Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích quan điểm về con người và chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.83 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Cội nguồn tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nằm trong những nguồn gốc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa là bắt nguồn từ những yếu tố của dân tộc
và nhân loại, những hoạt động thực tiễn và phong phú của chính Người. Tuy nhiên
nó có những biểu hiện riêng, trực tiếp và đặc biệt phát triển trên cơ sở phát triển
của cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Điều mà Hồ Chí Minh nói khi
lần đầu tiên trở về quê hương Nghệ - Tĩnh, sau gần nửa thế kỉ kể từ khi ra đi tìm
đường cứu nước:

“Quê hương nghĩa trọng tình cao,
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”

Cho thấy những yếu tố sơ khai của một tâm trí nhân văn là nghĩa tình gia
đình, quê hương. Nếu xưa, văn hóa Hy-la từng đóng một vai trò quan trọng đối với
các vĩ nhân thời Phục hưng ở Châu Âu, thì nay, triết học phương Đông nổi bật là
đạo nhân của Khổng gióa, tư tưởng vị tha, cứu khổ của Phật giáo, cũng chiếm một
phần quan trọng trong tâm trí Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã kế
thừa một cách sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống trong lịch sử dân tộc,
những giá trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, tinh thần khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản trong học thuyết Mác – Lenin. Học thuyết ấy đã
chỉ rõ nguồn gốc cơ bản của mọi đau khổ của con người, vạch ra con đường tất
yếu đưa đến sự giải phóng con người và xã hội loài người.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao hàm cả những giá trị nhân đạo và
nhân bản, những giá trị con người, nhưng không phải những con người nói chung,
bất kì mà là những con người hiện thực, con người hành động. Do vậy trong nhiều
giá trị nhân văn mà Người để lại cho dân tộc, ta chỉ tập trung nhấn mạnh mảng giá
trị nhân văn hiện thực của Người. Chính vì thế để làm rõ mảng giá trị nhân văn này
em đã chọn đề tài “ Phân tích quan điểm về con người và chiến lược “trồng
người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh” cho bài tập học kì lần này.
NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI


1. Nhận thức chung về con người

1


Con người là một sinh vật có tính loài, là một bộ phận của giới tự nhiên.
Con người được phân biệt với con vật là bởi con người có cuộc sống có ý thức,
biết tư duy. Đồng thời với khả năng của mình con người còn biết sáng tạo ra công
cụ lao động và có ngôn ngữ riêng để giao tiếp, trao đổi trong quá trình sống. Có thể
khẳng định đó là những đặc tính bản chất của con người, xuất hiện khi hình thành
con người.
2. Con người theo quan niệm của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh định nghĩa: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”.Trong
tư duy Hồ Chí Minh không có con người chung chung, trừu tượng. Theo người,
con người ở những thời kì khác nhau có tên gọi khác nhau, vai trò khác nhau và
trong những quan hệ cụ thể khác nhau.
Trong mối quan hệ với kẻ thù dân tộc: “người bản xứ”, “người mất nước”,
“người vô sản”, “người cùng khổ”…
Trong mối quan hệ với cộng đồng, dân tộc : người là “đồng bào”, “quốc
dân”, “dân”, “quần chúng nhân dân”…
Trong mối quan hệ giai cấp là người “lao động chân tay”, “lao động trí óc”,
“công dân”, “nông dân”, “người chủ tập thể”…
Cách tiếp cận này phù hợp với cách tiếp cận của C. Mác về bản chất con
người: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội”.
Đối với Hồ Chí Minh, con người, nhân dân là vốn quý nhất và xuyên suốt
toàn bộ tư tưởng nhân văn của Người. Trong bản bổ sung cho di chúc, Người viết:
“Đầu tiên là công việc đối với con người” và theo Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn

kết của nhân dân”. Nhân dân là người sáng tạo ra moi giá trị vật chất và tinh thần.
Với quan điểm như vậy, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những giá trị nhân
văn hiện thực sâu sắc:

2


* Người có lòng yêu thương vô hạn đối với con người và sự cảm thông sâu
sắc với mọi đau khổ của con người.
- Trong hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, “yêu nước
và thương dân” là hai động lực thôi thúc nhất. Hoài bão từng nung nấu ở Người, từ
những năm đầu thế kỉ XX là tìm cách đi sang Pháp và các nước phương Tây xem
họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trong quá trình hoạt động Cách mạnh Hồ Chí Minh cũng từng bước hoàn
chỉnh lý luận về con người. Năm 1924 Người viết: “Vậy là, dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh quan tâm nhiều tới thế giới thuộc địa, một thế giới
thực sự đau khổ mà vào những thấp niên đầu thế kỉ XX chiếm tới gần 70% dân số
thế giới. Người quan tâm tới ‘đồng bào” tới “dân” và trước hết là công nhân, nông
dân, trí thức, nhân dân lao động, những người cùng khổ. Lý luận về con người ở
Hồ Chí Minh cho thấy “Những người cùng lao động trong một nhà máy, một cơ
quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau như anh e
trong một gia đình. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một gia
đình. Dân ta có câu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không bao giờ đóng khung “người trong một
nước” mà “rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:
Lọ là thân chí ruột rà

Công nông thế giới đều là anh em”
Quan điểm “bốn bể đầu là anh em” của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, cụ thể,
không chỉ như Nho giáo chỉ là những người quân tử với nhau.

3


- Tình thương yêu con người và nhân dân của Hồ Chí Minh chính là sự
đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, của những người dân mất nước, nô lệ,
lầm than. Chính Người cũng là nạn nhân của chính sách thống trị tàn bạo, hà khắc
của đế quốc thực dân. Trái tim người cùng nhịp đập với khát vọng cháy bỏng được
giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Người đau nỗi đau của một người từng trải
qua và chứng kiến nhiều mất mát, đau thương và bao cảnh bất công, ngang trái…
cho thấy lương tâm Hồ Chí Minh dễ xúc động với những gì liên quan đến thân
phận dân mình, đồng bào mình, nước mình và các dân tộc cùng cảnh ngộ, tức là
liên quan đến số phận con người.
* Người có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá và khả năng vươn
lên chân, thiện mỹ của con người.
Vì sống trong lòng quần chúng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân nên
Người có lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá và khả năng vươn lên chân,
thiện mỹ của con người.
Ngay từ năm 1921, Người đã có niềm tin chắc chắn rằng “Không, người
Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi… Đằng sau
sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”
Hồ Chí Minh tin vào sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân. Người
từng khái quát: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đã là
người cộng sản phải tin nhân dân, niềm tin vào quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh
cho người cộng sản và sự nghiệp Cách mạng của Đảng. Hồ Chí Minh chính là lãnh

tụ có niềm tin không hề thay đổi về điều này.
Người cũng luôn tin vào phẩm giá và khả năng vươn lên chân, thiện, mỹ
của con người dù nhất thời họ còn sai trái, lầm lạc. Theo Hồ Chí Minh “con người
dù là tốt hay xấu, văn minh hay dã man đều có tình”. Người cũng chỉ rõ: “Mỗi con
người đều có thiện và ác trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt của con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”

4


* Người đã triệt để tối cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc gây ra
cho con người bằng những lời lẽ đanh thép trong các tác phẩm như: Bản án chế độ
thực thực dân Pháp, Thuế máu, Tuyên ngôn độc lập… Bên cạnh đó người còn có ý
chí đấu tranh và thực hiện trên thực tế cuộc đấu tranh gải phóng dân tộc, giai cấp
và con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người.
II. CHIẾN LƯỢC “TRỒNG NGƯỜI” CỦA HỒ CHÍ MINH
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách vừa lâu dài của cách
mạng. Xuất phát từ quan niệm con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định đối
với sự thành bại của cách mạng, là mục tiêu và động lực của cách mạng, Hồ Chí
Minh hết sức coi trọng chiến lược con người. Con người phải được đặt vào vị trí
trung tâm của sự phát triển, nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của con người.
1. Chiến lược trồng người trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chiến
lược giáo dục, đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa.
Người viết: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”. Theo Người, đó là chiến lược giáo dục, đào tạo và rèn
luyện con người mới xã hội chủ nghĩa. Nếu không có những con người mới xã hội
chủ nghĩa thì không có chủ nghĩa xã hội. Con người mới xã hội chủ nghĩa là những
con người thiết tha, say sưa với lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có tri thức với tinh thần
và năng lực làm chủ; có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến
thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và nhạy bén với cái mới; có tinh thần sáng tạo

dám nghĩ, dám làm… Chính những con người với những phẩm chất đó trở thành
nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời xuất phát từ vị trí, vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thanh niên là một bộ phận rất quan trọng của
xã hội, giữ vị trí và vai trò hàng đầu trong dựng nước và giữ nước. C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều coi thanh niên là một lực lượng cách mạng hùng
hậu, có vai trò quan trọng trong cách mạng và xem xét vấn đề thanh niên luôn gắn
bó với giai cấp công nhân và đảng tiên phong. C.Mác khẳng định: "Do những quy
luật phát triển khách quan của xã hội, thanh niên bao giờ cũng giữ vai trò quan

5


trọng trong việc kế thừa và phát triển những thành tựu của người đi trước". Kế
thừa những di sản tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã
phát triển sáng tạo các luận điểm mác-xít về vai trò thanh niên, phong trào thanh
niên và xây dựng Đoàn Thanh niên cộng sản ở Việt Nam. Gắn thanh niên với vận
mệnh của dân tộc, Hồ Chí Minh, trong nhiều bài nói và viết của mình đã luận giải
một cách thuyết phục rằng: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà...
Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên".
2. Lợi ích của giáo dục – đào tạo
Hồ Chí minh chỉ rõ lợi ích mà giáo dục – đào tạo đem lại có thể nói không
chỉ là hàng trăm năm mà còn mãi mãi cho thế hệ mai sau. Theo đó, giáo dục đào
tạo trở thành chiến lược phát triển bền vững của dân tộc và đất nước. Hồ Chí Minh
đã vận dụng sang tạo, phát triển quan điểm của Quản Trọng: “Thập niên chi kế
mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân” mà khẳng định: “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích tram năm thì phải trồng người”. Với quan
điểm “tất cả vì con người, do con người”, sự nghiệp giáo dục đào tạo mà Hồ Chí
Minh và Đảng ta dầy công chăm lo, vun trồng đã trở thành nhân tố quyết định nhất
bảo đảm thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của nhà nước, sự kiên định, vững vàng của nhân dân, dân tộc trước mọi thử
thách của cuộc sống.
3. Vai trò của giáo dục đào tạo trong việc hình thành và phát triển nhân
cách con người.
Bàn về nhân cách con người thì từ xưa đến nay đã có rất nhiều quan điển
khác nhau. Như ở phương Đông, theo Nho giáo Mạnh Tử cho rằng “nhân chi sơ
tính bản thiện” tức con người sinh ra bản tính là thiện. Ngược lại thì Tuân Tử lại có
quan điểm “nhân chi sơ tính bản ác” có nghĩa là con người sinh ra bản tính đã là
ác. Như vậy quan điểm của Nho giáo là duy tâm khi cho rằng bản tính con người
do trời sinh ra và còn mang tính phiến diện khi khẳng định bản tính con người là
cái có sẵn. Bên cạnh đó thì ở phương Tây đã từng có người tuyệt đối hóa vai trò

6


của việc giáo dục đối với nhân cách con người “nếu cho tôi 100 đứa trẻ tôi sẽ biến
50 đưa thành thiên tài và 50 đứa thành kẻ cắp”.
Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trò của giáo dục – đào tạo trong quá
trình hình thành và phát triển, biến đổi của tính người, của nhân cách con người.
Tính người không phải do trời phú, không phải là cái cố hữu, bất biến, không thay
đổi. Hồ Chí Minh viết:

“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”

“Tính” của con người đầu tiên chỉ như tấm lụa trắng, hết sức trong sạch.
Sau đó, trở nên tốt hay xấu phần nhiều là do giáo dục: “Óc những người tuổi trẻ
trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó thành xanh. Nhuộm đỏ thì

nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập trong nhà trường có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai
của thanh niên”.
Điều đó đã bác bỏ quan niệm của Nho giáo, bác bỏ quan niệm duy tâm về
tính người. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đề cao, nêu bật vai trò của giáo dục nhưng
không hề coi giáo dục là yếu tố duy nhất tạo nên nhân cách con người. Quan điểm
này đã có sự kế thừa và phát triển từ những bậc tiền nhân trong lịch sử.
Ngoài ra, để nhân cách con người phát triển một cách hoàn thiện nhất cần
có sự phối hợp giữa các nhân tố gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục.
Mỗi nhân tố đều mang một vai trò riêng nhất định. Gia đình là tế bào của xã hội, là
nền tảng của mỗi quốc gia và là cái nôi sinh thành, giáo dưỡng mỗi con người. Nhà
trường là môi trường giáo dục chuyên nghiệp góp phần định hình và phát triển
nhân cách con người. Cuối cùng, xã hội chính là môi trường thực tế giúp con
người rèn luyện, phát huy nhân cách của mình. Sự phối hợp của ba nhân tố trên là
hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục nhân cách con người. Nó giống
như chiếc kiềng ba chân đơn giản, vững chắc nhưng không thể thiếu bất kì chân
nào.
4. Chức năng của giáo dục – đào tạo

7


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh gồm có ba chức năng: nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Theo Người, con người mới xã hội chủ
nghĩa nhất định phải là con người có học thức, có tri thức. Từ đó, Người rất coi
trọng việc nâng cao dân trí cho toàn thể dân tộc và biến khát vọng “khai dân trí”
của các sĩ phu yêu nước hồi đầu thế kỉ thành hiện thực. Những bài báo đầu tiên mà
Người viết, những lớp huấn luyện đầu tiên mà Người tổ chức và giảng dạy từ đầu
những năm 20 đến trước Cách mạng tháng Tám đã mở đầu cho sự nghiệp to lớn ấy
và thu được những thành công bất ngờ.
Người đã hướng mọi hoạt động văn hóa, tư tưởng, giáo dục vào việc rèn

luyện dân tộc ta thành dân tộc cách mạng, văn minh. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc
mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, tầm quan trọng của việc kế thừa bản sắc
văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Chống giặc đói, giặc dốt là những
nhiệm vụ hàng đầu của Cách mạng. Người cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu, một dân tộc yếu là một dân tộc hèn. Chính vì vậy, theo Người mục tiêu của
văn hóa là nâng dân tộc ta lên ngang tầm thời đại. Chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, chính sự phát triển đó sẽ đảm bảo
cho thắng lợi của chủa nghĩa xã hội.
Giáo dục ngày nay vẫn tiếp tục kế thừa những quan điểm trên của Hồ Chí
Minh tuy nhiên có điểm khác biệt ở chỗ: Thời trước Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào
việc nâng cao dân trí do lúc đó nước ta số dân mù chữ còn chiếm tới hơn 90%. Còn
hiện nay chính sách của Đảng và nhà nước ta tập trung hơn vào chức năng đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài vì đó vừa là mục tiêu vừa là động lực để thực hiện
công cuộc công nghiệp ,hóa hiện đại hóa đất nước.
5. Nội dung của giáo dục – đào tạo
Hồ Chí Minh rất mực coi trọng giáo dục – đào tạo con người toàn diện cả
về đức, trí, thể, mỹ. Người chỉ rõ: “Đức dục là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao
động, yêu khao học, yêu trọng của công. Trí dục là ôn lại những điều đã học, học
them những tri thức mới. Thể dục để làm than thể khỏe manh, đồng thời cần giữ vệ

8


sinh riêng và vệ sinh chung. Mỹ dục để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không
đẹp”.
Bên cạnh đó người đặc biệt nhấn mạnh việc kết hợp giáo dục đạo đức và
tài năng.
Hồ Chí Minh rất coi trọng tài năng. Người trân trọng đón mời và ưu đãi rất
nhiều cho những người có tài năng, kể cả những người đã từng có lúc sa chân lỡ
bước nhưng đã rời bỏ mê lầm. Nhưng Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng đạo

đức. Đạo đức là nền tảng cho tài năng phát huy. Đối với mọi con người Việt Nam
mới, để phát triển toàn diện thì trước hết cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách
mạng bồi dưỡng tinh thần nhân ái, khoan dung Hồ Chí Minh. Nhưng có đức mà
không có tài tuy không làm điều xấu, nhưng khó có thể làm được nhiều việc có ích
cho đời. Vì thế, Hồ Chí Minh rất mực coi trọng giáo dục cả đạo đức và tài năng,
phải chú trọng phát triển đồng đều cả tri thức, tình cảm và ý chí; phải có sự thống
nhất giữa khối óc, trái tim và đôi bàn tay. Trong việc sử dụng con người, với quan
điểm trọng dụng hiền tài, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải bố trí, sắp xếp đúng người,
đúng việc tránh để lãng phí thiên tài.
6. Phương pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện theo
quan điểm của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến phương pháp nêu gương, thống nhất giữa
lời nói và việc làm, giữa lí luận với kết quả trong thực tế. Người nói: “Nói chung
thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống
còn giá trị hơn một tram bài diễn văn tuyên truyền”. Gương mẫu trong việc làm,
trong cuộc sống… không chỉ là nội dung của đạo đức mà còn là phương pháp giáo
dục, đào tạo con người.
Xuất phát từ phương pháp nêu gương Hồ Chí Minh đề ra chủ trương viết
sách về người tốt, việc tốt. Nhờ đó người đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân, kể
cả các cụ già và cháu nhỏ thi nhau làm việc tốt, người tốt. Đó cũng là cách khơi
dậy tiềm năng tốt đẹp như tinh thần yêu nước, đạo đức trong sang, thuần phong mỹ
tục vốn sẵn có ở người Việt Nam chúng ta.

9


Cùng với phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt Hồ Chí Minh còn có
cách nhìn người vừa bao dung vừa sâu sắc, chủ yếu nhìn mặt tốt của con người và
tìm cách khơi dậy mặt tốt đó. Điều này đã thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với con người nói chung, đối với việc xây dựng con người phát triển

toàn diện nói riêng.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược “trồng người” chính là
sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và tư tưởng
của thời đại: Tư tưởng nhân đạo cộng sản. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của
đất nước, cùng với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, những tác động tiêu
cực đang xói mòn đạo đức, đời sống văn hóa của nhân dân ta song Đảng ta vẫn
nhất quán quan điểm: Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và "phát triển con
người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp
đổi mới đất nước... Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con
người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta. Kế thừa quan điểm của Bác về con
người, về giáo dục bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Đảng ta trong tư
tưởng chỉ đạo, xây dựng mục tiêu giáo dục đào tạo là giáo dục các thế hệ con
người Việt Nam sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Những con người có đạo đức trong sáng, có ý chí tự lực, sáng tạo, kiên cường
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Có ý thức cộng đồng, phát huy tính tích cực cá
nhân, biết làm chủ tri thức khoa học và công nghệ, có tư duy sáng tạo, có khả năng
thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, kỷ luật, có sức khỏe mà
theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là những con người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng
lại vừa chuyên. Đó thực sự là những con người mới, những con người làm chủ
tương lai của đất nước.

10




×