Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

BỒI DƯỠNG TRỌNG DỤNG và đào tạo NHÂN tài NHỮNG yếu tố QUYẾT ĐỊNH TƯƠNG LAI đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.79 KB, 6 trang )

BỒI DƯỠNG TRỌNG DỤNG VÀ ĐÀO TẠO NHÂN TÀI NHỮNG
YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TƯƠNG LAI ĐẤT NƯỚC
TS.Lê Đình Viên
Chủ tịch HĐQT- Hiệu trưởng Trường ĐH Hinh tế Công nghiệp Long An
Dân tộc Việt Nam ta đã trường tồn và phát triển như ngày nay, một yếu tố có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đó là việc chăm lo đến giáo dục. Từ lâu Ông cha ta đã cho rằng: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia”. Câu nói đó được hiểu là nguyên khí mạnh thì nước mạnh, nguyên khí suy thì nước suy. Chính vì lẽ
đó, việc đào tạo và kén chọn nhân tài trở thành một yêu cầu cho chính sự tồn tại và phát triển của đất
nước và mãi mãi là phương châm xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc ta.
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học và kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng,
thì việc đào tạo nhân tài không chỉ là yêu cầu trước mắt mà chính là yếu tố quyết định đến sự phát triển
và rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với phần còn lại của thế giới. Sở dĩ đặt vấn đề như vậy chính là
xuất phát từ chỗ, tri thức cần được coi là tài nguyên lớn nhất, quan trọng nhất, không có bất kì tài nguyên
nào có thể so sánh được trong thời đại ngày nay. Khi ta nhận thức được rằng tài nguyên thiên nhiên dù
phong phú đến đâu cũng không phải là vô hạn, trong khi đó nguồn lực về nhân tài lại là nguồn lực không
giới hạn.
Trong môi truờng cạnh tranh, với các điều kiện so sánh giống nhau, nước nào biết cách
chăm lo đến giáo dục bồi dưỡng nhân tài, nước đó sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh ưu thế về kinh tế - kỹ
thuật và từ đó phát huy nhanh chóng sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ta có thể lấy
Singapore làm ví dụ: với một đất nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên, nhưng biết khơi dậy và
chăm lo đến việc đào tạo nguồn nhân lực, đến nay từ một đất nước của những “làng chài” đã trở thành
một nước công nghiệp, trong đó có cả các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển hết sức rực rỡ.
Từ thực tế đã diễn ra trên thế giới và khu vực, khẳng định một thực tế là muốn tiến nhanh,
tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, vấn đề có ý nghĩa cấp bách là phải
hình thành và thực thi một chiến lược và sách lược toàn diện về đào tạo nguồn nhân lực trong đó có việc
đào tạo những nhân tài cho đất nước, những người vừa nắm vững và có khả năng tiếp cận với trình độ
khoa học và kỹ thuật hiện đại, vừa có khả năng ứng dụng kiến thức đó vào thực tế đời sống.


Như vậy vấn đề là: Làm sao để có nhân tài, nhân tài được tìm ra ở đâu và để có nhân
tài cần những điều kiện gì?


Trả lời cho những câu hỏi trên đây, chính là cách xử lý và giải đáp một vấn đề vừa có ý
nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay.
Thực tế cho thấy rằng, sự xuất hiện nhân tài của một quốc gia gắn liền với nền giáo dục
quốc gia đó. Từ việc coi giáo dục và đào tạo không chỉ là là nơi đào tạo nhân tài mà còn là nơi phát hiện
nhân tài cho đất nước. Chính vì vậy, việc phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo chính là con
đường tìm ra nhân tài và cung ứng nhân tài, từ đó góp phần hình thành một xã hội trí thức – động lực
phát triển của kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, nhân tài không thể và không phải là những gì bất biến mà cần thiết phải được
đào tạo và huấn luyện liên tục, tạo điều kiện để họ có thể học tập suốt đời, thích ứng với những phát triển
và đổi thay nhanh chóng của khoa học và công nghệ, của tổ chức sản xuất và phương thức sản xuất
trong một nền kinh tế hiện đại và biến đổi không ngừng. Và chính quá trình đó cũng chính là quá trình
phát triển xã hội và con người.
Để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược là đưa nước ta, về cơ bản trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020, trong số những vấn đề cần được quan tâm có vấn đề là thực thi chiến lược
về đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài. Phải có một chiến lược và sách lược đầy đủ và toàn diện
về đào tạo nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo. Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất
nước ta đang rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhiều lĩnh vực như: y tế, khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước…, nhưng trước mắt cần tập trung chú ý vào các lĩnh vực
thuộc khoa học công nghệ, khoa học quản lý kể cả quản lý nhà nước.
Để thực hiện chiến lược vừa nêu trên, trong phạm vi bài viết lần này chúng tôi chỉ đề ra các
vấn đề cốt lõi về lĩnh vực đào tạo sau đây:
1. Về chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo là yếu tố cực kỳ quan trọng, phản ảnh hưỡng trực tiếp đến khả năng làm
việc của người được đào tạo khi ra trường theo một chuẩn tối thiểu cho từng khu vực. Để nâng cao chất


lượng đào tạo, cần hết sức quan tâm đến các yếu tố cơ bản liên quan đến chất lượng đào tạo, đó là
chương trình đào tạo, cơ sở vật chất của đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng viên.
Về chương trình đào tạo

Đối với chúng ta, xuất phát từ một nền kinh tế công ngiệp lạc hậu, có trình độ phát triển kinh
tế ở mức thấp thì việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong hiện tại
mà còn cho tiềm năng phát triển trong tương lai, thích ứng với những phát triển chung của khoa học và
công nghệ. Chính vì vậy cần chú ý nhiều đến khả năng thực hành ứng dụng và tất nhiên không thể coi
nhẹ việc việc giảng dạy và nghiên cứu lý thuyết.
Quan tâm đến chất lượng của đội ngũ giảng dạy
Tục ngữ của dân tộc ta có câu “Không thầy đố mày làm nên” có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xác lập vị trí xứng đáng của người thầy trong sự nghiệp giáo dục và là yếu tố cực kỳ quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên để có một đội ngũ cán bộ giảng dạy đạt nhu cầu, có
khả năng nắm bắt những kiến thức khoa học chuyên ngành hiện đại và đón đầu những phát triển trong
tương lai là điều phải phấn đấu lâu dài, bằng các bước đi thích hợp và theo một lộ trình được hoạch định
ở mỗi Trường đại học.
Chất lượng giáo trình và sách giáo khoa
Cùng với các yếu tố trên, chất lượng giáo trình và sách giáo khoa là một trong những yếu tố
quyết định đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Việc chăm lo để có đủ giáo trình và sách giáo khoa
thuộc tất cả các môn, đáp ứng nhu cầu của sinh viên là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, thường thì ở mỗi
trường Đại học xuất hiện nhiều trường phái khoa học khác nhau và do vậy cần động viên khuyến khích
cán bộ giảng dạy nghiên cứu khoa học, đầu tư công sức để có được những bộ giáo trình và sách giáo
khoa ở mỗi trường đại học và sẽ được xã hội thẩm định và đánh giá. Việc tôn trọng các trường phái khoa
học ở mỗi trường Đại học về từng lĩnh vực khoa học chính là làm phong phú thêm chất lượng của giáo
trình và sách giáo khoa, một công cụ quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức khoa học trong sinh viên.
Đổi mới phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy được xem là sản phẩm của ba yếu tố nói trên, vừa là kết quả của
quá trình đứng trên bục giảng của một người thầy, là tổng hợp tiềm năng, công sức và trí tuệ của chính


họ, quyết định rất lớn đến chất lượng đào tạo – suy nghĩ về câu nói nổi tiếng của Nhà giáo dục học
Thomas Carruther: “Một người thầy giỏi là người càng lúc càng không cần đối với học trò”, đã cho chúng
ta cảm nhận được phương pháp giảng dạy có ý nghĩa to lớn đến như thế nào. Cũng giống như những
sản phẩm trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm” được đào tạo phải là những sản phẩm mà xã hội

đang có nhu cầu, từ đó kéo theo một sự ràng buộc khác thuộc phương pháp giảng dạy là “hãy truyền đạt
những gì mà xã hội đang cần, chứ không chỉ những gì người thầy đang có”.
Cách đặt vấn đề như trên chính là xuất phát từ việc coi sinh viên là người thụ hưởng kết quả
đào tạo, là chủ thể của quá trình đào tạo. Do vậy nhà trường nên khích lệ giảng viên giảng dạy theo
phương pháp tích cực, kích thích tư duy độc lập và sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học,
khuyến khích thầy giáo, cô giáo đánh giá kết quả học tập của sinh viên thông qua thảo luận qua việc làm
nhóm, tổ và đặc biệt cần trân trọng ý kiến cá nhân.
2. Về cơ sở vật chất của đào tạo
Cơ sở vật chất của đào tạo được hiểu rất rộng bao gồm các giảng đường, các phương tiện
giảng dạy hiện đại như: projector, overhead, máy móc và các thiết bị khác: thư viện, nhà ăn, ký túc xá
sinh viên, phòng thí nghiệm...v..v. Chúng ta quan niệm rằng cơ sở vật chất của đào tạo trở thành một
điều kiện cho việc dạy tốt và học tốt, vì nếu không có cơ sở vật chất đủ mạnh sẽ khó nói đến nâng cao
chất lượng đào tạo và càng không thể kỳ vọng ở nó. Thông thường nhà nước sẽ góp phần vào mảng
đầu tư này kể cả ở các cơ sở giáo dục tư thục.
3. Về nghiên cứu khoa học
Học tập và nghiên cứu khoa học gắn bó chặt chẽ với nhau như là hai mặt của một thực thể.
Sẽ không có chất lượng đào tạo tốt nếu không quan tâm đến nghiên cứu khoa học.
Đối với sinh viên trong các trường đại học, nghiên cứu khoa học chính là bước thử nghiệm,
tập dượt dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy cô giáo, nhằm giúp họ có thể độc lập nghiên cứu khoa
học trong tương lai.
Chính vì xác định tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cần thiết phải tổ chức công tác
nghiên cứu khoa học trong sinh viên ngay từ năm học đầu tiên của bậc đại học, tạo thói quen, niềm say
mê trong nghiên cứu khoa học, từ đó từng bước tạo ra được những sản phẩm khoa học có ý nghĩa ứng
dụng và giá trị lý luận. Để tạo điều kiện nghiên cứu khoa học trong sinh viên, ở trường đại học cần phải


phối hợp với các cơ quan quản lý khoa học, kỹ thuật, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học hoặc tham gia
vào các cuộc hội thảo ấy, coi đó là cách tạo môi trường và không khí nghiên cứu khoa học trong các
Trường Đại học.
4. Về hợp tác quôc tế

Sống trong bối cảnh của sự hội nhập ngày càng sâu sắc và toàn diện hiện nay thì việc đào
tạo không thể đơn độc mà phải hợp tác và liên kết ở các mức độ khác với các trường đại học và các viện
nghiên cứu trên thế giới. Từ đó trường có thể mở rộng, không chỉ là tầm nhìn mà còn tạo ra các kênh
thông tin thông thoáng để thu nhận những kiến thức mới. Đặt vấn đề như vậy vì chúng ta coi những
thành tựu về khoa học và kỹ thuật của các nước là tài sản chung của nhân loại, và những nước chậm
phát triển, như nước ta cần phải nhanh chóng tiếp thu, kế thừa trong sự phát triển.
Trên đây là những yếu tố quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, xây
dựng đội ngũ nhân tài cho đất nước. Để đạt được những kỳ vọng trên ngoài những cố gắng của bản thân
các Trường Đại học, cần có những đổi mới quan trọng, trong đó chính sách quản lý vĩ mô như:
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo, bằng cách đẩy mạnh xã hội hóa
giáo dục, mở rộng quy mô và loại hình đào tạo.
- Nhà nước chủ yếu chỉ đào tạo những nhân tài, tinh hoa của đất nước, còn lại nhà nước
nên tiến hành xã hội hóa giáo dục qua việc mở rộng các cơ sở đào tạo, nâng cao vai trò tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở đào tạo qua việc xây dựng các chuẩn tối thiểu bắt buộc. Trách nhiệm xã hội
sẽ được tiến hành thông qua cơ chế thị trường.
Để có thể đạt được điều đó, cần thiết phải sớm xóa bỏ bao cấp trong đào tạo, xóa bỏ sự bất
công trong việc cấp kinh phí theo đầu sinh viên ở các trường công lập, tất cả các sinh viên phải bình
đẳng trong việc thụ hưởng tín dụng sinh viên, nghĩa là bằng cách vay vốn để trang trãi học phí, và nhà
nước chỉ nên bảo trợ cấp học bổng cho sinh viên giỏi, gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn, những gia đình
chính sách.
Bên cạnh việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, cần phải phát huy và tạo điều kiện cho những
sáng kiến, ý tưởng mới được sinh sôi nảy nở, qua việc tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị khoa học để bàn
bạc tham gia, góp ý, phản biện những vấn đề phục vụ thiết thực của cuộc sống.


Với suy nghĩ nói trên, trong phạm vi hẹp của bài viết này, có lẽ là chưa đầy đủ, tuy nhiên dù
sao đây cũng là cách tiếp cận đến một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong việc góp phần nâng cao
việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước, những nhân tài của quốc gia trên bước
đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An với tiêu chí “ Tri hành đạt nhân” sẽ phấn đấu

để góp một phần nhỏ và tích cực vào mục tiêu nêu trên.



×