Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

SUY NGHĨ về đào tạo NGUỒN NHÂN lực CHẤT LƯỢNG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.03 KB, 7 trang )

SUY NGHĨ VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO – YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ SỚM THOÁT KHỎI "BẪY THU
NHẬP TRUNG BÌNH” Ở NƯỚC TA
TS. Lê Đình Viên
Chủ tịch HĐQT - Hiệu trưởng
Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện và sâu sắc trong mấy chục năm qua, đất nước ta đã
phát triển, mức sống của người dân được nâng lên và chính họ là những người được trực tiếp thụ
hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo. Thành quả tổng hợp
quan trọng của sự nghiệp này chính là đã đưa đất nước ta ra khỏi các nước kém phát triển và gia nhập
vào nhóm các nước có mức thu nhập trung bình. Tuy nhiên, để đưa đất nước tiếp tục vươn lên mức cao
hơn, vấn đề nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một yêu cầu vừa cấp
bách, vừa của cả quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Như ta đã biết, việc một quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình và bị mắc kẹt tại mức thu
nhập này vì nhờ có nguồn tài nguyên và những lợi thế ban đầu nhất định nhưng thời gian dài vẫn không
vượt qua được ngưỡng đó. Nói một cách dễ hiểu “bẫy thu nhập trung bình” là một khái niệm chỉ tình
trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng phải mất nhiều
thập kỷ mà chưa chắc trở thành một nước phát triển. Các nước như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và
Philipine đều không vượt qua được “bẫy” thu nhập trung bình sau những bước phát triển nhảy vọt đáng
ngạc nhiên trong suốt 2 thập niên 1970 – 1980; trái lại các nước khác như Hàn Quốc, Đài Loan đã vượt
qua bằng con đường hướng tới phát triển công nghệ cao dựa vào cơ sở của nguồn lao động chất lượng
cao.
Theo Kenichi Ohno (2011), một quốc gia có thể đạt được mức thu nhập trung bình nhờ tự do
hóa, hội nhập với nền kinh tế thế giới và quá trình tư nhân hóa nhưng sẽ chỉ dừng ở đó và điều đó cũng
có nghĩa là, nếu không thoát khỏi ngưỡng này thì nước đó đã “lọt bẫy”.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng vướng vào bẫy có mức thu nhập trung bình được mô tả:
(i) sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kinh tế tăng trưởng, (ii) tiếp tục tình trạng của một nền
kinh tế gia công (nền kinh tế trong nước không đủ sức tạo ra giá trị gia tăng mới để tham gia vào chuỗi
giá trị công nghiệp toàn cầu do chất lượng nguồn nhân lực thấp, (iii) sự thống trị của các tập đoàn mang
thương hiệu nước ngoài, (iv) sự phân hóa thu nhập đưa đến phân cực v.v…


Quá trình phát triển từ thu nhập trung bình, bản thân nó cũng ngầm chứa những yếu tố là
nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Đó là sự hủy hoại môi trường sống cần phải


mất nhiều nguồn lực và thời gian để khắc phục (nhưng lại có những yếu tố vĩnh viễn không thể khắc
phục được), sự thay đổi môi trường xã hội (văn hóa, xã hội biến đổi trong thời gian quá ngắn) dễ tạo ra
những xung đột; sự tự tin thái quá của các tầng lớp dẫn dắt đến thành công, tâm lý đòi tưởng thưởng
công trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm (Võ Hoàng Dũng, 2010). Kenichi Ohno (2011) cho rằng,
Việt Nam đang bị bẫy thu nhập trung bình thách thức là do tư tưởng trước đây dựa chủ yếu vào mở cửa
thương mại (ODA, FDI, kiều hối, đầu tư vào chứng khoán, bất động sản) thay vì dựa vào năng suất lao
động có được từ nguồn nhân lực có chất lượng cao và đổi mới – vốn là 2 yếu tố then chốt cho tăng
trưởng bền vững và giúp thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
Theo Huruhiko Karoda (2011) và một số chuyên gia kinh tế, để thoát khỏi “bẫy”, Việt Nam
cần phải (i) Tập trung đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực vì nguồn lực thực sự cho tăng trưởng phải là
giá trị do người dân và doanh nghiệp trong nước tạo ra; (ii) Thay đổi thể chế kinh tế, tập trung phát triển
khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Xác định một số công nghệ chủ đạo đến năm 2020, nghiên cứu những thuộc
tính tốt nhất trên thế giới để có chiến lược phù hợp và giám sát tiến độ do cấp cao nhất thực hiện.
Bốn yếu tố trên cần đặt trong một tổng thể chiến lược mang tính dài hạn. Tuy nhiên với
phạm vi bài này, xin được đề cập đến một số yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt, đó là việc tập trung đầu
tư vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
II. NHỮNG YẾU TỐ BỨC XÚC ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO Ở NƯỚC TA
Từ những gì đã sơ lược đề cập ở trên, cho thấy nguồn nhân lực có chất lượng cao trở thành
một yếu tố cực kỳ quan trọng, trong số các yếu tố quan trọng khác nhằm vực dậy nền kinh tế, sớm đưa
nước ta ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình” bởi lẽ “bẫy thu nhập trung bình” chỉ là một khái niệm tương đối,
thay đổi theo thời gian và hoàn toàn không phải là điều không thể vượt qua. Ở tất cả các nước, ở mỗi
giai đoạn phát triển đều có những khó khăn khác nhau và có vượt qua được hay không còn phụ thuộc
vào thể chế chính trị và sức mạnh của cộng đồng doanh nghiệp, trên cơ sở nguồn nhân lực chất lượng
cao mà quốc gia đó đã tạo ra.
Để chuyển nền kinh tế có mức thu nhập trung bình, bắt nguồn từ việc khai thác và sử dựng

nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có sang nền kinh tế phát triển – một nền kinh tế sử dụng kỹ thuật và
công nghệ cao có được từ chất lượng nguồn lao động, không chỉ đúng với tất cả các nước mà còn rất
đúng đối với nước ta.
Như chúng ta đã biết, ở bất kỳ quốc gia nào nguồn tài nguyên thiên nhiên dù phong phú đến
đâu cũng chỉ là hữu hạn, trong khi đó trí tuệ của con người là luôn luôn và mãi mãi là vô hạn. Chính vì lẽ
đó, việc chuyển sự tăng trưởng kinh tế có được chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang một
nền kinh tế tri thức là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào, thể chế chính trị nào, ở bất kỳ


thời đại nào và trong bất kỳ nền văn minh nào. Karl Marx khi nghiên cứu lịch sử hình thành các nền kinh
tế đã từng cho rằng: “Sự khác nhau giữa hình thái kinh tế này với hình thái kinh tế khác không phải là
sản xuất ra cái gì mà sản xuất bằng cách nào”, chính là xuất phát từ cơ sở lý luận nói trên. Với một đội
ngũ nhân lực chất lượng cao ắt sẽ tạo ta một năng suất lao động cao, điều mà V.I. Lenin đã từng cho
rằng: “Suy cho cùng, năng suất lao động là cái quan trọng nhất…”
Cần phải khẳng định một lần nữa: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu học và coi việc học
là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Người xưa đã từng coi việc học là điều kiện để chấn hưng
đất nước, bằng một câu nói nổi tiếng: “Phi trí bất hưng”. Sau những đêm dài nô lệ, vừa mói dành được
độc lập chưa được bao lâu, trong thư gửi học sinh nhân dịp khai giảng năm học đầu tiên, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể bước lên
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu đuộc hay không, chính là nhờ công lao học tập
của các em”. Người đã từng khẳng định rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Tuy nhiên, liền sau
đó, lịch sử đã đặt lên vai dân tộc ta 2 cuộc chiến tranh chống xâm lược ròng rã suốt hơn 30 năm, với
mức tàn phá ghê gớm của nó, nhưng cuối cùng chúng ta đã chiến thắng giành về cho dân tộc mình
quyền độc lập và tự do. Trong suốt thời gian đó cũng là thời gian các nước trong khu vực đã có điều kiện
để xây dựng và phát triển kinh tế, làm cho khoảng cách giữa ta và các nước trong khu vực ngày càng
rộng thêm. Chúng ta đã rửa được cái nhục mất nước nhưng lại đang phải đối mặt với mối nhục khác, đó
là mối nhục về nền kinh tế kém phát triển. Chính vì vậy, rửa cho được mối nhục này đã và đang là nỗi
trăn trở của tất cả chúng ta, và với truyền thống của dân tộc, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng, như
chúng ta đã từng thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trước đây.
Trong rất nhiều Nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước đã coi giáo dục và đào tạo là

quốc sách hàng đầu và từ đó đã đưa ra được những giải pháp cụ thể, trong đó coi trọng việc đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cao trở thành một yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đại hội lần thứ XI của Đảng, trong báo cáo chính trị đã khẳng định:
“Phát triển, nâng cao nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự phát triển chung và bền vững của đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước,… Phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ
đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi người dân được học tập suốt đời” và coi việc “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là


nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân,
gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một
trong ba khâu đột phá chiến lược do Đại hội Đảng lần thứ XI đặt ra.
Những quan điểm nói trên do Đại hội Đảng lần thứ 11 đưa ra chẳng những là kim chỉ nam
cho mọi hoạt động liên quan đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mà còn là cơ sở để sớm đưa nước ta
thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” tham gia vào các nước phát triển trên thế giới. Đây không chỉ là một
mục tiêu cho trước mắt mà còn trong lâu dài, và để đạt được mục tiêu đó, cần có những bước đi phù
hợp, sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, một dân tộc có
truyền thống hiếu học, thông minh và cần cù trong lao động suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Là một nước đi lên từ một nước kém phát triển, chắc chắn có những khó khăn nhưng cũng
có những thuận lợi hết sức cơ bản: Đó là thừa hưởng những thành tựu khoa học và kỹ thuật của nhân
loại đã tích lũy được từ những nước phát triển, mà không phải mất công và thời gian để tìm tòi, khám
phá và sáng tạo.
Như ta đã biết, đặc trưng của một nền kinh tế có trình độ phát triển cao chính là việc đưa
vào sử dụng các kỹ thuật công nghệ hiện đại thuộc “đời chót”, từ đó làm thay đổi toàn diện và sâu sắc
quá trình công nghệ đã từng tồn tại trước đó, tạo ra không chỉ năng suất lao động cao mà còn là chất

lượng sản phẩm, với những tính năng ưu việt của nó, diễn ra trong mọi lĩnh vực của của đời sống kinh tế
và xã hội. Việc chuyển đổi một nền kinh tế có mức thu nhập trung bình như nước ta có được chủ yếu từ
việc tận dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có, chuyển sang một nền kinh tế phát triển bằng
việc đưa “chất xám” tham gia phần lớn trong mỗi một sản phẩm – là cơ sở quan trọng trong quá trình
bức phá đi lên đầy ngoạn mục, khó khăn và phức tạp, cần có những quyết sách táo bạo, sát thực, phù
hợp tình hình cụ thể của đất nước ta, con người Việt Nam ta, liên quan đến chính sự nghiệp giáo dục và
đào tạo.
Căn cứ và những quan điểm lớn liên quan đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo cương
lĩnh do Đại hội Đảng lần thức 11 đưa ra, theo chúng tôi những vấn đề sau đây cần phải được nhận thức
và xử lý phù hợp.
Một là, thúc đẩy quá trình tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại của thế giới với các hình
thức thích hợp.
Quá trình du nhập công nghệ và kỹ thuật cao vào đất nước ta chắc chắn phải được tiến
hành bằng nhiều biện pháp khác nhau thông qua nhập khẩu kỹ thuật và công nghệ - đặc biệt là công
nghệ hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra sau đó là quá trình sử dụng kỹ thuật và công nghệ cao, đòi hỏi
phải có nguồn nhân lực đã trải qua quá trình chuẩn bị nghề nghiệp đạt chuẩn quốc tế để có khả năng sử
dụng kỹ thuật và công nghệ đó. Điều kiện tiên quyết đó chỉ có thể có được thông qua quá trình đào tạo


với chất lượng đào tạo cho phép. Với một đội ngũ lao động được đào tạo căn cơ và bài bản không
những có thể sử dụng kỹ thuật và công nghệ du nhập mà còn có khả năng khám phá, phát minh trong
quá trình sử dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại đó.
Như vậy, xét cho cùng yếu tố con người được được chuẩn bị nghề nghiệp là yếu tố cực kỳ
quan trọng và không thể thay thế. Để làm được việc đó, theo chúng tôi cần phải có những giải pháp cụ
thể sau đây tiếp theo liên quan đến giáo dục và đào tạo.
Hai là, phải mở rộng sự hợp tác quốc tế trong đào tạo
Việc hợp tác quốc tế trong đào tạo cần được coi là điều kiện cần cho quá trình tiếp thu và
ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại, dĩ nhiên phải được tiến hành bằng những hình thức khác nhau,
như việc liên kết các trường đại học có uy tín của thế giới, chúng ta có điều kiện để cập nhật để sớm đưa
vào ứng dụng trong đời sống thực tế ở nước ta. Theo lý thuyết đó, bên cạnh việc đưa người đi đào tạo ở

các nước, cần thiết xác lập cơ sở pháp lý cho các trường đại học có tầm cỡ quốc tế và khu vực liên kết
với các trường đại học ở nước ta.
Nếu chúng ta coi đây là giải pháp quan trọng thì trước hết cần đổi mới các thủ tục pháp lý
nhằm tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho quá trình liên kết này, dù đó là trường công lập hay là ngoài
công lập. Cần nhận thức một thực tế đang diễn ra ở nước ta hiện nay là do nhiều cách nhận thức và xử
lý khác nhau, quá trình này đang diễn ra hết sức chậm chạp và còn nhiều ách tắc. Phải làm sao cho quá
trình liên kết đó được điễn ra một cách đơn giản nhất, thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.
Ba là, nhận thức đúng đắn trong việc coi đào tạo là một hình thức đầu tư phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đi lên CNXH (bổ sung cương lĩnh 1991) đã khởi
động “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” và chính từ cách đặt vấn đề đó, phải xem xét
cơ cấu ngân sách trong đầu tư, trong đó quan tâm thích đáng cho đầu tư giáo dục và đào tạo, theo
hướng nâng dần tỷ trọng ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Mức ngân sách hiện nay dành cho giáo dục
và đào tạo của đất nước ta đã tăng lên nhiều so với trước, chiếm khoảng 20% của ngân sách nhà nước
tức chiếm đến 6,5% GDP (số liệu 2008) nhưng xét về nhiều phương diện mức tăng đó chưa đáp ứng
được nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và còn thua kém xa so với các nước phát triển trên thế giới
và khu vực. Đó chính là nguyên nhân chính làm cho khoảng cách của sự tụt hậu giảm đi một cách hết
sức chậm chạp.
Bốn là, làm sâu sắc hơn chủ trương xã hội hóa giáo dục và đào tạo
Như chúng ta đã biết, chủ trương xã hội hóa giáo dục và đào tạo là một trong những chủ
trương mang tầm chiến lược, không chỉ đáp ứng nhu cầu được đào tạo hết sức to lớn và bức bách mà
còn là tạo ra một kênh dẫn vốn rất quan trọng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào lĩnh vực giáo


dục và đào tạo, để nhà nước có được điều kiện tái cấu trúc ngân sách cho sự nghiệp giáo dục và đào
theo hình thức công lập.
Tuy nhiên, dù là công lập hay ngoài công lập đích cuối cùng vẫn là đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng cao cho đất nước và do vậy, bên cạnh việc quan tâm đến các trường công lập, cần thiết
phải dành sự quan tâm thích đáng đối với sự phát triển giáo dục và đào tạo ở các trường ngoài công lập.
Chỉ tính gọn trong 15 năm qua, trên đất nước ta hàng trăm cơ sở đào tạo ngoài công lập
thuộc nhiều cấp học và ngành đã ra đời, tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc đối với sự nghiệp giáo

dục và đào tạo.
Hàng năm, các cơ sở đào tạo thu hút hàng vạn con em nhân dân lao động thuộc mọi vùng,
miền của đất nước vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và học nghề, trong đó với một số lượng
không nhỏ được thu hút vào các cơ sở đào tạo ngoài công lập và từ đó hàng năm cung ứng cho xã hội
những lao động đã được chuẩn bị nghề nghiệp, bổ sung vào đội ngũ những người lao động được đào
tạo vận hành trong các ngành kinh tế của cả nước, góp phần khắc phục bước đầu tình trạng thiếu nguồn
lao động có chất lượng và là cơ sở quan trọng để họ có thể tiếp tục phát triển và nâng cao trình độ
chuyên môn, thích ứng từng bước cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Những kết quả mà chủ trương xã hội hóa giáo dục mang lại là không thể chối cải. Nó không
những chứng minh trong thực tế tính đúng đắn mang tầm trí tuệ của Đảng và nhà nước, sát hợp với tình
hình thực tế của nước ta, mà còn phù hợp với xu hướng phát triển giáo dục và đào tạo của thế giới và từ
đó, thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, đối với các trường ngoài công lập vẫn đang
đứng trước một cuộc cạnh tranh không bình đẳng với các trường công lập, xuất phát từ các cơ chế,
chính sách và quan trọng hơn là cách nhìn của một sô cán bộ lãnh đạo và một bộ phận dư luận. Nhà
giáo dục Hoàng Xuân Sính – Chủ tịch HĐQT Đại học Thăng Long đã từng thốt lên rằng: “Chẳng có ai khổ
như những nhà đầu tư giáo dục chúng tôi. Ngậm ngùi, đắng cay chúng tôi đã trải qua, đó là quãng
đường mệt mỏi, có những lúc như muốn khuỵu xuống vì khó khăn quá nhiều. Nhưng chúng tôi đã đứng
dậy, vươn mình lên để khẳng định nhiệt huyết của mình, và giờ đây chúng tôi đã phần nào chiến thắng
khó khăn.” Để khắc phục những bất cập và góp phần đưa các trường Đại học phát triển, chắc chắn sẽ có
những đóng góp khác nhau của các nhà khoa học, nhà giáo và các nhà giáo dục khác. Ở đây theo chúng
tôi, để góp phần khắc phục những bất cập đã và đang xảy ra đối với các trường ngoài công lập và đưa vị
thế các trường ngoài công lập ngang tầm với các trường Đại học khác, cần thiết phải khắc phục có hiệu
quả các tồn tại, bất cập và yếu kém đã và đang xảy ra, được thể hiện thông qua thực tế sau đây:
Như chúng ta đã biết, đến nay sự khác nhau cơ bản ban đầu của các trường đại học công
lập và ngoài công lập chủ yếu là sự khác nhau về trình độ ở chuẩn đầu vào. Và sự khác nhau đó không
chi phối hoàn toàn và quyết định đến chất lượng đào tạo để cho ra kết quả cuối cùng ở đầu ra, bởi lẽ mọi


người đều thừa nhận, ngoài chất lượng ở chuẩn đầu vào, chất lượng đào tạo còn phụ thuộc vào một số
yếu tố nữa, đó là, chất lượng giảng dạy của đội ngũ thầy cô giáo, chất lượng giáo trình và sách giáo

khoa, cơ sở vật chất của đào tạo và các liên kết bên trong và bên ngoài của chính quá trình đào tạo đó
v.v… Vì lẽ đó, việc quan tâm khác nhau đến các yếu tố quyết định chất lượng đào tạo khác nhau ở các
cơ sở đào tạo, khoảng cách về chất lượng đào tạo giữa các trường công lập và ngoài công lập cũng sẽ
khác nhau, nghĩa là nó có thể thu hẹp khoảng cách và cũng có thể làm giãn nở khoảng cách đó, điều đó
cũng có nghĩa là không phải cứ là trường ngoài công lập thì chất lượng đầu ra ắt phải kém hơn các
trường công lập mà tùy thuộc vào sự quan tâm đến chất lượng đào tạo. Mặc dù chưa có điều tra số liệu
để nói về chất lượng đào tạo các trường ngoài công lập, nhưng qua các số liệu của một số trường thì tỉ
lệ sinh viên được các tổ chức sản xuất – kinh doanh thu nhận trước khi ra trường khá cao, có trường lên
đến trên 90% (như Lạc Hồng, Văn Lang v.v…) đã chứng minh điều đó.
Trên cơ sở những gì đã đạt được, thiết nghĩ cần phải có những quyết sách phù hợp, sáng
tạo nhằm làm sâu sắc hơn chủ trương xã hội hóa giáo dụng và đào tạo – yếu tố quan trọng góp phần vào
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta.
III. KẾT LUẬN
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với các yếu tố khác tạo nên sự bức
phá để sớm đưa nước ta vượt qua “bẫy” nước có mức thu nhập trung bình là hoài bảo của thế hệ hiện
nay và tương lai. Mặc dù đưa ra những nội dung cơ bản liên quan đến sự bức phá này, tuy nhiên đây là
vấn đề khó và phức tạp. Chính vì vậy, khi bài này khép lại, cũng đồng thời mở ra các hướng nghiên cứu
mới đối với những ai đã và đang từng trăn trở đến vấn đề hệ trọng này – vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao ở nước ta.



×