Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.01 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC ÁNH
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
Người hướng dẫn khoa học: TS. …………..

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, thông tin và kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu khoa học nào khác.
Xác nhận của người hướng dẫn

Tác giả Luận văn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự


BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
KSĐT Kiểm sát điều tra
THQCT Thực hành quyền công tố
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số 1: Số liệu vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu VKS hai cấp thành phố Hà
Nội kiểm sát việc khởi tố giai đoạn 2011 – 2015
Bảng số 2: Số liệu kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các tội xâm
phạm sở hữu giai đoạn 2011 - 2015
Bảng số 3: Số vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu tạm đình chỉ giai đoạn 2011 –2015
Bảng số 4: Số vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu đình chỉ giai đoạn 2011 - 2015
Bảng số 5: Số vụ án VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung giai đoạn 2011 – 2015


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 3
3.Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6.Những điểm mới và đóng góp của luận văn 6

7. Kết cấu của luận văn 7
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRACÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU 8
1.1.Khái niệm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 8
1.1.1.Khái niệm thực hành quyền công tố8
1.1.2.Khái niệm Kiểm sát điều tra15
1.1.3.Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra19
1.2.Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm sở hữu 23
1.2.1.Các tội xâm phạm sở hữu23
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm sở hữu 27
1.3.Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra ở Việt Nam 29


CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 35
2.1. Pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự 35
2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự 35
2.1.2. Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án hình sự 44
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội 47
2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố
Hà Nội 49
2.2. 2. Những hạn chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án

xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội và nguyên
nhân của những hạn chế 56
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 66
3.1. Giải pháp về pháp luật 66
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự 66
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự 69
3.2. Những giải pháp khác 74
3.2.1. Tiếp tục kiện toàn biên chế, nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và
trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát hai cấp
Thành phố Hà Nội 74


3.2.2. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho ngành Kiểm sát; hoàn
thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên. 77
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo và kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên
đối với Viện kiểm sát cấp dưới. 79
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân và của nhân dân đối với
hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu của
Viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội. 80
3.2.5. Tiếp tục tăng cường quan hệ phối hợp giữa ngành Kiểm sát Hà Nội với Cơ quan
điều tra trong việc giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu 82
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đất nước ta tiến hành

công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Trải qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành quả
đáng khích lệ trên mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội… nền kinh tế cơ bản
phát triển theo hướng kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả mà nền kinh tế thị
trường mang lại thì mặt trái của nó chính là tai, tệ nạn xã hội, là vi phạm pháp
luật và tội phạm gia tăng, diễn biến của tội phạm phức tạp, tính chất thủ đoạn
ngày càng tinh vi. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam hiện
hành, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan duy nhất có chức năng thực
hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó bao
gồm hoạt động Kiểm sát điều tra (KSĐT). KSĐT là hoạt động của VKSND
trong quá trình giải quyết án hình sự. KSĐT đảm bảo cho hoạt động điều tra
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm
và tội phạm phải được phát hiện và xử lý trước pháp luật.
Công tác THQCT và KSĐT được thực hiện đúng theo quy định của pháp
luật sẽ giúp cho việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội,
hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời, tạo tiền đề cho công tác
truy tố và xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, tránh làm oan
người vô tội hay bỏ lọt tội phạm.
Trước những yêu cầu của tình hình mới, VKSND cần tiếp tục thực hiện
đổi mới toàn diện cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ
của mình.Việc đổi mới của VKSND đã được Nghị quyết số 08/ NQ/TW ngày


02/01/2002 của Bộ Chính trị: “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới” xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án trong suốt quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi

hành nhiệm vụ…”
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý… Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá X) “Về
chiến lược cải cách đến năm 2020” đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của các
cơ quan tư pháp trong đó có VKSND:“...Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một
bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt giam
giữ, truy tố xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp
còn thiếu thốn, lạc hậu…”
Thành phố Hà Nội là Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của
nước ta. Trong những năm gần đây, bên cạnh việc giữ vững ổn định chính trị,
tập trung phát triển kinh tế, Thành phố Hà Nội còn phải đối mặt với nhiều vấn
đề xã hội cần giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng và chống tội phạm
nói chung, phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng. So với các địa
phương trên cả nước, tội phạm xâm phạm sở hữu ở Thành phố Hà Nội luôn
chiếm tỷ lệ lớn và đang có chiều hướng gia tăng. Loại tội phạm này đã và đang
diễn biến phức tạp với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn gây không ít


khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Công tác THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội trong những năm gần đây đạt được nhiều kết quả quan trọng,
góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm
xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn cho thấy công tác THQCT
và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội còn bộc lộ
nhiều hạn chế như: Hoạt động KSĐT chưa được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu
của vụ án, Kiểm sát viên (KSV) thiếu chủ động trong việc đề ra yêu cầu điều tra,

chưa thường xuyên trao đổi nắm bắt thông tin về hoạt động điều tra nên còn bị
động trong quá trình giải quyết vụ án, kỹ năng KSĐT của nhiều KSV còn hạn
chế… Điều này dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài, phải gia hạn thời hạn điều tra,
thời hạn tạm giam, còn bỏ lọt tội phạm…Những tồn tại nêu trên xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân cơ bản là do nhận thức
pháp luật và áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án xâm phạm sở
hữu của Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKSND còn chưa thống nhất. Lý luận về
hoạt động kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được xem
xét, nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Thực tiễn hoạt động của
VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm
phạm sở hữu nói riêng chưa được quan tâm, nghiên cứu, tổng kết thường xuyên.
Trước thực trạng nêu trên, với xu hướng hội nhập quốc tế như hiện nay,
việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các
tội xâm phạm sở hữu, đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại từ đó
đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng THQCT và
KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội là vô cùng
cần thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài: “Thực hành


quyền công tố và Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn
thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
THQCT và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc
độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kể đến một số công
trình điển hình như sau:
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm

sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Hà Nội
- Cao Việt Cường (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
(trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố
tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Bên cạnh đó còn có các bài viết của nhiều tác giả khác với các ý kiến,
quan điểm khác nhau được đăng tải trên các báo, tạp chí như: Tổ chức bộ máy
và chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp của
tác giả Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 14 – 16, 2008; Bàn về mô hình Viện


kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Lại Hợp Việt, Tạp chí Kiểm
sát số 14 – 16, 2008; Thể chế chủ trương “Tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra” trong Bộ luật tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Tiến
Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 09, 2015…
Các công trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ khác
nhau của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự. Tuy nhiên, chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động THQCT và KSĐT cụ thể đối
với các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về THQCT và
KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu, đánh giá thực trạng và đưa ra các đề xuất,
phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm

sở hữu nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn thiện
hơn nữa các quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo
tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị đề ra.
- Nhiệm vụ của đề tài: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có
những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về THQCT và KSĐT nói chung và
đặc điểm THQCT và KSĐT đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
+ Phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về THQCT và KSĐT các tội xâm
phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội (ở cả hai cấp)
+ Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo và nâng cao chất
lượng công tác THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội.


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về THQCT và KSĐT các vụ
án hình sự và hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu của
VKSND ở Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian và thời gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu thực
tiễn áp hoạt động THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 05 năm từ năm 2011 đến hết năm 2015.
+ Phạm vi về giai đoạn tố tụng: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của
VKSND ở Thành phố Hà Nội bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện
được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kết thúc điều tra bằng bản
kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho Viện kiểm sát đề nghị

truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp
luật, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị
quyết số 08/ NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị: “Về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: “Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình
sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và


thực tiễn; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể; kết hợp
sử dụng các phương pháp khoa học khác như : thống kê tội phạm, so sánh, phương
pháp hệ thống…
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm
phạm sở hữu mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh
trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu;
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động
THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu thường gặp phải;
- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và KSĐT
các vụ án xâm phạm sở hữu;
- Đề xuất hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng

như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở
hữu trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu
cầu không ngừng nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSĐT các tội xâm
phạm sở hữu, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy, nghiên cứu các chuyên đề có liên quan đến thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung


của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực trạng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
năm 2011 đến năm 2015.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ ánxâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ÐIỀU TRACÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Quyền công tố
Trên thế giới, khái niệm quyền công tố và THQCT đã xuất hiện từ rất
sớm, gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước và pháp luật. Nhưng
ở nước ta dưới góc độ lập pháp thì Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên

đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của
VKSND (Điều 137). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật Tổ
chức VKSND năm 1981. Như vậy, hoạt động của VKSND bên cạnh khái niệm
truyền thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “quyền
công tố” và “Thực hành quyền công tố”. Từ đó đến nay đã có nhiều tài liệu
giảng dạy, nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến khái niệm
này.Song cho đến nay, khi chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh cải cách tư
pháp, vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao trên phương diện nhận thức về vấn
đề này.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố,
buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án".1Như vậy, theo từ điển
tiếng Việt thì công tốđược hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm: Điều tra,
truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án.
Ở nước ta, trong thời gian qua đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm thế nào là quyền công tố, có thể khái quát một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS đều là THQCT. Những người theo quan


điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của
VKSND để xem xét quyền công tố. Họ cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đều là THQCT. Điều đó có nghĩa là ngay cả khi Viện
kiểm sát kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những vi phạm của
mình trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội cũng là THQCT. Theo quan điểm
này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền
năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp2
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa
các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ
1Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

2Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tập san kiểm sát, (2)
lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này được giao
cho VKSND.3Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực hình sự, về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến
nay thì quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà
còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng
khác của VKS trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ
án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba: Là quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại
trong lĩnh vực hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố kẻ
phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm (duy trì quyền công tố); ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho
VKSND. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể có quyền công tố


- đó là VKS; việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là
Tố tụng hình sự (TTHS) và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là
giai đoạn xét xử sơ thẩm.4
Theo tác giả, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá
thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố;
không những vậy còn không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền công tố.
Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của Viện kiểm sát tại phiên ṭa chỉ là
một trong số những nội dung của hoạt động THQCT.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội.5Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ
có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan điều tra, Tòa
án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều

tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm
khác nhau.Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó. Tuy
vậy, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt
động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các
nước khác cho thấy các quan điểm nêu trên đã bộc lộ một số bất cập như: Hoặc
là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố
chỉ là quyền năng của VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng
phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu
hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Theo tác giả luận văn, để làm rõ khái niệm quyền công tố, phải xuất phát


từ lịch sử Nhà nước và pháp luật. Dù muốn hay không, chúng ta không thể
không thừa nhận Nhà nước ra đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho
xã hội (xét về mọi phương diện). Trong xã hội có giai cấp, bất kể là xã hội nào,
có nhiều loại quan hệ còn tồn tại, nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ xã
hội cơ bản: nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích công cộng và nhóm quan hệ xã
hội thể hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói chung luôn luôn có trách
nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội
chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội này. Nhà nước bảo
vệ các quan hệ xã hội loại này bằng cách quy định phạm vi những hành vi nguy
hiểm cho xã hội là tội phạm và hình phạt với các tội phạm. Nhà nước thông qua
cơ quan chuyên môn của mình là VKS có quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước
Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quyền công tố là quyền của VKS
thay thế Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm
tội. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất đó là lĩnh vực TTHS.Ở nước
ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho một cơ quan duy nhất là VKS, không

có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được. Điều này thể hiện qua các quy định
của pháp luật, các kiến, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước:
- Khi nói về vai trò nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã
khẳng định: "Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân
phải trông nom, đảm bảo tốt".
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp".6
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những nội


dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm
của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được
tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSNDTC đã
khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
- Hiến pháp 2013 (Điều 107) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp".7Quy dịnh này cũng được
cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 2 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003).
Như vậy có thể thấy quyền công tố ở nước ta được giao cho một chủ thể
duy nhất đó là Viện kiểm sát. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS và có ở
tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử
Từ những nội dung được trình bày trên, tác giả cho rằng: Quyền công tố
ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKSND thực hiện việc buộc tội đối
với người phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố
Khái niệm quyền công tố và THQCT có quan hệ mật thiết với nhau, giải

quyết chính xác, rõ ràng, rành mạch những vấn đề liên quan đến khái niệm
quyền công tố và THQCT sẽ giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ, chính xác vị
trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, trong mối
quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng cũng như chức năng, nhiệm vụ của
VKS, đặc biệt là trong TTHS. Điều này có nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn hiện nay khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các Nghị quyết của
Đảng về cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách cơ quan tư pháp.
Cũng như khái niệm quyền công tố, khái niệm THQCT cũng ít được đề
cập đến trong các tài liệu pháp lý ở nước ta và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này.


Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Đây là quyền của Nhà nước
nhưng được giao cho cơ quan duy nhất là VKS. Phạm vi quyền này bắt đầu từ khi
có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị. Để đảm bảo thực hiện quyền công tố thì Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công
tố.Các quyền năng đó được giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội phạm và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Do đó, VKS chính là cơ quan duy
nhất THQCT. Thực tiễn hoạt động THQCT mấy chục năm qua của ngành Kiểm sát
cho thấy 100% các vụ án hình sự đều do VKS truy tố và thực hiện sự buộc tội trước
phiên tòa sơ thẩm, đưa ra lời kết luận của mình tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Việc Cơ quan điều tra và Tòa án thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, cơ
quan điều tra bắt giữ người phạm tội, điều tra thu thập chứng cứ...thực chất chỉ là
những hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho công tác công tố. Trước cơ sở kết quả điều
tra, lời luận tội của Kiểm sát viên và kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, Tòa
án áp dụng pháp luật để quy kết trách nhiệm đối với bị cáo. Bản án kết tội của Tòa
án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội.

Pháp luật hiện hành cũng đã có quy định cụ thể về THQCT tại Điều 3
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự”
Phạm vi thực hành quyền công tố: Theo quy định của pháp luật nước ta
thì cơ quan VKS có trách nhiệm thực hành quyền công tố trong tất cả mọi giai


đoạn của TTHS từ điều tra, truy tố đến xét xử (bao gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm).
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội; để đảm bảo thực hiện được sự buộc tội nhân danh
Nhà nước đó pháp luật quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, các chức năng,
nhiệm vụ đó chính là thực hành quyền công tố.8Như vậy, có thể thấy rõ quyền
công tố là cơ sở của thực hành quyền công tố, phải có quyền công tố thì mới có
thực hành quyền công tố cho nên để xem xét phạm vi của thực hành quyền công
tố thì trước hết phải xem xét đến phạm vi của quyền công tố. Như phần trên đã
nêu, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện … Còn
thực hành quyền công tố thì chỉ phát sinh kể từ thời điểm vụ án được khởi tố
bằng quyết định chính thức của cơ quan có thẩm quyền - tức là khi cơ quan tố
tụng đã áp dụng một trong các biện pháp thực hành quyền công tố. Tuy nhiên,
trên thực tế có không ít những trường hợp mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng
không được khởi tố; điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khoa học
pháp lý gọi là "tội phạm ẩn" (tức là những tội phạm trên thực tế đã xảy ra nhưng
chưa được khởi tố để điều tra)9cho nên cơ quan tố tụng không áp dụng được bất
cứ một biện pháp thực hành quyền công tố nào. Qua đây, có thể thấy rằng phạm
vi của thực hành quyền công tố hẹp hơn so với phạm vi của quyền công tố, nó
chỉ bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực

pháp luật (trừ trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ).
Nội dung của thực hành quyền công tố:Nội dung thực hành quyền công
tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc
lập để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm bảo đảm việc
truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và được thực hiện ngay từ khi khởi
tố vụ án đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Theo đó, nội dung thực hành


quyền công tố bao gồm: Khởi tố vụ án; khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và
yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một
số hoạt động điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; hủy bỏ các
8Lê Cảm (2001), "Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa
học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về
quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hà
Nội
9Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Nhà nước và pháp luật (10)
quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra; quyết định
truy tố bị can; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những phân tích nêu trên ta có thể rút ra kết luận: Thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động do Nhà nước qui định nhằm truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền
sở hữu của cá nhân, tổ chức.
1.1.2. Khái niệm Kiểm sát điều tra
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ
- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì "kiểm
sát" có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc

gia chỉ đạo biên soạn, thì "kiểm sát" là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Với cách giải thích khái niệm "kiểm sát" của hai cuốn từ điển nêu trên,
chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và
kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối


tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để
yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa vi
phạm đó. Hoạt động kiểm tralà hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của
người, cơ quan bị kiểm tra.
Kiểm sát điều tra nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn
kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 107 Hiến pháp
năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta
chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt
động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm
này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng trong suốt một thời gian dài
chúng ta chưa quan tâm đúng mực đến lĩnh vực tư pháp, điều đó thể hiện ở việc
trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư
pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó
đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp, trong
đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp".10Do vậy, hiện nay xung quanh
khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp” đang còn có nhiều quan điểm khác
nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng "Kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ
bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án"11

Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng "Kiểm sát các hoạt động tư pháp bao
gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư


pháp" trong thi hành án"12
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng hoạt động tư pháp là một dạng hoạt
động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài
cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát
xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là
một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của VKS.
Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra,
xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng
thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố
tụng mà pháp luật quy định.13
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả
Luận văn trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức
năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát
Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy
10Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
11Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát,
tập 3.
12Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát,
tập 3.

13Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát,
tập 3.
nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các


×