Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.46 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MẠNH TÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MẠNH TÙNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số



: 60 38 01 04

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

HÀ NỘI - 2016


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Mnh Tựng
Xỏc nhn ca giỏo viờn hng dn

Nguyn Vn Tuõn


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ
quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận
văn thạc sỹ Luật học. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Ban giám hiệu cùng thầy cô Trường đại học Luật Hà Nội, các giảng

viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập,
nâng cao trình độ.
Cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất
nhiều để tôi có được tư liệu thực tiễn hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Văn Tuân, người đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Tùng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSĐT


: Kiểm sát điều tra

THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VAHS

: Vụ án hình sự

KSV

: Kiểm sát viên

ĐTV

: Điều tra viên


ADPL

: Áp dụng pháp luật


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

2.2
2.3

Tỷ lệ các vụ án về ma túy so với tổng số các vụ án nói
chung trên địa bàn thành phố Hà Nội mà VKS đã thụ lý,
kiểm sát điều tra từ năm 2011 - 2015
Kết quả kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn
thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015
Kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2011-2015

35


36
36


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN VỀ MA TÚY

1
7

1.1

Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của thực hành
quyền công tố

7

1.1.1

Quyền công tố


7

1.1.2

Thực hành quyền công tố

9

1.2

Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của kiểm sát điều
tra
Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án về ma túy
Tội phạm về ma túy

1.3
1.3.1
1.3.2

2.1

2.2

16
20
20

Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các

vụ án về ma túy

22

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

25

Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội
và một số đặc điểm riêng về tình hình tội phạm ma túy trên
địa bàn thành phố Hà Nội
Kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn Hà Nội giai

25

33


2.3

đoạn hiện nay
Những hạn chế và nguyên nhân khi thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra đối với các vụ án ma túy của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hà Nội

2.3.1


Những hạn chế

42

2.3.2

Nguyên nhân

47

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

54

3.1

Về pháp luật

54

3.2.

Về nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ trong áp dụng pháp
luật để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
Kiểm sát viên
Về tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành và sự phối hợp với

các cơ quan khác

3.3
3.4.
3.5
3.6

3.7

Về cải thiện phương tiện làm việc và chế độ chính sách đối
với cán bộ ngành kiểm sát
Yêu cầu riêng đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng công
tác giải quyết án ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội
Yêu cầu riêng đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng công

42

66

70
73
77

tác giải quyết án ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội

79

Kiến nghị về phương pháp quản lý, chỉ đạo và đánh giá về sự
gia tăng tội phạm ma túy của Công an thành phố Hà Nội


82

KẾT LUẬN

85


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước ta hiện nay,
nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Chủ
trương “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” là một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng
trong cải cách tư pháp hình sự hiện nay ở nước ta. Các Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng về cải cách tư pháp xác định: Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm
chính về những oan, sai trong việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra,
truy tố; phải bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng pháp luật, cùng với cơ quan
điều tra khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá trình điều tra, bảo đảm
không để lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Tại Hội nghị triển khai công tác kiểm sát năm 2011, đồng chí Viện
trưởng VKSNDTC đã kết luận về vấn đề này để chỉ đạo toàn Ngành Kiểm sát
quán triệt thực hiện; cụ thể như sau:
“Cần có cách nhìn toàn diện, đầy đủ về quan hệ giữa thực hành quyền
công tố với kiểm sát điều tra; tăng cường hơn nữa vai trò chủ động của Viện
kiểm sát trong quá trình điều tra…; Tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nghĩa là Viện
kiểm sát phải “song hành” cùng với cơ quan điều tra trong hoạt động điều

tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội; phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan
điều tra để tìm giải pháp phát hiện, xử lý tội phạm khẩn trương nhất, đầy đủ
nhất. Khi phát hiện thấy hạn chế, thiếu sót trong quá trình điều tra, Viện kiểm
sát phải coi đó cũng chính là hạn chế, thiếu sót của mình để cùng với cơ quan
điều tra tìm biện pháp khắc phục… Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn
đối với những quyết định tố tụng vi phạm pháp luật hoặc không có căn cứ.
Mục tiêu của hoạt động kiểm sát điều tra là nhằm hỗ trợ việc thực hành
quyền công tố được tốt, bảo đảm việc truy tố có căn cứ và đúng pháp luật. Do
vậy, yêu cầu của việc tăng cường trách nhiệm công tố đòi hỏi Viện kiểm sát


2

phải cùng với cơ quan điều tra khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá
trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội…”.
Các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp trong những năm gần đây
có những chủ trương hết sức quan trọng về trách nhiệm công tố của VKS
trong giai đoạn điều tra: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn mạnh:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực
hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi
hành nhiệm vụ… [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đặt ra nội dung "Tăng cường trách
nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [3]; Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ X của Đảng xác định: "Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ;
lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra" [4]. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: "Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra" [5].
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần nghị quyết của Đảng,
trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm
sát điều tra (KSĐT) các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Với số lượng rất lớn các vụ án hình sự được phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời bảo đảm sự nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan


3

người vô tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và
trật tự xã hội.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chức năng của VKSND ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Đây là một chức năng mà VKSND đã đảm đương từ lâu
nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc và khó khăn do chưa đạt được
sự thống nhất cao cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp đặc biệt là kiểm sát điều tra vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế
mà nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của các hạn chế đó không phải chỉ
có một, cần được nghiên cứu làm rõ và có hướng khắc phục để tiếp tục tiến
trình cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đổi mới. Vì
vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt
lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần đảm bảo sự thống nhất trong

hành động, nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm
sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó cho
VKSND, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKSND
đối với một loại tội phạm cụ thể đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng
cao chất lượng của hoạt động này trong điều kiện cải cách tư pháp, tác giả
chọn đề tài " Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma
túy ở thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta hiện nay, liên quan đến hoạt động THQCT và KSĐT, tác giả
cũng đã tiếp cận, tham khảo được một số công trình nghiên cứu sau:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra" của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các tội xâm phạm sức khỏe trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh – thực trạng và một
số kiến nghị” của Nguyễn Văn Hùng, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội,
2014.


4

- Luận văn thạc sĩ luật học: "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân" của Trịnh Duy Tám,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Luận án tiến sĩ Luật học Lê Thị Tuyết Hoa: "Quyền công tố ở Việt
Nam", 2005.
Ngoài ra, còn có các bài viết của các tác giả khác với các ý kiến và
quan điểm khác nhau được đăng trên các báo và Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí
Luật học…, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ,

các chuyên đề của VKSNDTC qua từng năm.
3. Mục đích, câu hỏi và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn
đề lí luận của THQCT và KSĐT, pháp luật tố tụng hình sự 2003; 2015 về
THQCT và KSĐT nói chung và các quy định của pháp luật đối với các tội
phạm ma túy nói riêng để góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT
các vụ án về ma túy.
3.2. Các câu hỏi nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu làm rõ
các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT là gì? Và cụ thể về việc kiểm sát các
vụ án về ma túy ra sao?
- Qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT
các vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015, hãy
làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động THQCT và
KSĐT của VKS?
- Trên cơ sở đó, hãy đánh giá chất lượng của các công tác này, những
kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, yếu kém tồn tại và làm rõ nguyên
nhân của chúng đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục?
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT đối
với các vụ án về ma túy.
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động THQCT và KSĐT các

vụ án về ma túy trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư
pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các
Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQTW ngày
26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả
luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong
luận văn.
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn đã khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy.
- Luận văn cũng đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động của
VKSND khi THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy, thông qua đó, đề xuất
các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của VKSND trong hoạt động
THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy ở địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của
VKSND khi THQCT và KSĐT các vụ án về ma túy, góp phần xây dựng,
hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và
khoa học Điều tra hình sự.



6

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ án về ma túy.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Hà
Nội.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của thực hành
quyền công tố
1.1.1. Quyền công tố:

Ở Việt Nam, VKSND được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960 với
chức năng chủ yếu khi đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo
tính thống nhất của pháp chế và trật tự pháp luật Xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của VKSND trong giai
đoạn hiện nay và cũng là một nhiệm vụ mà VKSND vốn đảm nhiệm đã từ lâu,
ngay từ khi tổ chức tiền thân của nó là Viện công tố ra đời và đi vào hoạt
động. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung, trong khoa
học kiểm sát nói riêng và ngay cả trong thực tiễn hoạt động của VKSND vẫn
chưa đạt được sự thống nhất cao về các vấn đề này cả trên phương diện khái
niệm, nội dung, đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố, kiểm sát
các hoạt động tư pháp cũng như mối quan hệ giữa chúng. Điều này không chỉ
ảnh hưởng đến nhận thức mà còn tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt
động thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong hệ thống các
cơ quan tư pháp nói chung, cơ quan VKSND nói riêng. Để góp phần từng
bước nâng cao hiệu quả và dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm
sát, điều không thể thiếu được là cần phải làm rõ từ trong nhận thức về các
vấn đề cơ bản có liên quan đến các hoạt động chức năng này: Khái niệm thế
nào là thực hành quyền công tố, thế nào là kiểm sát điều tra, đối tượng, nội
dung, phạm vi cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu về quyền
công tố. Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức
VKSND năm 1981, khái niệm “Quyền công tố’’ và “Thực hành quyền công


8

tố’’ lần đầu tiên được xuất hiện bên cạnh khái niệm truyền thống "kiểm sát
việc tuân theo pháp luật".

Có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng
cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm
sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của VKS trong
kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang
các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công
tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác
định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo
đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người
phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó trước phiên tòa [27, tr. 40].
Với nhận thức của mình, tôi ủng hộ quan điểm khái niệm quyền công tố
như sau: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo
đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người
phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó trước phiên tòa [27, tr. 40].
Tôi ủng hộ quan điểm trên bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, tôi nhận thấy quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền
thống nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố: "Quyền công
tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người có
hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự xem xét là tội phạm xâm hại trật tự
chung của toàn xã hội".
Thứ hai, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định của pháp luật
của Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố, cụ thể:
- Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng
định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố…".



9

- Khi nói về vai trò nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã
khẳng định: "Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát
để sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát
nhân dân phải trông nom, đảm bảo tốt".
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 củ Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: "Viện kiểm sát
các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp" [2, tr. 2].
- Luật Tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định: "Thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.”
- Hiến pháp 2013 (khoản 1 Điều 107) quy định "Viện kiểm sát có
nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền
công tố".
Từ các ý kiến, tư tưởng chỉ đạo nêu trên, có thể thấy quyền công tố ở
nước ta được giao cho chủ thể duy nhất là Viện kiểm sát; quyền công tố chỉ
có trong lĩnh vực tố tụng hình sự và có ở tất cả các giai đoạn từ khi tiếp nhận
tin báo tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra đến truy tố và xét xử hình sự; các
công tác khác như giải quyết án dân sự, giam giữ cải tạo, giải quyết án hành
chính, kinh tế, lao động, thi hành án … của VKSND là hoạt động thuộc lĩnh
vực kiểm sát các hoạt động tư pháp khác…
1.1.2. Thực hành quyền công tố
a) Khái niệm:

Việc xác định rõ quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố
có ý nghĩa không chỉ giúp phân định rõ ràng, đúng đắn chức năng nhiệm vụ,
xác định vị trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói
chung, trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng mà còn giúp cho


10

nhận thức thống nhất và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn cải cách tư pháp.
Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội; quyền công tố chỉ
có trong lĩnh vực TTHS; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm
xảy ra, tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng
tại phiên tòa và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết
định của Tòa án - trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để thực hiện được
quyền công tố đó, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng
pháp lý khác nhau để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong
từng giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự (hay nói cách khác đó là các
phương pháp khác nhau để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong
những giai đoạn tố tụng khác nhau) - đó là thực hành quyền công tố.
Không chỉ Viện kiểm sát còn có cả Cơ quan điều tra và Tòa án cũng có
quyền phát động quyền công tố nhưng các quyết định khởi tố của các cơ quan
đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền sau khi được Viện kiểm
sát xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ
quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền
hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử phát hiện
có tội phạm bị bỏ lọt, nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án
đều phải được gửi cho Viện kiểm sát xem xét, nếu có vi phạm pháp luật thì
Viện kiểm sát sẽ kháng nghị. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ có Viện kiểm sát là

cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự can
thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều
tra chỉ có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn, còn việc quyết định là do Viện kiểm sát; Cơ quan điều tra có quyền độc
lập thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ
ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là do Viện kiểm sát chịu trách
nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy
cần xử lý người đó trước Tòa án thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra
Tòa. BLTTHS nước ta đã quy định thẩm quyền công tố của Viện kiểm sát


11

trong tố tụng hình sự rất lớn là “được áp dụng các biện pháp do BLTTHS để
xác định tội phạm và xử lý người phạm tội” (Điều 23 BLTTHS 2003). Như
vậy, về thực hành quyền công tố là chức năng mà không cơ quan nhà nước
nào làm thay Viện kiểm sát. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến
pháp và pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho
duy nhất VKS. Vậy, chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt Nam là Viện
kiểm sát nhân dân.
Từ những phân tích trên có thể đi đến khái niệm sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự. [45, tr. 1].
b) Đối tượng thực hành quyền công tố:
Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động tới
nhằm thực hiện mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự. Với cách hiểu này,
đối tượng của quyền công tố không gì có thể khác hơn là tội phạm và người

phạm tội. Đây cũng chính là đối tượng của hoạt động THQCT nói chung và
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
c) Phạm vi thực hành quyền công tố:
Để xác định chính xác phạm vi thực hành quyền công tố không thể
không xem xét đến phạm vi của quyền công tố và khái niệm về thực hành
quyền công tố đã được đề cập ở các phần trên. Quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; để đảm
bảo thực hiện được sự buộc tội nhân danh Nhà nước đó pháp luật quy định
các biện pháp cụ thể, các biện pháp đó chính là thực hành quyền công tố [47,
tr. 13-14]. Như vậy, có thể thấy rõ quyền công tố là cơ sở của thực hành
quyền công tố, phải có quyền công tố thì mới có thực hành quyền công tố cho
nên để xem xét phạm vi của thực hành quyền công tố thì trước hết phải xem
xét đến phạm vi của quyền công tố. Như phần trên đã nêu, phạm vi của quyền
công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện … Còn thực hành quyền công


12

tố thì chỉ phát sinh kể từ thời điểm vụ án được khởi tố bằng quyết định chính
thức của cơ quan có thẩm quyền - tức là khi cơ quan tố tụng đã áp dụng một
trong các biện pháp thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trên thực tế có
không ít những trường hợp mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng không được
khởi tố; điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khoa học pháp lý
gọi là "tội phạm ẩn" (tức là những tội phạm trên thực tế đã xảy ra nhưng chưa
được khởi tố để điều tra) [48, tr. 62-67] cho nên cơ quan tố tụng không áp
dụng được bất cứ một biện pháp thực hành quyền công tố nào. Với mục tiêu
mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật của
TTHS, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố
phải được phát động. Khi quyền công tố được phát động thì đồng nghĩa với
hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai và khi quyền công tố

không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng được kết thúc. Vì vậy,
phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và
kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. Qua đây, có thể thấy rằng
phạm vi của thực hành quyền công tố hẹp hơn so với phạm vi của quyền công
tố, nó chỉ bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có
hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ).
d) Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã
quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người
đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động
tố tụng này chính là nội dung của thực hành quyền công tố.
Theo các quy định của BLTTHS và Luật Tổ chức VKSND thì "Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong tất cả các giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử bằng các biện pháp theo quy định của pháp luật". Trong
khuôn khổ đề tài nghiên cứu tôi xin chú trọng trình bày nội dung thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra, cụ thể như sau:


13

- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Đây là các biện pháp phát động quyền
công tố, mở đầu cho cả quá trình TTHS, là điểm mốc làm phát sinh quan hệ
pháp luật hình sự giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người có
hành vi phạm tội bởi bắt đầu từ đây, cơ quan có thẩm quyền chính thức bắt
đầu các hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm và người phạm tội, làm rõ
các tình tiết của vụ án… Theo quy định của pháp luật, VKS là cơ quan duy
nhất trong TTHS có quyền quyết định việc có hay không khởi tố vụ án hình

sự, bị can để điều tra: Có quyền phê chuẩn các quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, các quyết định thay đổi và bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can
của Cơ quan điều tra… Các quyết định khởi tố vụ án, bị can của các chủ thể
khác được pháp luật giao cho thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều
phải chịu sự giám sát và phụ thuộc vào quyết định của VKS: Sau khi có quyết
định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các quyết định khởi tố của các cơ quan đó
phải được gửi đến VKS cùng các tài liệu có liên quan để VKS xem xét quyết
định phê chuẩn hay không phê chuẩn; trong trường hợp không được sự phê
chuẩn của VKS thì các quyết định đó bị triệt tiêu về hiệu lực.
Ngoài ra, VKS còn có thẩm quyền đặc biệt hơn cả trong số các chủ
thể có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Có quyền độc lập quyết định
việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không phải chịu sự chi phối của bất cứ cơ
quan nào, các quyết định này của VKS có hiệu lực ngay sau khi ban hành.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều
tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra:
Trong TTHS, Cơ quan điều tra được giao trách nhiệm điều tra tội
phạm, có quyền áp dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để
điều tra làm rõ vụ án, làm rõ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết có liên
quan như động cơ, mục đích của tội phạm, nhân thân của người phạm tội, các
tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, các thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra… Đây là
những hoạt động mà không có cơ quan nào có thể thay thế cho Cơ quan điều
tra được bởi họ có biên chế là đội ngũ các Điều tra viên được đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ về điều tra và khám phá tội phạm [49, tr. 8-15]. Nhưng bởi
việc đưa một con người vào vòng tố tụng và xử lý họ về hình sự là vấn đề


14

không hề đơn giản, động chạm đến rất nhiều quyền cơ bản của công dân được
pháp luật bảo hộ cho nên cần phải đảm bảo tính thận trọng và chính xác cho

nên cần phải có sự chế ước giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong TTHS
nhằm đảm bảo tất cả mọi hành vi phạm tội đã được phát hiện phải được khởi
tố, xử lý kịp thời và nghiêm minh nhưng phải có căn cứ và đúng pháp luật. Vì
vậy, pháp luật quy định giao cho một cơ quan nhà nước trách nhiệm kiểm tra,
giám sát, đảm bảo cho các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc chứng minh
hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội phải được thu thập đầy đủ,
toàn diện, khách quan và hợp pháp - Cơ quan đó là VKS. VKS là cơ quan duy
nhất có quyền can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tra, đề ra yêu cầu điều tra
để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Cơ quan điều tra mà cụ thể là các Điều
tra viên có trách nhiệm phải thực hiện tất cả các yêu cầu của VKS; trường hợp
không nhất trí, Cơ quan điều tra có quyền được kiến nghị đến VKS cấp trên
nhưng trong thời gian chờ đợi kết quả vẫn phải thực hiện nghiêm chỉnh các
yêu cầu đó. Ngoài ra, VKS còn có quyền tự mình trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra nếu xét thấy cần thiết như ghi lời khai của bị hại, nhân
chứng, thực nghiệm điều tra…
- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của BLTTHS, nếu hành vi có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố hình sự
Để bảo đảm việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ,
Viện kiểm sát có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra
viên khi có căn cứ cho rằng Điều tra viên đó không vô tư trong quá trình tiến
hành tố tụng. Trong trường hợp hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội
phạm như tiêu hủy, đánh tráo vật chứng của vụ án, làm sai lệch hồ sơ vụ án
đang điều tra... thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị
can đối với Điều tra viên đó.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác
Trong quá trình điều tra, pháp luật tố tụng đã quy định cho cơ quan
điều tra có quyền ra các quyết định bắt, tạm giữ, ra lệnh tạm giam hoặc đề
nghị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hạn chế một số quyền của người



15

phạm tội nhằm phục vụ cho việc điều tra thu thập tài liệu chứng cứ, ngăn chặn
người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy chứng cứ. Nhưng cơ quan
điều tra không được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp
bắt, tạm giữ, tạm giam khi không có xét phê chuẩn của Viện kiểm sát. Pháp
luật hiện hành đã đòi hỏi Viện kiểm sát phải nghiên cứu, xem xét tính có căn
cứ và tính hợp pháp để phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của
cơ quan điều tra; kịp thời hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trái pháp luật của
cơ quan điều tra. Trong mọi trường hợp, khi thực hiện các quyền năng này
pháp luật cũng yêu cầu Viện kiểm sát cần quán triệt tư tưởng nhanh chóng,
chính xác và khách quan để phúc đáp được các yêu cầu đối với quá trình điều
tra vụ án hình sự tránh oan, sai, lọt tội phạm, nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.
- Quyết định việc truy tố bị can, tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án,
bị can
Theo quy định tại Điều 141 BLTTHS, Điều 14 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, thì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền quyết định
việc truy tố bị can. Cơ quan điều tra có quyền đề nghị truy tố, nhưng trong
mọi trường hợp nếu Viện kiểm sát không truy tố thì vụ án phải được đình chỉ.
Cơ quan điều tra có quyền đình chỉ điều tra nhưng trường hợp quyết định đình
chỉ điều tra của cơ quan điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát có quyền
hủy bỏ. Như vậy, theo quy định của pháp luật ở giai đoạn điều tra, Viện kiểm
sát có toàn quyền quyết định số phận pháp lý của vụ án hình sự. Đó là đưa
hay không đưa vụ án ra Tòa. Để thực hiện nhiệm vụ này, pháp luật hiện hành
đã có nhiều quy định cho Viện kiểm sát tác động vào quá trình điều tra, bảo
đảm hoạt động điều tra phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật,
việc điều tra phải khách quan, toàn diện, phải thu thập đầy đủ các chứng cứ,
cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, làm rõ các tình tiết tăng nặng hoặc

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, xác định nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến tội phạm, những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra
phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh.


16

Trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát phải chủ động bám sát các
hoạt động điều tra của cơ quan điều tra như trực tiếp kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, khám xét... Phải kiểm sát chặt chẽ các
hoạt động thu thập, bảo quản, đánh giá các chứng cứ của vụ án; kiểm sát chặt
chẽ ngay từ đầu việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và các quyết định
khác của cơ quan điều tra như quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra,
quyết định phục hồi điều tra vụ án... thông qua công tác kiểm sát, Viện kiểm
sát ra được các quyết định công tố kịp thời, chính xác như hủy các quyết định
không có căn cứ của cơ quan điều tra.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định các nội dung hoạt động
công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, nhằm bảo đảm việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can có căn cứ và đúng pháp luật. Hoạt
động này của Viện kiểm sát chỉ đúng đắn khi kết quả điều tra của cơ quan
điều tra được bảo đảm bởi hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
1.2. Khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của kiểm sát điều
tra:
a) Khái niệm:
Theo quy định của pháp luật thì chức năng, nhiệm vụ của VKSND là
"Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp…". Qua tinh
thần của các văn bản pháp luật, có thể thấy rõ đây là hai chức năng hoàn toàn
độc lập của VKS. Các vấn đề có liên quan đến chức năng thứ nhất (thực hành
quyền công tố) đã được làm rõ qua phần phân tích trên. Các vấn đề có liên

quan đến chức năng thứ hai kiểm sát các hoạt động tư pháp: Thế nào là hoạt
động tư pháp và thế nào là kiểm sát các hoạt động tư pháp, mối liên hệ giữa
chức năng này với chức năng thực hành quyền công tố cũng cần được làm
sáng tỏ trước khi để cập đến hoạt động thực hiện chức năng này của VKS.
Kiểm sát hoạt động tư pháp
Các cơ quan tư pháp ở nước ta bao gồm Cơ quan điều tra, VKS, Tòa
án và Cơ quan thi hành án. Xuất phát từ nghĩa rộng của khái niệm về tư pháp
ở nước ta như đã trình bày phần trên, có thể hiểu các hoạt động tư pháp là các


17

hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án và các tranh chấp bao
gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ như khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của Tòa án trong cả lĩnh vực hình sự,
dân sự và hành chính, kinh tế... Vậy, hoạt động tư pháp là hoạt động trước hết
phải được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa tất cả mọi hoạt động do cơ quan tư pháp tiến hành đều là hoạt động tư
pháp mà chỉ là hoạt động tư pháp nếu hoạt động đó gắn liền với việc giải
quyết một vụ án, một tranh chấp cụ thể.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định
của Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát thực
hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau
gắn liền với các lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động…
Gắn liền với tố tụng hình sự là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra - Kiểm sát điều tra,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự - Kiểm
sát xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án

và các quyết định của Tòa án nhân dân. Cả ba lĩnh vực công tác đó hợp thành
kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Kiểm sát điều tra
Theo quy định của pháp luật, trong lĩnh vực hình sự, Viện kiểm sát
thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn với các giai đoạn tố tụng khác
nhau: Thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra; thực hành quyền công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự và các quyết định
của TAND (Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Ứng với mỗi công tác
này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định một chương riêng biệt. Trong
đó, tại chương II, các mục 2 (gồm các điều 14, 15) quy định cụ thể về nhiệm


×