Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ ÁNH NGỌC

NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI- 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ CỦA LUẬN VĂN

Phạm Thị Ánh Ngọc


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT



BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

BLLĐ

: Bộ luật Lao động

HĐXX

: Hội đồng xét xử

LTCTAND

: Luật tổ chức Tòa án nhân dân

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCTCLĐ


: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ

NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa và nội dung của nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

6

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự

6
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng

dân sự

15
1.1.3. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng

dân sự

17

1.2. Cơ sở khoa học của việc quy định nguyên tắc bảo đảm tranh

19

tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng

19


1.2.2. Bảo đảm bình đẳng, công bằng, dân chủ trong hoạt động

20

dân sự

tố tụng dân sự
1.2.3. Bảo đảm Tòa án ra phán quyết đúng đắn, chính xác

21

1.2.4. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động giải quyết vụ án dân sự

21

1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc đảm bảo tranh tụng với các
nguyên tắc khác
1.3.1. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với

22


nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự

22

1.3.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với
nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự


22

1.3.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với
nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

23

1.3.4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với
nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự

23

1.4. Các yếu tố quyết định thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự

24

1.4.1. Các quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong tố
tụng dân sự

24

1.4.2. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án

24

1.4.3. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng

25


1.4.4. Sự hiểu biết pháp luật của đương sự về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

26

1.4.5. Sự hỗ trợ đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ các cá
nhân, cơ quan, tổ chức

26

1.5. Pháp luật của các nước trên thế giới về tranh tụng trong tố
tụng dân sự
1.5.1. Khái quát chung về tranh tụng theo các mô hình tố tụng

27
27

1.5.2. Quy định về tranh tụng trong pháp luật tố tụng dân sự của
một số nước điển hình

28

1.6. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự có liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng

29

1.6.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

29


1.6.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

33

1.6.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2015

35

1.6.4. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay

36


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN

39

SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG
2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về bảo đảm tranh

39

tụng trong thủ tục sơ thẩm
2.1.1. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự, người tham gia
tố tụng khác trong thủ tục sơ thẩm

39


2.1.2. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh
tụng của các bên đương sự trong thủ tục sơ thẩm

52

2.2. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về bảo đảm tranh
tụng trong thủ tục phúc thẩm

54

2.2.1. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự, người tham gia
tố tụng khác trong thủ tục phúc thẩm

54

2.2.2. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh
tụng của các bên đương sự trong thủ tục phúc thẩm

59

2.3. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về bảo đảm tranh
tụng trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

60

2.3.1. Bảo đảm quyền tranh tụng của các bên đương sự trong thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm

61


2.3.2. Bảo đảm quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh
tụng của các bên đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

63

2.4. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trách nhiệm
của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện tranh tụng trong tố tụng

64

dân sự

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong

69


tố tụng dân sự Việt Nam

69

3.1.1. Những kết quả đã đạt được

69

3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện nguyên tắc bảo


72

đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam

84

3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự
về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam

84

3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam
KẾT LUẬN

86
93


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Nghị quyết số 08-NQ/TƯ
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới: “Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo mọi công dân đều bình

đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên…”1. Trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết
08-NQ/TƯ, ngày 24/05/2005, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ra Nghị quyết 48-NQ/TƯ về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 khẳng định: “Cải cách mạnh
mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ, nhưng thuận tiện... Bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,
lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây
là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”2. Tiếp theo đó, Nghị
quyết 49-NQ/TƯ ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 cũng nhấn mạnh: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... Hoàn thiện cơ chế bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ
trách nhiệm đối với luật sư”. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ tranh
tụng là trọng tâm trong xét xử.
Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử. Đây là nguyên tắc mang tính đột phá nhằm bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp. Vì vậy, BLTTDS 2015 với tư cách là ngành luật
hình thức có nhiệm vụ thể chế hóa quy định Hiến pháp năm 2013 đã quy định bảo
đảm tranh

1 Đảng Cộng Sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2 Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TƯ của Bộ chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.


2


tụng trong xét xử là một nguyên tắc của tố tụng dân sự (TTDS). Tuy nhiên, tranh tụng
và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là gì? Nội dung, ý nghĩa, vai trò của
nguyên tắc này trong điều kiện cải cách tư pháp được thể hiện ra sao? Việc áp dụng
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong thực tiễn Việt Nam như thế nào? Trên cơ
sở nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực trạng
về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS trong mối liên hệ với truyền thống
lập pháp, đặc điểm văn hóa, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế
giới, ta có thể rút ra những giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật TTDS.
Từ đó góp phần bảo đảm tranh tụng trong TTDS, nâng cao chất lượng xét xử, hạn
chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các quyết định, bản án dân sự bị hủy, sửa, góp phần đáp
ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với các lý do nêu trên đây, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam ” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tranh tụng trong quá trình xét xử các vụ án tại Tòa án là biểu hiện tập trung, rõ
nét nhất của tinh thần dân chủ và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Từ trước
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Thu Hà với nội dung: “Tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2002); Luận văn
thạc sỹ luật học của Đoàn Thị Xuân Sơn về “Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân
sự Việt Nam năm 2015”; Đề tài cấp cơ sở tại Trường Đại học Luật Hà Nội “Tranh
tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Thị Thu Hà thực hiện năm 2011… là các công trình nghiên cứu đã xem xét
tranh tụng trong TTDS một cách khái quát và khá toàn diện. Ngoài ra còn có một số
bài viết như:
- “Tranh tụng trong TTDS - một số vấn đề lý luận cơ bản” của Nguyễn Thị Thu
Hà đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 5/2003;

- “Vấn đề tranh tụng trong TTDS” của Nguyễn Công Bình đăng trên tạp chí
Luật học số 6/2003;
- “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của Trần Văn Độ đăng trên tạp chí


3

Khoa học Pháp lý số 4/2004;
- “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTDS” của Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2010;
- Kỷ yếu hội thảo của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày 18/01/2002 về “Một số
nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong
việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý Thẩm phán”…
Tuy nhiên do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của các công trình
này mới chỉ đề cập đến một số nội dung của tranh tụng dưới dạng riêng biệt chủ yếu
là vấn đề lý luận về tranh tụng nên chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống
các vấn đề liên quan về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Ngoài ra, phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi BLTTDS
2015 ra đời, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng chưa được ghi nhận trong pháp luật
thực định, do đó, đề tài nghiên cứu của em bên cạnh việc kế thừa những kết quả
nghiên cứu trước đó thì đã có những điểm mới và khác biệt so với các đề tài trước
cùng về nội dung này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng, phân tích và đánh giá về thực trạng pháp luật, thực tiễn thi
hành pháp luật về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng. Từ đó đề xuất những kiến nghị cụ
thể sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong
TTDS.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS
như: Khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong TTDS, mối liên hệ giữa nguyên tắc đảm bảo tranh tụng với các nguyên tắc
khác, các yếu tố quyết định thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS và
lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTDS có liên quan đến
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng;
- Phân tích đánh giá nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng theo quy định
của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành và thực trạng áp dụng nguyên tắc đó trong
thực tế;


4

- Trên cơ sở thực trạng, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
TTDS về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong TTDS; định hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta về
tranh tụng; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng; thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại các Tòa án Việt Nam trong
những năm gần đây.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là vấn đề lớn, có nhiều nội dung
khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét giải quyết hết
mọi vấn đề. Do đó, luận văn chỉ chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết VADS tại Tòa án. Còn nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết VADS theo thủ tục rút gọn và thủ tục giải
quyết việc dân sự sẽ được nghiên cứu ở công trình tiếp theo.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử),
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật và cải
cách tư pháp.
Đồng thời, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp lịch sử… để
làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của đề tài.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Đây là công trình nghiên cứu về bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới
góc độ là một nguyên tắc pháp luật nên có những điểm mới sau:
- Bổ sung, làm rõ và góp phần hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, nội dung
của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
- Trong bối cảnh BLTTDS 2015 mới ra đời, vừa có hiệu lực pháp luật, đề tài
sẽ làm rõ một số nội dung liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS
giúp cho quá trình áp dụng luật và hướng dẫn luật trong thời gian tới.


5
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong TTDS Việt Nam.
- Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng.
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự Việt Nam và một số kiến nghị.



6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Tranh tụng ra đời cùng với sự ra đời của Tòa án, là sản phẩm của nền tư pháp
dân chủ. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì loại hình tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm
nhất ở châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án nhà nước. Đầu tiên được áp dụng
tại Hy Lạp cổ đại, sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên
tục”3. Nguồn gốc ra đời của tranh tụng là từ thực tiễn giải quyết tranh chấp trong xã
hội du mục. Theo đó, thay cho việc sử dụng sức mạnh để tranh giành quyền lợi, thay
vì sử dụng vũ lực, các bên sử dụng biện hộ, biện lý, trạng sư, luật sư để đưa ra lý lẽ
nhằm giành quyền lợi cho mình4. Cùng thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa,
phát triển và từng bước được khẳng định và đến nay nó được áp dụng hầu hết ở các
nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật tố tụng nói chung, TTDS nói riêng thì
vẫn chưa đưa ra được cách hiểu và nhận thức thống nhất về tranh tụng. Cụm từ “tranh
tụng” được xuất hiện lần đầu tiên tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của
Bộ chính trị. Theo đó, Nghị quyết đã nhấn mạnh định hướng mới trong hoạt động của
các cơ quan tư pháp là “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để
ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn
pháp luật quy định”5. Để có thể thực hiện được nhiệm vụ này thì việc hiểu chính xác


3

Xem: Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh
nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý Thẩm phán, Hà Nội, tr. 2.
4 Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 8/2015), tr. 14
5 Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.


7

về khái niệm, ý nghĩa và nội dung của tranh tụng rất quan trọng không chỉ về mặt lý
luận và thực tiễn mà còn góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS, đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta.
Trước hết về khái niệm, tranh tụng có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
như sau:
- Về mặt lập pháp: Qua nghiên cứu toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật, ta có
thể nhận thấy khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận hoặc giải thích
trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào của nước ta từ năm 1945 đến nay.
- Về mặt ngôn ngữ: Theo từ điển Hán Việt thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ,
cãi nhau để tranh lấy phải”6 còn theo từ điển tiếng Việt thì tranh tụng có nghĩa là
“kiện tụng”. Theo Từ điển Luật học năm 2006, khái niệm tranh tụng được hiểu
như sau: “tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia
tố tụng, có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo
vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của
phía đối lập”7. Theo cách giải thích này thì tranh tụng chính là quá trình giải quyết
VADS, theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Khái niệm trên mặc dù đã thể

hiện một số đặc trưng cơ bản của tranh tụng nhưng mới chỉ nhìn nhận tranh tụng là
những hoạt động riêng lẻ của các chủ thể là các bên tham gia tố tụng mà không
nhìn nhận tranh tụng là hoạt động được thực hiện bởi các bên tham gia tranh tụng,
thiếu đi một chủ thể rất quan trọng là Tòa án.
- Về mặt lý luận: Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng trong
TTDS.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp
giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo đó
các bên đương sự xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng
minh, biện luận cho yêu cầu của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và
kết quả của quá trình này được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”8.
6 Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt nam Bộ giáo dục và đào tạo (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn
hóa - thông tin, Hà Nội, tr. 621.
7 Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807, 808.
8 Trịnh Văn Chung (2016), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học,
Hà Nội, tr. 7.


8

Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là việc các bên đương sự
đưa ra, trao đổi về chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận đối lập, tranh luận với
nhau dựa trên những thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình trước sự giám sát của Tòa án. Sự tranh tụng chứa đựng trong chính
hành vi khởi kiện”9.
Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, nhận thấy mỗi quan điểm đều có những ưu
điểm hoặc hạn chế nhất định. Nếu hiểu tranh tụng theo quan điểm thứ nhất thì chưa
cụ thể vì mới chỉ coi tranh tụng là một phương thức (hay phương pháp) tố tụng
để đương sự bảo vệ quyền lợi của mình, tòa án xác định sự thật khách quan của vụ
án. Theo cách hiểu này thì chưa xác định được những đặc điểm của tranh tụng để

phân biệt với các phương pháp tố tụng khác. Nếu hiểu tranh tụng theo quan điểm
thứ hai đã chỉ ra được những đặc điểm của tranh tụng nhưng chưa nêu được đầy
đủ vai trò của Tòa án. Theo quan điểm này Tòa án chỉ có vai trò giám sát quá trình
tranh tụng. Trong tranh tụng, Tòa án có vai trò quan trọng như là trọng tài giải quyết
vụ án, điều khiển quá trình tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra phán
quyết.
Tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ giai đoạn khởi kiện của nguyên đơn
và diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Toà án. Khi đó, việc thực hiện
tranh luận tại phiên toà chỉ là một phần của tranh tụng. Trong quá trình giải quyết các
VADS, thì quá trình chuẩn bị cho vụ kiện, thu thập, trao đổi chứng cứ do các bên
đương sự và luật sư của họ thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thu hẹp các nội
dung tranh chấp. Tranh tụng không phải là bước hay giai đoạn tố tụng mà tranh tụng
cần phải được hiểu là một quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Trong đó
các bên đương sự liên tục thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết để thu thập chứng
cứ, cung cấp chứng cứ, thông tin cho nhau, qua đó lập luận nhằm chứng minh và bảo
vệ quyền lợi của mình, đồng thời bác bỏ yêu cầu của bên kia. Tuy nhiên, tranh tụng
chỉ có ý nghĩa khi toà án dựa vào kết quả tranh tụng để ra phán quyết, phán quyết
phải phản ánh đúng thực tế nội dung vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích của các đương
sự.
Ở đây cũng cần phân biệt khái niệm tranh tụng và khái niệm tranh luận. Tranh
9 Đoàn Thị Xuân Sơn (2015), Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học,
Hà Nội,tr. 6.


9

tụng và tranh luận là hai khái niệm khác nhau, tranh tụng là một quá trình liên tục
từ khi khởi kiện VADS cho đến khi có phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án
đó, còn tranh luận chỉ là một phần của phiên toà dân sự, nó là sự biểu hiện tập trung
nhất của tranh tụng. Do vậy, không nên đồng nhất hoặc nhầm lẫn hai khái niệm này

với nhau. Tuy nhiên, tranh tụng không hoàn toàn đồng nhất với chứng minh.
“Chứng minh trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định
của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự”. Như vậy,
có thể hiểu hoạt động chứng minh có sự tham gia của rất nhiều các chủ thể, trong đó
Tòa án là một chủ thể chứng minh có trách nhiệm chứng minh các bản án, quyết định
mà mình đưa ra là có căn cứ và hợp pháp. Trong khi đó, trong quá trình tranh tụng
Tòa án là người trọng tài, người điều khiển quá trình tranh tụng, đảm bảo quá trình
tranh tụng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật TTDS và căn cứ vào kết
quả tranh tụng để ra phán quyết giải quyết vụ án. Ngoài ra, hoạt động chứng minh
có thể diễn ra một cách đơn chiều, chỉ tồn tại một mối quan hệ giữa các đương sự với
Tòa án khi đương sự cung cấp các chứng cứ, tài liệu cho Tòa án để chứng minh
cho yêu cầu, phản yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình là đúng và Tòa án tiếp
nhận các chứng cứ, tài liệu đó. Còn “Tranh tụng phát sinh ra hai mối quan hệ: giữa
các đương sự tranh nại với nhau, và giữa các đương sự và Quốc gia, mà đại diện
là Tòa án có thẩm quyền”. Hay nói cách khác, quá trình tranh tụng luôn luôn có sự
tham gia của ba chủ thể: hai bên đương sự và Tòa án, trong đó hai bên đương sự đối
tụng với nhau theo các quy định của pháp luật TTDS và Tòa án là người thứ ba, vô tư,
khách quan để phân xử tranh chấp giữa các bên đương sự10.
Từ những phân tích trên thì khái niệm tranh tụng trong TTDS cần được hiểu
thống nhất như sau: Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ
án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cho đến khi tòa án ra quyết định
giải quyết VADS. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển của tòa
án được đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh
cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp
luật TTDS quy
10 Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tranh tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu của cải
cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 2010 - 09/ĐHL - HN, Hà Nội, tr. 4.



10

định. Tòa án ra phán quyết VADS căn cứ vào kết quả tranh tụng của các chủ thể
tranh tụng11.
Từ khái niệm tranh tụng nêu trên, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của tranh
tụng trong TTDS như sau:
- Bản chất của tranh tụng là việc các chủ thể tranh tụng được đưa ra, trao đổi
các chứng cứ, các căn cứ pháp lí, lập luận, đối đáp lại nhau, tranh luận với nhau trên
cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi của mình dưới
sự giám sát của Tòa án.
Các bên đương sự trong VADS luôn bình đẳng với nhau trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, do đó để làm rõ sự thật khách quan của VADS, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như để Tòa án có căn cứ để giải quyết
VADS thì các bên phải được đưa ra, các chứng cứ, các căn cứ pháp lí, lập luận, đối
đáp lại nhau, tranh luận với nhau. Đúng như Ông Nguyễn Huy Đẩu đã nhận xét:
“nguyên tắc cho hai người đi kiện đối tụng nhau trước Thẩm phán là một yếu tố an
toàn cho họ và cũng là một điều kiện khiến cho tòa hiểu rõ nội tình” (12).
- Các bên đương sự là chủ thể tranh tụng và là người giữ vai trò chủ động, quyết
định kết quả tranh tụng
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì các đương sự
phải có trách nhiệm chứng minh cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác
thấy yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp lý. Để thực hiện được nghĩa vụ chứng minh
trong TTDS một mặt các đương sự phải được chủ động trong việc đưa ra yêu cầu,
các chứng cứ, lý lẽ và căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Mặt khác, trong suốt quá trình tố tụng, các bên đương sự phải được bình đẳng với
nhau trong việc tham gia tố tụng, có quyền trao đổi cho nhau những căn cứ về mặt
thực tiễn và pháp lý, tranh luận với nhau về các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án
và căn cứ để giải quyết vụ án.
Như vậy có thể thấy, đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung tâm
trong quá trình tranh tụng. Tuy nhiên trên thực tế có những đương sự không có

hoặc khó có khả năng để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như người
chưa
11

Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 8.
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ tư pháp, tr. 377.

(12).


11

thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên việc tranh tụng của các đương sự này sẽ
do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là người gúp đỡ đương sự về mặt
pháp lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Người bảo vệ có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định chứ không bị ràng buộc vởi quyền và nghĩa vụ của
đương sự như người đại diện. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là
người có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng
nên có thể giúp cho các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, nhất là trong việc đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận. Không
những thế, ý kiến tham gia tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho Tòa án xác
định được sự thật khách quan của vụ án13.
Ở Việt nam, với tư cách là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS thực hiện
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
cho việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật. Như vậy, để thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong các vụ việc dân sự thì VKS là cơ quan tiến

hành tố tụng và kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong TTDS. Tuy nhiên,
trong trường hợp khi VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm thì để chứng minh kháng nghị của mình là đúng thì VKS vẫn trở thành một chủ
thể tranh tụng. Có thể nói rằng, VKS của Việt Nam có vị trí rất đặc biệt trong
TTDS.
- Trong quá trình tranh tụng, Tòa án có vai trò quan trọng như là trọng tài
giải quyết vụ án, điều khiển quá trình tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để
ra phán quyết
Để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong tố tụng, đòi hỏi Tòa án phải khách quan, vô tư và công minh. Tòa án có vai
trò quyết định trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Thẩm phán thay mặt cho
quyền lực của Nhà nước là người trọng tài “cầm cân công lý”. Tòa án giữ vai trò
trung gian, điều khiển quá trình tranh tụng của các bên nhằm đảm bảo quyền tranh
tụng của các
13

Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 11.


12

bên đương sự cũng như đảm bảo cho quá trình tranh tụng được thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật TTDS.
Tòa án không chủ động thu thập chứng cứ trừ một số trường hợp theo quy định
của pháp luật để đảm bảo sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân xử vụ
án, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự cũng như phát huy tính tích cực, chủ
động của các đương sự. Tòa án chỉ là người đánh giá, đối chiếu và kiểm tra chứng
cứ, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp đối với vụ án cần giải quyết và ra bản án,
quyết định trong đó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự dựa trên kết
quả tranh tụng.

- Phạm vi tranh tụng là giới hạn những vấn đề mà chủ thể tranh tụng phải làm
rõ bằng các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập luận
Trong TTDS, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, được biết và ghi chép, sao chụp
các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. Do đó, đương
sự phía bên này nếu chấp nhận yêu cầu và nhận thấy yêu cầu, chứng cứ mà đương sự
phía bên kia cung cấp là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở và họ thừa nhận chứng cứ đó
thì sẽ giải phóng cho đương sự phía bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh.
Ngược lại, nếu những yêu cầu mà các bên hoặc một bên không chấp nhận và
những thông tin, tài liệu mà các bên không đồng ý hoặc một bên đương sự
không đồng ý là chứng cứ thì khi phiên tòa diễn ra chỉ tập trung vào những vấn đề
các bên hoặc một bên không công nhận. Những vấn đề khác nếu các bên không từ
chối thì coi như đã giải quyết và những chứng cứ nào các bên đương sự đã thừa nhận
thì cũng không tranh luận nữa. Do đó, các chủ thể tranh tụng chỉ tranh luận với
nhau những vấn đề mà các bên đương sự có những yêu cầu, chứng cứ, chứng minh
không thống nhất.
- Quá trình tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành một cách công khai, trực
tiếp và bằng lời nói
Tại phiên tòa, các bên đương sự được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra
các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý bằng lời nói. Việc các bên đương sự trực tiếp,
trình bày, tranh luận bằng lời nói là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính khách
quan, trung thực trong lời khai của họ đồng thời giúp HĐXX giải quyết các yêu cầu


13

của đương sự, ra các quyết định chính xác nhất về việc giải quyết vụ án. Những chứng
cứ tài liệu nào không được trực tiếp thẩm tra, công khai tại phiên tòa đều không được
dùng làm căn cứ cho các quyết định của tòa án.
- Các hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng phải

tuân theo trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định
Pháp luật TTDS và hoạt động TTDS của các chủ thể tham gia tố tụng là hai
mặt không thể tách rời của một quy trình tố tụng. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng phải tuân theo đúng trình tự,
thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định nhằm mục đích để cho việc điều hành công
lý được phân minh, có hiệu quả và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cá các
nhân, tổ chức, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng.
1.1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án thì các bên đương sự
phải thực hiện được quyền tranh tụng của mình trong TTDS thông qua việc thực hiện
các quyền TTDS như đã phân tích ở phần 1.1.1.1. Tuy vậy, TTDS là một quá trình
phức tạp cho nên không phải trong trường hợp nào các bên đương sự cũng có thể dễ
dàng thực hiện được quyền tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bởi vì, “đối với những người tham gia vào các vụ kiện, chữ “tố tụng” nhiều khi không
gợi lên ý niệm tự do cá nhân, sự thực hiện dễ dàng các quyền lợi, mà trái lại sự phiền
toái, hao tiền, tốn của, mất thời giờ, lao tâm mệt trí”14. Trên thực tế, việc thực hiện
quyền tranh tụng của đương sự phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như khả năng tham gia
TTDS của đương sự, sự hỗ trợ của những người khác đối với việc tham gia tố tụng
của đương sự và việc tiến hành giải quyết VADS của Toà án v.v... Thông thường, để
thực hiện được quyền tranh tụng của mình thì đương sự phải có một sự hiểu biết pháp
luật nhất định, có năng lực hành vi TTDS và trong trường hợp cần thiết họ phải nhận
được sự hỗ trợ pháp lý từ phía luật sư hay người khác. Ngoài ra, việc thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự phải thông qua Toà án cho nên để đương sự thực hiện được
quyền tranh tụng của họ thì Toà án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật
TTDS khi việc giải quyết VADS đồng thời phải giúp đỡ, tạo những điều kiện cần
thiết cho đương sự thực hiện được quyền tranh tụng của họ. Vì vậy, để đương sự bảo

14

Nguyễn Mạnh Bách (1999), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai, tr. 202.



14

vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án thì việc bảo đảm cho các đương sự thực
hiện quyền tranh tụng là rất cần thiết.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “bảo đảm” là “làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”15. Trong TTDS, việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự chủ yếu được thực hiện thông qua việc thực hiện quyền
tranh tụng của các chủ thể. Bởi vậy, bảo đảm tranh tụng trong TTDS là bảo đảm được
các điều kiện cần thiết làm cho các chủ thể tranh tụng chắc chắn thực hiện được
quyền tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì nguyên
tắc của pháp luật là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm,
cấu thành một bộ phận quan trọng nhất, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt, thấm nhuần
toàn bộ nội dung cũng như hình thức của hệ thống pháp luật16. Các nguyên tắc là cơ
sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Do đó, bất kỳ một hoạt
động nào muốn đi đúng hướng và đạt kết quả đòi hỏi hoạt động đó phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động tư pháp với
nhiệm vụ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án tiến hành được nhanh chóng và đúng
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng. Vì vậy, hoạt động TTDS được tiến hành theo những
trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định trên cơ sở những nguyên tắc
nhất định. Trong khoa học pháp lý, “nguyên tắc của TTDS được xác định là những
tư tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng của TTDS, được quy định trong pháp luật
làm nền tảng cho các hoạt động TTDS”17. Hay nói cách khác nguyên tắc của TTDS
là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, định hướng chi phối tất cả các giai đoạn
hoặc một số giai đoạn nhất định của quá trình TTDS. Những nguyên tắc này được thể
hiện dưới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật TTDS.

Trong lịch sử pháp luật tố tụng nhiều nước trên thế giới, tranh tụng luôn được
xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản có vai trò chỉ đạo mọi quy định pháp

15

Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 38.
Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 13.
17 Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 12.
16


15

luật tố tụng nhằm chứng minh sự thật của vụ án. Nguyên tắc tranh tụng được pháp
luật tố tụng các nước ghi nhận với nội dung và phạm vi áp dụng khác nhau. Ở Việt
Nam, tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong
cải cách tư pháp hiện nay và đã được xác định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2001 của Bộ chính trị và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Khoản 3 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý…”. Để đạt
được mục tiêu bảo vệ công lý của TAND, việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử là một trong những công cụ, biện pháp bảo đảm xét xử công bằng. Từ
đó tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến định được chính thức ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” (khoản
5 Điều 103 Hiến pháp 2013).
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong TTDS, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc xác
định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm được các điều kiện cần thiết làm
cho các chủ thể tranh tụng thực hiện được quyền tranh tụng trong suốt quá trình

TTDS, bao gồm việc đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý
để chứng minh, biện luận cho yêu cầu của đương sự trước Tòa án. Tòa án căn cứ
vào kết quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết VADS.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Ý nghĩa về chính trị - xã hội
- Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự là thực hiện dân chủ, công bằng
trong tố tụng dân sự
Một trong những mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, Đảng ta coi “phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”18. Vì thực hiện
dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội là nhằm phát huy trí tuệ, quyền làm chủ
của nhân dân, khơi dậy được tiềm năng sáng tạo của con người, làm cho mọi người
đều tích cực tham gia vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong TTDS, thực hiện
18

Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


16

dân chủ là bảo đảm quyền tranh tụng của các bên đương sự. Theo đó, các đương sự,
người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các lý lẽ, căn cứ pháp lí đối
đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan của VADS. Tòa án là cơ quan tiến hành tố
tụng đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng của các bên để giải quyết VADS một
cách khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
- Bảo đảm tranh tụng trong TTDS là Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực TTDS
Ngày 28/11/2013 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII , kỳ họp thứ

6 đã thông qua Hiến pháp mới, một trong những thay đổi lớn nhất của việc sửa đổi
Hiến pháp này chính là chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Theo đó, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
đề cao, thể hiện nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc trong việc thể chế hóa quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu phát triển. Cụ thể: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”19.
Như vậy, Nhà nước luôn ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Nhà nước không cho phép bất cứ một chủ thể nào xâm phạm bất
hợp pháp quyền lợi của người khác. Pháp luật là chuẩn mực của sự công bằng, là
phương tiện thể hiện sự thương thích giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo chính là phương thức để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các đương sự và cũng góp phần bảo vệ quyền con người, bảo đảm pháp chế
quốc gia.
Tóm lại, các quan điểm về bảo vệ quyền con người, quyền công dân không chỉ
được quy định trong Hiến pháp 2013 mà còn là nội dung xuyên suốt, nhất quán và
được cụ thể hóa trong tất cả các văn bản pháp luật của nước ta nói chung và TTDS
nói riêng.
- Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự còn góp phần nâng cao ý thức pháp
luật của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng

19

Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011).


17

dân sự nói riêng

Khi giải quyết tranh chấp, để bảo đảm cho các bên thực hiện được quyền tranh
tụng, Tòa án phải giải thích cho các đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ;
quyền và nghĩa vụ người đại diện của đương sự, quyền và nghĩa người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của đương sự. Vì vậy các đương sự được giáo dục các kiến thức pháp
luật, giúp nâng cao ý thức của người dân nói chung và củng cố lòng tin vào công lý,
vào pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
- Bảo đảm tranh tụng đã tạo ra cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án
Với việc giải quyết VADS theo phương thức tranh tụng, các đương sự có điều
kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của mình cũng như đối đáp, tranh luận với đương sự phía bên kia để
làm rõ sự thật khách quan của VADS. Hơn nữa tranh tụng cũng buộc các đương sự
phải nỗ lực, tích cực hơn nữa trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là cơ sở
để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để thu thập
chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp và bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.
- Bảo đảm tranh tụng góp phần đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án
tuyên là có căn cứ và hợp pháp
Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đường sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình mà qua quá trình tranh tụng Tòa án xác định được sự thật khách
quan của VADS. Trên cơ sở đó tòa án giải quyết được yêu cầu của các đương sự, xác
định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Khi các
đương sự thực hiện đầy đủ các quyền TTDS của mình thì tình tiết vụ án được làm
sáng tỏ, Tòa án có đầy đủ các chứng cứ để giải quyết VADS một cách chính xác,
công minh và đúng pháp luật.
1.1.3. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Như đã phân tích ở mục 1.1.1 thì tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ
khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực



18

pháp luật. Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện, chuẩn
bị xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải quyết vụ án,
đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà cả khi vụ án được
xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Biểu hiện rõ nét nhất của tranh
tụng được tiến hành tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Theo đó, các bên
đương sự dưới sự điều khiển của HĐXX trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ,
tranh luận và đối đáp với nhau về chứng cứ, căn cứ pháp lí, lý lẽ, lập luận để chứng
minh yêu cầu, phản yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên
kia là có căn cứ và hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự,
HĐXX ra phán quyết về việc giải quyết VADS. Do đó, nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong TTDS bao gồm những nội dung sau:
- Các chủ thể tranh tụng có quyền tranh tụng trong suốt quá trình Tòa án giải
quyết VADS kể từ khi đương sự có yêu cầu và Tòa án thụ lí cho đến khi xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Theo đó, các bên đương sự có quyền đưa ra yêu
cầu; có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp
cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc
các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu
huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề nghị
Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ củ vụ việc mà tự mình không thể thực
hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ
đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu
giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu
tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản; có quyền
được biết, trao đổi và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất

trình hoặc do Tòa án thu thập; có quyền tham gia phiên tòa; có quyền trình bày về
các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền hỏi những người tham
gia tố tụng khác; tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận của mình
về các tình tiết của vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự khác,
đưa ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án; được đối chất với nhau hoặc
người


×