán một lần. Chi phí thuê tài sản cố định được hạch toán
vào chi phí hàng năm là 100 triệu đồng. Chi phí thuê tài sản cố định hàng năm vượt
trên 100 triệu đồng thì phần vượt trên 100 triệu đồng không được tính vào chi phí
hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế.
Đối với chi phí sửa chữa tài sản cố định đi thuê mà trong hợp đồng thuê tài
sản quy định bên đi thuê có trách nhiệm sửa chữa tài sản trong thời gian thuê thì chi

phí sửa chữa tài sản cố định đi thuê được phép hạch toán vào chi phí hoặc phân bổ
dần vào chi phí nhưng thời gian tối đa không quá 3 năm.
Trường hợp chi phí để có các tài sản không thuộc tài sản cố định: chi về mua
và sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, giấy phép chuyển giao công nghệ,

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

29

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


Nghiên cứu về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
nhãn hiệu thương mại, lợi thế kinh doanh... được phân bổ dần vào chi phí kinh
doanh nhưng tối đa không quá 3 năm
@ Chi phụ cấp tàu xe đi nghỉ phép không đúng theo quy định của Bộ Luật
Lao động; Phần chi phụ cấp cho nguời lao động đi công tác (không bao gồm tiền đi
lại và tiền ở) vượt quá 2 lần mức quy định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính đối với
cán bộ công chức, viên chức Nhà nước.
@ Các khoản chi cho lao động nữ không đúng đối tượng và mức chi vượt
quá theo các quy định dưới đây:
- Chi cho đào tạo lại nghề cho lao động nữ trong trường hợp nghề cũ không
còn phù hợp phải chuyển đổi sang nghề khác theo quy hoạch phát triển của cơ sở
kinh doanh.
Khoản chi này bao gồm: học phí (nếu có) + chênh lệch tiền lương ngạch bậc
(đảm bảo 100% lương cho người đi học).
- Chi phí tiền lương và phụ cấp (nếu có) cho giáo viên dạy ở nhà trẻ, mẫu
giáo do cơ sở kinh doanh tổ chức và quản lý. Số lượng giáo viên được xác định theo
định mức do hệ thống giáo dục đào tạo quy định.
- Chi phí tổ chức khám sức khoẻ thêm 01 lần trong năm như khám bệnh nghề

nghiệp, mãn tính hoặc phụ khoa cho nữ công nhân viên.
- Chi bồi dưỡng cho lao động nữ sau khi sinh con lần thứ nhất hoặc lần thứ
hai. Mức chi không vượt quá 1,5 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định để
giúp lao động nữ khắc phục một phần khó khăn do sinh đẻ.
- Phụ cấp làm thêm giờ cho lao động nữ trong trường hợp vì lý do khách
quan người lao động nữ không nghỉ theo chế độ quy định mà ở lại làm việc cho cơ
sở kinh doanh được trả theo chế độ hiện hành.
@ Phần chi trang phục bằng tiền cho người lao động vượt quá 1.000.000
đồng/năm.
@ Phần trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
vượt mức quy định. Phần chi đóng góp hình thành nguồn chi phí quản lý cho cấp
trên, chi đóng góp vào các quỹ của hiệp hội vượt quá mức quy định của cơ sở kinh
doanh, hiệp hội.
@ Phần chi phí lãi tiền vay vốn sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của
các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính vượt mức lãi suất thực tế căn cứ vào hợp
đồng vay. Phần chi phí lãi tiền vay của các đối tượng khác vượt mức lãi suất thực tế
căn cứ vào hợp đồng vay hoặc phần chi phí lãi tiền vay vượt quá 1,2 lần mức lãi
suất cho vay cao nhất cùng thời điểm của tổ chức tín dụng mà cơ sở kinh doanh có
quan hệ giao dịch.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

30

SVTH: Huỳnh Thị Thu Thảo


×