Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.77 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

LÃ THỊ VÂN ANH

NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Phương Thảo

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên
bản của luận văn.

Hà Nội, ngày 5 tháng 8 năm 2016
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn



Học viên

TS. Trần Phương Thảo

Lã Thị Vân Anh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Người tiến hành tố tụng và việc thay
đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự”, tôi đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của nhiều thầy, cô, cơ quan, bạn bè.
Với sự biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin được gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Tiến
sĩ Trần Phương Thảo – Giảng viên bộ môn Luật Tố tụng dân sự, Trường Đại
học Luật Hà Nội là người đã theo dõi, hướng dẫn sát sao, giúp tôi có những
định hướng, kỹ năng nghiên cứu cần thiết trong quá trình triển khai, hoàn thiện
đề tài.
Tôi xin gửi lời tri ân tới các thầy, cô Khoa pháp luật Dân sự nói chung và
các thầy, cô bộ môn Luật Tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội nói
riêng đã trang bị cho tôi những kiến thức nền tảng và chuyên sâu trong thời
gian học tập vừa qua tại Trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan, đơn vị đã cung cấp cho tôi các tài
liệu, báo cáo để tôi được tìm hiểu thực tiễn, qua đó đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện sự hạn chế, khó khăn trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng khi
nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi
trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.


MỤC LỤC


1

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự

6

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự
1.1.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng dân sự

6
12

1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành
tố tụng trong tố tụng dân sự

15

1.2.1. Khái niệm việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự

15


1.2.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự

16

1.3. Sơ lược quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

19

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

19

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

22

1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

23

Kết luận chương 1

25

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

26
2.1. Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
2.1.1. Người tiến hành tố tụng của Tòa án nhân dân

26
26


2.1.2. Người tiến hành tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân

42

2.2. Việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

53

2.2.1. Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

53

2.2.2. Thẩm quyền và thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự

57

Kết luận chương 2

60

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN

THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
61
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
61
3.1.1. Những kết quả đã đạt được

61

3.1.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về người tiến hành tố tụng
và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

68

3.1.3. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về người tiến
hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự 70
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật
về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự

77

3.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về người tiến hành tố tụng
và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

77

3.2.2. Kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về người tiến hành tố

tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
80
Kết luận chương 3

83

KẾT LUẬN

85


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

CHXHCN

:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng


HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HĐTP TANDTC

:

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

HTND

:

Hội thẩm nhân dân

LSĐBS

:

Luật sửa đổi, bổ sung


LTCTAND

:

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

LTCVKSND

:

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

NTHTT

:

Người tiến hành tố tụng

Nxb

:

Nhà xuất bản

TAND

:

Tòa án nhân dân


TAQS

:

Tòa án quân sự

Tr

:

Trang

UBTVQH

:

Ủy ban thường vụ Quốc hội

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VVDS

:

Vụ việc dân sự



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Để thực hiện mục tiêu này, việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và
đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp là điều cần thiết. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tiếp đó, ngày
02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Việc ban hành liên tiếp hai Nghị quyết thể hiện rõ nỗ lực
của Đảng và Nhà nước ta trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và đẩy mạnh
công tác cải cách tư pháp. Trong đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã ghi nhận việc đổi
mới về tổ chức phiên tòa xét xử; xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử; coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Đối với hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng, người tiến
hành tố tụng là những cá nhân có vai trò quan trọng, cốt lõi của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng. Họ được Nhà nước trao cho các quyền riêng biệt, nhằm thực hiện các
hoạt động tố tụng để giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm cho quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và nâng cao pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề người tiến hành tố tụng, việc thay đổi người
tiến hành tố tụng đã được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn khác.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự trong những năm qua cho thấy
vẫn còn hạn chế liên quan đến người tiến hành tố tụng, việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Những hạn chế đó phần nào làm ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và việc bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của đương sự nói riêng. Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên. Ngày 25/11/2015,


2

Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại
kỳ họp thứ 10, bao gồm 42 chương, 517 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016 (riêng các quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 517 Bộ luật này thì
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017). Trong Bộ luật này, nhiều quy định về
người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung.
Trong bối cảnh nêu trên, việc nghiên cứu về “Người tiến hành tố tụng và việc
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” có ý nghĩa khoa học trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của
người tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng; đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến
vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự như:
- Luận văn “Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự” của tác giả Bùi Thị Huyền (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001);
- Khóa luận “Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” của tác giả Triệu
Hoàng Lan Hương (Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2011);
- Luận văn “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố

tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại
Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013);
Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến
một số nội dung trong vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự như:
- Bài viết “Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng” của tác giả
Bùi Thị Huyền, Tạp chí Luật học, số Đặc san góp ý sự thảo Bộ luật tố tụng dân sự
4/2004;


3

- Bài viết “Những quy định mới của chế định cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự”
của tác giả Nguyễn Công Bình, Tạp chí Luật học, số 6/2004;
- Bài viết “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân” của tác giả Trần Anh Tuấn và Hoàng Văn Tùng, Tòa án nhân dân tối
cao, số 5/2016.
Trong những công trình nghiên cứu và bài viết kể trên, việc nghiên cứu về
vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự đa phần mới chỉ đề cập một cách gián tiếp, chỉ tập trung vào người tiến
hành tố tụng với tư cách Thẩm phán. Mặt khác, chưa có nhiều bài viết đi sâu vào
vấn đề thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, chưa làm rõ các quy
định của pháp luật cũng như thực trạng việc thay đổi người tiến hành tố tụng trên
thực tế. Trước tình hình này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” để nghiên cứu cho luận
văn của mình. Luận văn này sẽ nghiên cứu toàn diện, từ các quy định pháp luật đến
việc áp dụng các quy định trên thực tế về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kiến thức lý luận cơ bản về người tiến hành tố
tụng, việc thay đổi người tiến hành tố tụng; lịch sử hình thành và phát triển của các
quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành
tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ. Tập trung nghiên cứu các
quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong những năm
gần đây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự thì người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự bao gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Bộ luật tố tụng dân sự


4

2015 bổ sung thêm Thẩm tra viên, Kiểm tra viên vào nhóm người tiến hành tố tụng.
Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu về người tiến hành tố
tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng ở giai đoạn giải quyết vụ việc dân sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về người tiến hành
tố tụng, việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Phân tích các
quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành
tố tụng trong tố tụng dân sự. Đồng thời, có sự so sánh, đối chiếu với những quy
định sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Trình bày thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự những năm gần đây. Qua đó, đề ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật tố tụng
dân sự về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài

Bước đầu nghiên cứu, câu hỏi đặt ra là người tiến hành tố tụng là ai? Thế nào
là việc thay đổi người tiến hành tố tụng? Vấn đề người tiến hành tố tụng, thay đổi
người tiến hành tố tụng qua từng thời kỳ đã được pháp luật quy định như thế nào?
Sau đó, luận văn tiếp tục giải quyết các câu hỏi: Pháp luật tố tụng dân sự hiện nay
quy định như thế nào về người tiến hành tố tụng, thay đổi người tiến hành tố tụng?
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có những sửa đổi, bổ sung gì về vấn đề này? Những ưu
điểm, hạn chế của sự sửa đổi, bổ sung đó là gì?
Trên cơ sở giải quyết các vấn đề trên, câu hỏi nghiên cứu cuối cùng đặt ra là
thực tiễn thực hiện pháp luật về người tiến hành tố tụng, thay đổi người tiến hành tố
tụng trong những năm qua đạt được những kết quả và còn những hạn chế nào? Để
khắc phục những hạn chế đó cần những giải pháp cụ thể nào?
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành được sử dụng như phương
pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp… nhằm làm sáng tỏ những


5

nội dung được nghiên cứu trong luận văn. Luận văn còn sử dụng các kết quả thống
kê của ngành Tòa án và Viện kiểm sát trong những năm gần đây để đưa ra những
phân tích về thực trạng áp dụng pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự trên thực tế.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện về người tiến hành tố
tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Do vậy, kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hữu
quan trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về người tiến hành tố tụng và

việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Luận văn cũng có thể sử
dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Luật
tố tụng dân sự tại các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và trong công tác xét xử của
cán bộ Tòa án, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực
hiện pháp luật tố tụng dân sự về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Để xây dựng một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về người tiến hành tố tụng
(NTHTT) trong tố tụng dân sự (TTDS), chúng ta phải phân tích từng thuật ngữ cụ
thể, cũng như tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học

Luật TTDS khác nhau.
Trong Hán Việt từ điển, học giả Đào Duy Anh có giải thích “tố tụng” là việc
thưa kiện1. Theo Từ điển Tiếng Việt, “tố tụng” cũng được hiểu là trình tự, thủ tục
được tiến hành theo quy định của pháp luật2. Đối với thuật ngữ “dân sự”, hiểu theo
nghĩa thông thường đó là các việc có liên quan đến dân3; hiểu theo nghĩa pháp lý
“dân sự” là các vụ việc dân sự (VVDS) theo nghĩa rộng, tức là các vụ việc phát sinh
từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao
động.
Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, tác giả Nguyễn Công Bình
cũng đã khẳng định “tố tụng dân sự” là trình tự do pháp luật quy định cho việc giải
quyết VVDS và thi hành án dân sự4.
Quan hệ pháp luật TTDS là quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát và đương sự,
người đại diện của đương sự, cùng những cá nhân, tổ chức khác có liên quan phát
sinh trong quá trình giải quyết VVDS. Trong TTDS có những chủ thể được sử dụng
1

Đào Duy Anh (1957), Hán Việt Từ điển, Trường Thi xuất bản, Sài Gòn, tr. 302, trích trong tài liệu: Hội đồng
phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương (2013), Pháp luật về tố tụng dân sự, Đặc san tuyên truyền pháp
luật, Hà Nội, tr. 3.
2
Hoàng Phê (Chủ biên, 2003), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, Hà
Nội – Đà Nẵng, tr. 1008.
3
Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 246.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.10.


7


quyền lực nhà nước và ngược lại, có những chủ thể phải chấp hành quyền lực nhà
nước. Vì vậy, pháp luật TTDS đã có quy định pháp lý cho hai nhóm chủ thể khác
nhau, đó là NTHTT và người tham gia tố tụng. NTHTT là cá nhân, là một con
người cụ thể làm việc trong cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) và thay mặt cho
cơ quan thực hiện nhiệm vụ trên thực tế.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tiến hành” là làm, thực hiện một cách chủ động
một công việc nào đó đã được định trước5. “Người tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự” là người của cơ quan tiến hành tố tụng, chủ động thực hiện các hành vi theo
trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định để giải quyết các VVDS hoặc góp phần vào
việc giải quyết các VVDS.
Trong TTDS, khi tiến hành các công việc cụ thể để giải quyết VVDS thì
CQTHTT phải thông qua những con người cụ thể. Mỗi CQTHTT sẽ thực hiện chức
năng khác nhau, nên mỗi NTHTT sẽ có những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Tuy
nhiên, hoạt động của họ đều nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau
nhằm giải quyết các VVDS theo quy định của pháp luật. NTHTT đều được Nhà
nước trao quyền để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của CQTHTT. Vì lẽ đó,
NTHTT trong TTDS có một số đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, NTHTT trong TTDS là người thực hiện quyền lực Nhà nước khi
giải quyết VVDS thông qua việc thay mặt CQTHTT ra các bản án, quyết định về
giải quyết VVDS.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân6; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân7. Nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” lần đầu tiên đã được ghi nhận cụ
thể tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013. Trong đó, quyền tư pháp là một dạng của
quyền lực nhà nước và chỉ trở thành quyền lực thực tế khi có các hoạt động cụ thể
của các chủ thể xác định. Đây là quá trình hiện thực hóa quyền tư pháp được ghi
5


Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 986.
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp 2013.
7
Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013.
6


8

nhận trong các văn bản pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội. Việc thực hiện, áp
dụng các quy phạm pháp luật đó vào thực tế phải thông qua hoạt động của từng cá
nhân cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013, Tòa án nhân dân
(TAND) là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Trong TTDS, NTHTT của Tòa án là người thay mặt Tòa án thực hiện quyền xét xử
đó. NTHTT thực hiện quyền lực nhà nước bằng cách xem xét, thụ lý, giải quyết các
tranh chấp, yêu cầu dân sự khi đương sự có yêu cầu; nhân danh nhà nước xét xử và
ra các bản án, quyết định giải quyết VVDS. Do đó, hoạt động tố tụng của NTHTT
của Tòa án cần phải được kiểm sát chặt chẽ nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực. Sự
kiểm sát này phần lớn được thực hiện bởi Kiểm sát viên thông qua hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS của những người tiến
hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng.
Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của NTHTT đều phải tuân theo quy định
của pháp luật, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ để
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Bởi lẽ, đây là những nhiệm vụ, quyền hạn
Nhà nước trao cho NTHTT, mà không trao cho bất kì một chức danh nào khác trong
bộ máy nhà nước. Chỉ những NTHTT mới có quyền giải quyết các tranh chấp, yêu
cầu dân sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu đó. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của NTHTT
trong TTDS lại mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt. Nếu trong tố tụng hình sự,

NTHTT sử dụng quyền lực nhà nước một cách sắc bén để bảo đảm phát hiện và xử
lý kịp thời, chính xác mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội thì ngược lại, việc sử dụng quyền lực nhà nước của NTHTT trong
TTDS chỉ nhằm giải quyết, phân minh các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự trong các tranh chấp dân sự của đời sống xã hội và mang tính mềm dẻo
hơn.
Thứ hai, NTHTT trong TTDS là người được bầu hoặc bổ nhiệm theo các tiêu
chuẩn chặt chẽ do pháp luật quy định.
Điều kiện và cách thức bầu hoặc bổ nhiệm NTHTT ở mỗi quốc gia là khác
nhau, tùy theo quy định của pháp luật quốc gia đó. Thông thường đều có các tiêu
chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn. Ở


9

Việt Nam, NTHTT trước hết phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc
và Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt; sau đó họ cần
đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ học vấn; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu
chuẩn về sức khỏe. Việc bầu hoặc bổ nhiệm NTHTT phải tuân thủ các tiêu chuẩn
chặt chẽ do pháp luật quy định sao cho phù hợp với nhiệm vụ mà ngành tư pháp đặt
ra đối với những cá nhân thực hiện hoạt động của CQTHTT.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015, Thẩm tra viên và Kiểm tra
viên là những chức danh mới được quy định vào nhóm NTHTT; để là Thẩm tra
viên, Kiểm tra viên họ cũng thông qua hình thức bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra
viên, Kiểm tra viên như đa số những NTHTT khác. Sau khi được bổ nhiệm họ được
phát luật quy định cho những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm góp phần vào quá trình
giải quyết VVDS và kiểm sát việc giải quyết VVDS.
Thứ ba, hoạt động của NTHTT trong TTDS mang tính chất chủ động và độc
lập. Đặc điểm này xuất phát từ những nhiệm vụ, quyền hạn riêng biệt mà pháp luật
quy định cho NTHTT trong việc thay mặt CQTHTT ra các bản án, quyết định về

giải quyết VVDS. Nếu trong tố tụng hình sự, Thẩm phán không tiến hành điều tra
vụ án hình sự mà chỉ tiến hành xét xử trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát kết luận, thì trong TTDS sự chủ động trong hoạt động của Thẩm phán thể
hiện rõ nét hơn. Thẩm phán trong TTDS là người trực tiếp thu thập chứng cứ theo
quy định của pháp luật, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, hòa giải, chuẩn bị
hồ sơ vụ án và trực tiếp xét xử8.
Tuy nhiên, sự chủ động của NTHTT trong TTDS cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Khi NTHTT thực nhiệm các nhiệm vụ, quyền hạn để giải quyết VVDS
tức là họ đang giải quyết các tranh chấp, yêu cầu trong các quan hệ dân sự, kinh
doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Đặc trưng của các quan hệ này
là quyền tự quyết, tự định đoạt của các chủ thể. Các chủ thể đó là người có quyền
quyết định việc khởi kiện, yêu cầu CQTHTT, NTHTT giải quyết các tranh chấp
hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của mình. Nếu không có hành vi
khởi kiện, yêu cầu của đương sự thì sẽ không có các hoạt động tiếp theo của
8

Vũ Thanh Tuấn (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 13.


10

NTHTT. Đồng thời, trong quá trình giải quyết VVDS, các đương sự vẫn có thể thỏa
thuận, thương lượng với nhau để giải quyết các vấn đề tranh chấp; rút đơn khởi
kiện, đơn yên cầu. NTHTT trong trường hợp này sẽ phải tôn trọng quyết định, tôn
trọng sự thỏa thuận của đương sự nếu quyết định, thỏa thuận đó không trái quy định
của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Bên cạnh sự chủ động khi tiến hành tố tụng, sự độc lập cũng là một đặc điểm
nổi bật trong hoạt động của NTHTT. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc
xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp là

quyền xét xử, được Nhân dân giao cho TAND thực hiện thông qua hoạt động của
NTHTT của Tòa án. Hoạt động này là nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Vì vậy, Hiến pháp 2013 ghi nhận việc nghiêm cấm các cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm chính là sự bảo
đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Sự độc lập
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND) nói riêng và của NTHTT nói chung bao
gồm cả độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong. Sự độc
lập trên hai phương diện này được hiểu là khi tiến hành tố tụng, NTHTT chỉ được căn
cứ vào các tài liệu, chứng cứ; căn cứ vào quá trình tranh tụng của các bên để giải
quyết VVDS. Đồng thời, khi giải quyết VVDS, NTHTT phải độc lập với các cơ
quan, cá nhân; không phụ thuộc vào hướng dẫn của cơ quan cấp trên, lãnh đạo hay bị
tác động bởi bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào.
Thứ tư, hoạt động của NTHTT trong TTDS phải bảo đảm tính vô tư, khách
quan. Trong CQTHTT, NTHTT giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng và tạo
nên uy tín, sức mạnh của cơ quan đó. Một CQTHTT được hoạt động bằng đội ngũ
cán bộ, nhân viên; nhưng chỉ có những NTHTT mới được pháp luật quy định có
nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc giải quyết các VVDS và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS. Hoạt động của NTHTT có ý nghĩa
quyết định đến tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án; ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, quá trình giải quyết
VVDS luôn tiền ẩn những yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan của
Thẩm phán, HTND, Kiểm sát viên nói riêng cũng sự độc lập của những NTHTT
khác và TAND, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nói chung. Các biểu hiện tác
động đến sự vô tư, khách quan ấy trên thực tế thường phức tạp, đa dạng và xuất


11

phát từ nhiều nguyên nhân, chủ thể khác nhau. Tất cả sự không vô tư, khách quan
của NTHTT với bất kỳ mục đích nào đều gây ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của họ; làm cho quá trình giải quyết VVDS thiếu khách quan.
Điều này dẫn đến việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được
thực hiện nghiêm chỉnh - một trong những điều kiện tiên quyết trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nếu cá nhân mỗi NTHTT hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng thì sẽ khẳng định
được hiệu quả hoạt động của CQTHTT nơi họ làm việc và tạo được sự tin tưởng
của Nhân dân vào uy tín của CQTHTT đó; củng cố sự công bằng, nghiêm minh của
pháp luật. Trái lại, nếu những NTHTT không hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình
thì hiệu quả hoạt động của CQTHTT đó sẽ giảm xuống; gây sự bất bình, mất niềm
tin của Nhân dân đối với CQTHTT nói riêng và đối với hoạt động của bộ máy nhà
nước nói chung. Đặc biệt, đối với những trường hợp NTHTT thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn không công tâm, khách quan tạo bức xúc, phẫn nộ lớn đối với đương sự
nói riêng và người dân nói chung. Chính vì vậy, NTHTT khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn luôn phải nắm vững được nhiệm vụ nặng nề của bản thân; phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Điều này sẽ góp phần
nâng cao trách nhiệm của NTHTT trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, NTHTT trong TTDS phải tôn trọng, chịu sự giám sát của Nhân
dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình.
Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ9; để bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, Điều 6 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận hai hình thức
thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân là hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp. Vì vậy, NTHTT là người thực hiện quyền lực nhà nước khi giải quyết
VVDS phải tôn trọng đương sự. Sự tôn trọng này thể hiện ở khía cạnh tôn trọng
quyền tự quyết, tự định đoạt của các bên đương sự trong quá trình tiến hành tố tụng;
thực hiện các yêu cầu của đương sự trong phạm vi pháp luật quy định. Đồng thời,
NTHTT phải chịu sự giám sát của đương sự nói riêng và Nhân dân nói chung. Nếu
9


Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013


12

NTHTT có các hành vi không vô tư, khách quan; giải quyết VVDS chưa hợp lý,
chính xác; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật thì
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ xét xử có HTND tham gia cũng là một
quy định thể hiện sự tham gia của Nhân dân vào quá trình giải quyết VVDS. Chế
định HTND đã đưa tiếng nói của Nhân dân vào quá trình xét xử; giúp cho việc xét
xử khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của Nhân dân cũng như bảo
đảm quyền làm chủ của Nhân dân, tạo điều kiện cho Nhân dân trực tiếp thực hiện
quyền tư pháp.
Như vậy, qua việc phân tích các đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm về
NTHTT trong TTDS như sau: Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự là người
được bầu hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn để giải quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự một cách chủ động, độc lập, vô tư, khách quan và phải
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.1.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Đối với từng NTHTT cụ thể ở từng giai đoạn khác nhau của quá trình giải
quyết VVDS sẽ có từng quyết định khác nhau. TAND là cơ quan có thẩm quyền xét
xử, vì vậy người được Tòa án phân công nhiệm vụ, người có quyền được nhân danh
cho Tòa án là NTHTT. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng lạm quyền của NTHTT của
Tòa án khi xét xử, pháp luật đã quy định cho NTHTT của Viện kiểm sát thực hiện
việc kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án trong quá trình giải quyết VVDS.
Tuy nhiên, dù là NTHTT của TAND hay VKSND thì mọi hoạt động của họ đều có
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình giải quyết một VVDS; có vai trò
quyết định đối với hoạt động của CQTHTT.

Thứ nhất, hoạt động của NTHTT nhằm bảo vệ công lý. Trong xã hội pháp
quyền, TAND là nơi mà mọi người tìm đến lẽ phải, tìm đến công lý; hoạt động của
TAND nói chung và NTHTT nói riêng cung cấp cho xã hội những phương thức hữu
hiệu để xác định sự thật và lẽ công bằng trong các quan hệ giữa các chủ thể. Trước
yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công lý và


13

bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và là một giá trị tiến bộ, bền vững được toàn xã
hội thừa nhận và hướng tới. Khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự
ngày càng đa dạng, phức tạp thì hoạt động của NTHTT với mục đích giải quyết các
tranh chấp, xác định sự thật khách quan là điều cần thiết. Chân lý khách quan bao
giờ cũng được xác định thông qua hoạt động giải quyết tranh chấp, hoạt động xét xử
của NTHTT. Các đương sự cần sự giải quyết của NTHTT để hy vọng và mong
muốn sự thật, sự công bằng được làm sáng tỏ. Do đó, NTHTT có nhiệm vụ phải tìm
ra sự thật khách quan, khẳng định cho toàn xã hội biết rằng công lý được thực thi10.
Thứ hai, hoạt động của NTHTT góp phần bảo vệ quyền con người. Hiện
nay, bảo vệ quyền con người đang là một vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Hiến
pháp 2013 đã có một bước tiến vượt bậc so với Hiến pháp 1992 khi quy định cụ thể
về quyền con người; coi quyền con người là quan điểm, nội dung xuyên suốt trong
toàn bộ Hiến pháp. Hiến pháp 2013 đã ghi nhận TAND trước hết phải có nhiệm vụ
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. NTHTT tại TAND với tư cách là cá nhân
thực hiện các nhiệm vụ của Tòa án, chính là người có vai trò bảo vệ các quyền con
người được pháp luật ghi nhận.
Việc bảo vệ quyền con người trong TTDS đòi hỏi phải được tiếp cận một
cách tổng thể, gắn với toàn bộ quá trình TTDS. Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa án
và Thẩm tra viên phải thực hiện đúng các quy trình, thủ tục khi giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu dân sự; nếu họ giải quyết thiếu khách quan, tùy tiện thì quyền con

người trong TTDS sẽ bị xâm hại. Việc quy định Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những NTHTT của Tòa án khi giải quyết
VVDS cũng một là cơ chế nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của những
NTHTT; góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, hoạt động của NTHTT góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây

10

Nguyễn Đăng Dung, Đặng Phương Hải (2016), “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân”, Trang thông tin điện tử Lý luận chính trị, tại địa chỉ
ngày truy cập 29/6/2016.


14

dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Trong đó, hoạt động
mang tính trọng tâm chính là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho
pháp luật được thực thi thống nhất và hiệu quả trên thực tế. Trong TTDS, người tiến
hành tố tụng của TAND sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết VVDS bằng cách ra các
bản án hoặc các quyết định có ý nghĩa đối với giải quyết VVDS theo đúng trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Trong quá trình giải quyết VVDS, khi tổ chức phiên
hòa giải, Thẩm phán sẽ giải thích cho đương sự các quyền và nghĩa vụ của đương
sự, các quy định của pháp luật có liên quan đến nội dung VVDS. Đồng thời, Kiểm
sát viên của VKSND sẽ tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết VVDS. Như vậy, việc hoàn thành nhiệm vụ của NTHTT không chỉ bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể liên quan, mà còn bảo vệ trật
tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín của bộ máy
Nhà nước; cũng như giáo dục được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Thứ tư, hoạt động của NTHTT góp phần duy trì trật tự xã hội; tạo môi

trường ổn định cho các mối quan hệ xã hội góp phần phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ chính của NTHTT là giải quyết các
VVDS với các đương sự là các chủ thể trong các tranh chấp của quan hệ dân sự,
kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể khi có tranh
chấp, khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi
kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết. NTHTT sẽ nhân danh Tòa án ra các yêu cầu buộc
người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi đó hoặc xét xử, giải quyết theo
quy định của pháp luật. Phạm vi của các loại tranh chấp, yêu cầu trên thực tế thường
rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau; do đó, hoạt động TTDS của NTHTT
có ảnh hưởng quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của nhiều mối quan hệ xã
hội. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu,
NTHTT sẽ thực hiện việc giáo dục pháp luật đối với các đương sự. Qua đó, NTHTT
góp phần phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giáo
dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
đạo đức, lẽ phải trong cuộc sống và có ý thức phòng ngừa các vi phạm pháp luật,
phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, NTHTT có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ


15

pháp chế xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tạo
môi trường ổn định cho các mối quan hệ trong xã hội. Hoạt động của NTHTT có
vai trò, ý nghĩa quyết định trong quá trình giải quyết VVDS.
1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Khái niệm việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
“Thay đổi” được hiểu là đưa người hay vật vào chỗ người hay vật bị bỏ11.
Theo cách giải thích này thì việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân

sự là việc người tiến hành tố tụng đã được phân công giải quyết vụ việc dân sự
không được tham gia giải quyết vụ việc dân sự đó nữa, mà người tiến hành tố tụng
khác sẽ thay thế họ để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ
việc dân sự.
Việc thay đổi NTHTT trong TTDS có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, NTHTT mới được thay thế và NTHTT bị thay thế phải có nhiệm
vụ, quyền hạn ngang bằng nhau. Việc thay đổi NTHTT dựa trên yêu cầu giải quyết
VVDS một cách khách quan, công bằng, bảo đảm đúng quyền, lợi ích của các bên
đương sự. Do đó, nó không làm thay đổi đến nhiệm vụ, quyền hạn của NTHTT mới
được thay thế so với NTHTT bị thay thế. NTHTT mới được thay thế hay NTHTT bị
thay thế đều có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của pháp
luật. Các nhiệm vụ, quyền hạn đó chỉ phục vụ cho mục đích giải quyết VVDS hoặc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS.
Thứ hai, việc thay đổi NTHTT dẫn đến hậu quả NTHTT mới được thay thế
sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động giải quyết VVDS, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong trường hợp cụ thể; còn NTHTT bị thay thế sẽ không còn tham gia vào
các hoạt động TTDS đó nữa. Trên thực thế, nguyên nhân khiến người tiến hành tố
tụng không thể vô tư, khách quan khi giải quyết VVDS thường đa dạng, phức tạp.
Mặc dù, NTHTT là những người có trình độ, được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ, song họ vẫn là những con người bình thường, có thể bị chi phối bởi

11

Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 997.


16

tình cảm, kinh tế… Do đó, khi một người tiến hành tố tụng bị thay thế thì người này
sẽ không tham gia vào các hoạt động TTDS trong quá trình giải quyết VVDS đó

nữa. Quy định này không chỉ bảo đảm cho việc giải quyết VVDS được vô tư, khách
quan mà còn tạo uy tín cho CQTHTT, NTHTT đối với đương sự nói riêng và người
dân nói chung; tạo niềm tin của người dân đối với những người do người dân ủy
quyền thực hiện quyền lực nhà nước, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.
Thứ ba, việc thay đổi NTHTT phải tuân theo các căn cứ; trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định. Bất kỳ hoạt động nào trong quá trình giải quyết VVDS cũng
phải tuân theo các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật TTDS và việc thay
đổi người tiến hành tố tụng cũng không nằm ngoại lệ. Việc thay đổi NTHTT sẽ
được xem xét khi có các căn cứ cho rằng NTHTT đang giải quyết VVDS đó không
vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Khi người có thẩm quyền
thay đổi NTHTT xem xét thấy các căn cứ thay đổi là chính xác thì phải tiến hành
việc thay đổi NTHTT theo đúng các trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Bên
cạnh đó, việc thay đổi NTHTT cần bảo đảm rằng NTHTT mới được thay thế không
có các căn cứ phải thay đổi, có thể vô tư, khách quan khi giải quyết VVDS đó;
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VVDS được nhanh chóng, chính xác. Người có
thẩm quyền thay đổi NTHTT cũng không được tùy tiện thay đổi NTHTT khi chưa
đủ các căn cứ hay tiến hành việc thay đổi trái với trình tự, thủ tục đã quy định.
Như vậy, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự là việc đưa
người tiến hành tố tụng mới vào thay thế cho người tiến hành tố tụng cũ khi có những
căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng cũ không khách quan, vô tư khi thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
1.2.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự
1.2.2.1. Cơ sở của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Việc thay đổi NTHTT phải được người có thẩm quyền tiến hành dựa trên
những cơ sở sau:
Thứ nhất, việc thay đổi NTHTT xuất phát từ tính chất quan trọng của bản án,



17

quyết định dân sự của Tòa án. Trách nhiệm của NTHTT khi ra bản án, quyết định là
phải bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể và phù hợp với
thực tế. Bởi lẽ, một bản án, quyết định dân sự của Tòa án đúng đắn, chính xác sẽ
bảo đảm được các quyền tài sản, quyền nhân thân của đương sự; cũng như bảo đảm
được hiệu quả hoạt động của CQTHTT, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khi xuất hiện yếu tố có thể làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của NTHTT đồng nghĩa với việc xuất hiện những yếu tố có thể làm ảnh hưởng trực
tiếp đến sự thật khách quan trong bản án, quyết định giải quyết VVDS; ảnh hưởng
đến uy tín, hoạt động của CQTHTT, NTHTT cũng như đối với quá trình xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, con người thường dễ bị tác động bởi các quan hệ, trong khi đó luật
pháp đòi hỏi phải “bất vị thân”. Để được bầu hoặc bổ nhiệm vào một chức danh,
NTHTT phải thỏa mãn các tiêu chuẩn do pháp luật quy định. Trong các tiêu chuẩn
đó, tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp luôn được đề cao. Tuy nhiên, NTHTT cũng
như những người bình thường khác, họ có tình cảm, có các mối quan hệ cá nhân
trong cuộc sống và có thể bị tác động bởi các mối quan hệ đó. Vì vậy, trong quá
trình giải quyết VVDS không thể tránh khỏi trường hợp NTHTT có những yếu tố,
những mối quan hệ dẫn đến việc không vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn.
Những NTHTT trong một HĐXX có mối quan hệ thân thích với nhau, hoặc
NTHTT có quan hệ thân thích với một trong các bên đương sự dễ dẫn đến việc thỏa
hiệp trong việc giải quyết VVDS hoặc tình trạng tiêu cực, không khách quan khi xét
xử. Những quyết định của người tiến hành tố tụng dễ bị ảnh hưởng bởi sự “cảm
tính”, định kiến, tạo nên sự không công bằng đối với bên chủ thể có quyền và lợi
ích liên quan; việc ra các bản án, quyết định dân sự sẽ bị thiên lệch. Vì vậy, để
phòng ngừa các khả năng dẫn đến bản án, quyết định được tuyên không khách quan,
vô tư thì trong trường hợp NTHTT có các quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng hoặc các quan hệ xã hội dẫn đến khả năng họ không vô tư, khách quan thì họ

phải bị thay đổi. Việc thay đổi NTHTT sẽ bảo đảm lợi ích hợp pháp giữa các đương
sự tham gia trong quá trình giải quyết VVDS; bảo đảm được sự công bằng giữa các
chủ thể khi tham gia tố tụng cũng như bảo đảm cho pháp luật được thực hiện


18

nghiêm minh, khách quan. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của NTHTT là cơ sở tất
yếu của việc thay đổi NTHTT. Bên cạnh đó, việc thay đổi NTHTT còn bảo đảm cho
việc thực hiện một số nguyên tắc như: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật; xét xử công khai…
Như vậy, việc thay đổi NTHTT xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
NTHTT và các nguyên tắc khác của TTDS là nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa; góp phần củng cố tuân thủ pháp luật triệt để. Việc tuân thủ pháp luật triệt để
không chỉ là thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, mà
còn là việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn này vô tư, khách quan; không bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố khác.
1.2.2.2. Ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Đầu tiên, việc thay đổi NTHTT nhằm bảo đảm sự vô tư, khách quan của
NTHTT khi ra các bản án, quyết định giải quyết VVDS. Trong trường hợp có căn
cứ cho thấy NTHTT có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thì
phải thay đổi. Mặc dù, tùy vào từng trường hợp cụ thể NTHTT có thể vô tư hoặc
không vô tư, nhưng pháp luật đã dự trù mọi khả năng có thể dẫn đến sự không vô tư
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ; nhằm bảo đảm các hoạt động
TTDS diễn ra nghiêm minh, công bằng triệt để. Vì lẽ đó, khi NTHTT thuộc một
trong các trường hợp phải thay đổi thì họ phải chủ động từ chối tiến hành tố tụng
hoặc buộc phải thay đổi trong trường hợp họ không từ chối.
Thứ hai, việc thay đổi NTHTT nhằm bảo đảm việc giải quyết các VVDS
thuận lợi, đúng đắn; bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Sự
không vô tư, khách quan của người tiến hành tố tụng khi ra bản án, quyết định giải

quyết VVDS có thể dẫn đến hệ quả bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa
các đương sự; quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo đảm thực
hiện. Ví dụ: Trường hợp Thẩm phán có mối quan hệ thân thích với phía bị đơn, dẫn
đến việc áp dụng pháp luật theo chiều hướng có lợi cho bị đơn sẽ làm cho việc giải
quyết VVDS đó không đúng pháp luật, không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của bên bị xâm phạm.
Thứ ba, việc thay đổi NTHTT nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;


19

nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật cũng như tạo được niềm tin của Nhân dân
đối với pháp luật và các CQTHTT, NTHTT. Việc thay đổi NTHTT phần nào hạn
chế tối đa sự không vô tư, khách quan của NTHTT, do các mối quan hệ “tình cảm”
ràng buộc; nâng cao được hiệu quả hoạt động của NTHTT nói riêng và CQTHTT
nói chung. Bên cạnh đó, quy định này còn nâng cao trách nhiệm của NTHTT, người
lãnh đạo trong CQTHTT. Thay vì đợi khi đương sự có yêu cầu, NTHTT chủ động
từ chối tiến hành tố tụng khi nhận thấy có các căn cứ tác động đến việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn một cách khách quan của mình. Điều này sẽ bảo đảm cho việc
xây dựng nền tư pháp trong sạch; nâng cao vị thế của các CQTHTT trong bộ máy
cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc thay đổi NTHTT đối với quá trình giải
quyết VVDS, việc thay đổi NTHTT không chỉ được pháp luật Việt Nam quy định,
mà còn được nhiều quốc gia khác quy định trong pháp luật TTDS của họ. BLTTDS
Nga quy định về những căn cứ thay đổi Thẩm phán (Điều 16) và việc Thẩm phán
không được tham gia xét xử lại trong cùng một vụ án (Điều 17). Việc Thẩm phán từ
chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi cũng được quy định trong BLTTDS Pháp, ví
dụ: Điều 341 BLTTDS Pháp ghi nhận “Thẩm phán thấy trong tâm nhận thức mình
cần từ chối tiến hành tố tụng sẽ đề nghị Chánh án chỉ định một Thẩm phán khác
trong Tòa thay thế mình tiến hành tố tụng”…

1.3. Sơ lược quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay
đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập sơ lược quy định pháp luật về
người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong TTDS theo
các giai đoạn từ năm 1945 đến nay.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc. Để xây
dựng, củng cố chính quyền và đáp ứng những đòi hỏi mới của đời sống dân sự, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và
quy định các ngạch Tòa án. Sắc lệnh số 13/SL đã có những quy định cơ bản về


×