Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN CÔNG CƯỜNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN CÔNG CƯỜNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
luận, số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ tin cậy và chưa được
công bố trong một công trình khoa học nào khác./.

Xác nhận của giảng viên
hướng dẫn

Tác giả

GS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Nguyễn Công Cường


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

KSV

Kiểm sát viên

KTV

Kiểm tra viên

KSND

Kiểm sát nhân dân

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...............
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự................................................................................. ..
1.2. Đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự.......................................................................
1.3. Nội dung và đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự..............................................................
Kết luận chương 1..........................................................................
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.....................
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự......................
2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành hoạt động thực hành quyền công

tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.........................................
Kết luận chương 2.........................................................................
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ...................................................................................................
3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tăng cường hướng dẫn triển
khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015............................
3.2. Các giải pháp khác....................................................................
Kết luận chương 3..........................................................................
KẾT LUẬN....................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
8
8
13
18
23

25
25
48
56
67

69
69
76
85

87



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến định của
Viện kiểm sát nhân dân, việc đảm bảo thực hiện chức năng này cũng là nhiệm
vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, đã
được thể chế hóa trong các Nghị quyết của Đảng. Tại Nghị quyết số 08 ngày
21/1/2002 đã nhấn mạnh: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại
phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác...". Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính
trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020” đã chỉ ra phương hướng hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân phải theo hướng bảo đảm
thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trên tinh thần của
Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đặt ra yêu cầu
cụ thể với ngành kiểm sát đó chính là “Tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra… Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành
quyền công tố”.
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần các Nghị quyết của Đảng,
trải qua 56 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đã luôn cố

gắng hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước tin tưởng giao phó, góp phần
quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quyền dân chủ của công dân.


2

Bên cạnh những thành tựu tích cực đã đạt được, công tác thực hành
quyền công tố vẫn còn tồn tồn tại nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan
người vô tội gây bức xúc trong dư luận; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của
công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các
cơ quan tư pháp. Nguyên nhân sâu xa của những tồn tại đó là do việc thực
hiện chưa tốt công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Nhận thức được thực trạng đó, trong những năm gần đây các học giả đã
có nhiều có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra, nhưng chủ yếu các công trình này đều nghiên cứu
dưới góc độ lý luận của vấn đề thực hành quyền công tố mà chưa nghiên cứu
dưới góc độ tổ thức thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra. Bên cạnh đó trong các công trình nghiên cứu về hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra thì vẫn còn tồn tại những quan điểm lý
luận chưa thống nhất về hoạt động này.
Như vậy, dưới góc độ lý luận hoạt động thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, về
thực tiễn vẫn còn có những thiếu sót chưa được hoàn thiện, chưa đáp ứng
được yêu cầu của cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết 08, 48, 49 – Bộ
Chính trị. Chính vì vậy, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố nói riêng trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự tác giả đã lựa chọn đề tài "Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự".

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra nói riêng đã được một số sách, báo, công trình khoa
học, Luận văn nghiên cứu. Cụ thể:
Quyền công tố ở Việt Nam của Lê Thị Tuyết Hoa, Viện Nhà nước và
Pháp luật, năm 2002. Trong Luận án, tác giả nghiên cứu về các vấn đề lý luận


3

về quyền công tố ở Việt Nam và một số nước trên thế giới từ đó xây dựng
định nghĩa về quyền công tố, phân biệt công tố và tư tố và các vấn đề chung
về quyền công tố và từ đó hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền
công tố. Đáng chú ý nhất là các giải pháp để phát huy quyền chủ động và
quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn điều tra; việc bảo đảm quyết định truy tố, quyết định đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án có căn cứ và đúng pháp luật.
Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam của Đặng Việt
Hà, Học viện khoa học xã hội và nhân văn, năm 2015. Trong Luận văn, tác
giả nghiên cứu về vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra. Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về các vụ án xâm phạm
sở hữu.
Quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Phạm Thị Thùy Linh Trường đại học Luật Hà Nội năm 2012. Trong
Luận văn, tác giả chủ yếu nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và từ đó đề ra các giải pháp
nhằm khắc phục một số quy định BLTTHS 2003.
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các trường đại
học, học viện như Học viện khoa học xã hội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học

Kiểm sát...; Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự của Học viện khoa
học xã hội, Đại học luật Hà Nội;
Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ 1945 đến nay (năm 1999), Viện KSND tối cao thực hiện. Nội
dung đưa ra các vấn đề về lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát
và đưa ra các lý luận chuyên sâu về quyền công tố và thực hành quyền công
tố từ năm 1945 đến năm 1999.


4

Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp (năm 2003), Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện.
Nội dung của bài viết nêu ra các giải pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm
của Kiểm sát viên và hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Chuyên đề "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra"
do Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án trật tự xã hội, Viện
KSND tối cao thực hiện năm 2013. Chuyên đề nghiên cứu các quan điểm về
quyền công tố từ đó tổng hợp đưa ra quan điểm thống nhất về quyền công tố.
Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố và đưa ra các giải pháp nhằm
tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (2008), Lê Hữu Thể
chủ biên. Nội dung cuốn sách phân tích chi tiết cụ thể về quyền công tố, thực
hành quyền công tố, hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
và mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra …
Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các tác giả đăng tải trên Tạp chí
kiểm sát, Tạp chí Luật học, cũng đề cập đến thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra. Nhưng cho đến nay, khái niệm, nội dung và phạm vi của
hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn
còn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề thực

hành quyền công tố trong trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn
thi hành các quy định đó, đề tài đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam


5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ vấn đề lý luận như khái niệm, phạm vi, nội dung về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .
- Nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện
quy định của pháp luật trong việc tổ chức thực hành quyền công tố ở nước ta
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong những năm gần đây
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn làm rõ nguyên nhân hạn
chế của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, làm sơ sở cho việc đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự trong
thời gian tới.
4. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung, đặc điểm của thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là gì?
- Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như thế nào? Thực trạng thực
hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2011 đến năm 2015 trên toàn quốc ra
sao? Có những ưu điểm, hạn chế vướng mắc gì? Nguyên nhân của thực trang
đó là gì?
- Những giải pháp khắc phục các hạn chế đồng thời nâng cao chất
lượng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự trong thực tiễn?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật liên quan tới công tác


6

thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Mặc dù BLTTHS 2015 đã được ban hành nhưng vẫn chưa có hiệu lực
thi hành vì vậy đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu công tác THQCT
của Viện kiểm sát nhân dân không bao gồm VKS quân sự các cấp và chỉ
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật TTHS
Việt Nam năm 2003, trong 5 năm (từ 2011 đến 2015).
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong tố
tụng hình sự.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương
pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn cơ lý luận về chức năng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nói chung và đặc biệt là trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
Điều tra viên, KSV các cấp nghiên cứu vận dụng trong thực tiễn công tác để
nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả hoạt động này. Đồng thời có thể giúp
các nhà quản lý, lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng trong công tác quản lý,
quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ; trong xây dựng, hoàn thiện các văn bản
pháp luật, quy chế nghiệp vụ liên quan đến thực hành quyền công tố trong


7

hoạt động điều tra án hình sự. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa
học luật.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 Chương:
Chương 1: Lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án
hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án hình sự và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố trong điều tra
vụ án hình sự.



8

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
Thực hành quyền công tố là một trong những hoạt động đặc biệt mà Đảng
và Nhà nước đã giao cho Viện kiểm sát, việc nghiên cứu về hoạt động này hiện
nay không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong khoa học pháp lý mà cả trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, việc nhận thức chính xác về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định vị trí và vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan tư pháp khác từ đó nắm bắt được
chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.
Thời gian gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về chức năng
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhưng chủ yếu là luận bàn, nghiên cứu về quyền
công tố của Viện kiểm sát mà không đi sâu vào vấn đề thực hành quyền công
tố. Mặt khác các công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố thì nhiều
công trình còn nhầm lẫn gần như đồng nhất thực hành quyền công tố với
quyền công tố hoặc các vấn đề về khái niệm thực hành quyền công tố còn
chưa rõ ràng về cả nội dung, phạm vi, mối quan hệ giữa thực hành quyền
công tố với các chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Một
bộ phận khác khi đề cập đến vấn đề thực hành quyền công tố thì lại gắn thực
hành quyền công tố với những nhiệm vụ cụ thể của Kiểm sát viên như lập cáo
trạng, luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền
công tố, thậm chí có những quan điểm còn cho rằng thực hành quyền công tố
chỉ là hoạt động buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm1.
Theo tác giả những cách hiểu trên chưa được chính xác và đôi khi có
1


Nguyễn Thái Phúc, Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ
yếu đề tài cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt
động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” H1999, tr 28-38


9

phần bó hẹp lại khái niệm thực hành quyền công tố. Đề có thể hình thành và
hiểu được khái niệm thực hành quyền công tố thì trước hết ta phải hiểu được
nội dung về các khái niệm: quyền công tố và thực hành quyền công tố, giai
đoạn điều tra.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Công tố là truy tố, buộc tội bị cáo và phát
biểu ý kiến trước Tòa án, nhân danh Nhà nước”2. Từ điển Luật học định
nghĩa: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người
phạm tội”3. Như vậy có thể hiểu, quyền công tố là cái quyền thay mặt Nhà
nước để buộc tội và luận tội bị cáo ra trước Tòa án về hành vi phạm tội của bị
cáo.
Trong khoa học pháp lý, công tố là một quyền: Quyền công tố hình
thành với tư cách là trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội nhằm xử lý tội
phạm bảo đảm trật tự xã hội, quyền này được thực hiện xuyên suốt từ việc
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Từ khi có quyền công tố thì Nhà nước là
chủ thể duy nhất được thực hiện, quyền công tố không còn là nhiệm vụ của tư
nhân trong việc khởi tố và điều tra, trong việc truy tố và xét xử nữa. Xuyên
suốt quá trình đó là hoạt động chứng minh tội phạm của cơ quan được giao
chức năng thực hành quyền công tố.
Quyền công tố là một trong những quyền thuộc quyền lực của Nhà
nước và quyền này gắn với bản chất mỗi kiểu nhà nước sẽ có những đặc
điểm khác nhau. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự và thông
thường quyền này thường được giao cho một cơ quan nhà nước chuyên trách.
Khi có tội phạm xảy ra, Cơ quan này trong quá trình thực hiện việc truy cứu

trách nhiệm hình sự với người phạm tội phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu
thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Khi có
đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, cơ quan Công
tố sẽ quyết định việc truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ quan điểm buộc
2

Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng. Tr 210
Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội. Tr
298
3


10

tội trước phiên toà. Do vậy, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị. Đối tượng của quyền công tố là hành vi phạm tội của bị can, bị cáo và
nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với họ.
Tóm lại, xuất phát từ các căn cứ lý luận được phân tích ở trên, theo tác
giả: Quyền công tố là quyền lưc công được Nhà nước trao cho cơ quan nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về
tội phạm mà người đó đã thực hiện và bảo vệ việc truy tố trướcTòa án.
- Thực hành quyền công tố:
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lí
thuyết vào thực tế”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”4. Đối với khoa
học pháp lý, chúng ta có thể hiểu thực hành là thực hiện việc áp dụng các lý
luận pháp lý vào thực tiễn.
Từ điển Luật học giải thích “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét

xử”5.
Trong pháp luật Hình sự Việt Nam, từ Hiến pháp năm 1980, văn bản
pháp lý đầu tiên của nước ta đưa ra thuật ngữ “thực hành quyền công tố” tại
Điều 138 khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân đến nay thì
mọi văn bản pháp luật đều thống nhất quy định rằng Viện kiểm sát là cơ quan
nhà nước duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố. Như vậy,
có thể nói Viện kiểm sát là cơ quan độc quyền có quyền truy tố và thực hiện
sự buộc tội bị cáo trước Toà án. Đây chính là điểm đặc biệt chỉ có ở Viện
kiểm sát và có thể dùng để phân biệt rõ nhất với các cơ quan Nhà nước khác
nói chung và cơ quan tư pháp khác nói riêng như Tòa án, Cơ quan điều
tra...Điều này cũng phủ định hoàn toàn quyền tư tố trong lĩnh vực pháp luật
4

Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng. Tr 973
5
Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội. Tr
457


11

hình sự Việt Nam. Đối với một số các tội phạm mà người bị hại có quyền yêu
cầu khởi tố thì chúng ta không thể hiểu đó là quyền tư tố mà người bị hại ở
đây chỉ có quyền yêu cầu khởi tố mà thôi còn quyền công tố (buộc tội và bảo
vệ sự buộc tội trước tòa) thì không thuộc về người bị hại mà thuộc về Viện
kiểm sát. Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền truy tố và buộc tội bị
cáo, điều này đã được tổng kết và khẳng định một lần trong Nội san công tác
kiểm sát số 3/1968: “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành
Kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính

sách của Đảng hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom,
bảo đảm làm tốt”6 và một lần nữa được khẳng định tại Điều 20 Bộ luật hình
sự mới nhất ban hành năm 2015: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc
tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”.7
Theo tác giả: Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử
dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng thuộc nội dung quyền công tố theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội về tội phạm đã thực hiện trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Theo tố tụng Việt Nam thì quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia
thành 5 giai đoạn: giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai
đoạn xét xử, giai đoạn thi hành án. Trong đó mỗi giai đoạn đều thực hiện
Kết luận về công tác kiểm sát năm 1968, Nội san công tác kiểm sát số
3/1968, Tr 55
7
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Tr 19
6


12

những nhiệm vụ khác nhau, giai đoạn trước làm căn cứ để thực hiện giai đoạn
sau. Và đại đa số các quan điểm đều cho rằng Viện kiểm sát là cơ quan phải
chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt động của Cơ quan điều tra trong các giai

đoạn Khởi tố, Điều tra. Trong 5 giai đoạn đó thì giai đoạn điều tra là giai đoạn
góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát hiện chính xác, kịp thời mọi
hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò như vậy, nên việc xác định
đúng phạm vi tố tụng hình sự của Viện kiểm sát ở giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là hết sức cần thiết. Vậy giai đoạn điều tra là gì? Theo từ điển Tiếng
Việt, điều tra là “tìm hỏi, xem xét để biết rõ sự thật” 8. Từ điển Luật học giải
thích: “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”9. Như vậy
chúng ta có thể hiểu giai đoạn điều tra là giai đoạn tìm kiếm, xem xét các
chứng cứ nhằm tái hiện lại sự kiện phạm tội một cách chính xác nhất nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ án, tìm ra ai là người thực thiện tội phạm
và thực hiện tội phạm đó như thế nào. Các nhiệm vụ đi tìm và thu thập chứng
cứ này thường do Cơ quan điều tra thực hiện và Viện kiểm sát có trách nhiệm
giám sát việc thực hiện này. Cũng chính vì lý do này mà gây ra nhiều sự
nhầm lẫn rằng trong quá trình điều tra Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp hoặc nhầm lẫn giữa hoạt động thực hành quyền
công tố và hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát là các hoạt động nhằm vào việc buộc tội và các
biện pháp tác động vào quyền nhân thân của người phạm tội như hạn chế
hoặc tước bỏ một số quyền tự do của người phạm tội, cụ thể như các biện
pháp yêu cầu bắt giam giữ và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác; còn
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra là hoạt động
hướng đến sự tuân thủ pháp luật của Cơ quan điều tra trong giai đoạn này

8
9

Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr 322
Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội



13

nhằm bảo đảm mọi hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra đều được thực
hiện đúng theo quy định của pháp luật, nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp
luật thì Viện kiểm sát sẽ kiến nghị, yêu cầu các chủ thể vi phạm chấm dứt
ngay hành vi vi phạm pháp luật.
Vậy, tổng hợp từ những phân tích trên, theo tác giả: Thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra là hoạt động của Viện kiểm sát sử dụng các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, bảo đảm cho quá trình điều tra có căn cứ, hợp pháp.
1.2. Đối tượng và phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự
Như đã đề cập ở trên, trong các tài liệu pháp lý ở nước ta hiện nay chủ
yếu chỉ đề cập đến vấn đề quyền công tố, đối tượng của quyền công tố, vấn đề
thực hành quyền công tố cũng như đối tượng của thực hành quyền công tố,
mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp còn ít được đề cập và chưa
rõ ràng. Một số chuyên đề pháp lý gần đây khi đề cập đến hoạt động thực
hành quyền công tố vì chưa nắm rõ được đối tượng của thực hành quyền công
tố nên cũng chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả các khâu công tác kiểm sát hình sự.
Đối tượng của thực hành quyền công tố được hiểu là cái mà thực hành
quyền công tố tác động vào nhằm đạt được một mục đích cụ thể nào đó. Về
bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt động nhân danh Nhà nước thực
hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với người phạm tội có căn cứ pháp luật, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội được phát hiện đều được khởi tố, điều tra,xử lý theo pháp luật,
không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Ta có thể hiểu một
cách đơn giản rằng, thực hành quyền công tố chính là việc hiện thực hóa


14

quyền công tố, đưa quyền công tố là quyền của Nhà nước vào đời sống xã
hội. Do vậy, đối tượng tác động của thực hành quyền công tố và đối tượng
của quyền công tố là giống nhau. Tuy nhiên hiện nay, do xuất phát từ các
quan niệm khác nhau về quyền công tố, nên nhận thức về đối tượng của
quyền này cũng khác nhau kéo theo nhận thức về đối tượng của thực hành
quyền công tố không thống nhất. Để có nhận thức thống nhất và chính xác về
đối tượng thực hành quyền công tố tác giả nêu một số quan điểm về quyền
công tố và đối tượng quyền công tố cũng là đối tượng thực hành quyền công
tố như sau:
+ Quan điểm đồng nhất quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật quan niệm: đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
+ Quan điểm coi quyền công tố là quyền của Nhà nước cáo buộc đối
với các cá nhân, tổ chức xã hội vi phạm pháp luật quan niệm: đối tượng của
quyền công tố chính là các hành vi vi phạm pháp luật.
+ Quan điểm coi quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội
truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi phạm tội hoặc
hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích Nhà nước, lợi ích chung quan
niệm: đối tượng của quyền công tố là tội phạm, người phạm tội và những vụ
việc xâm hại đến lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính….
Những cách hiểu như vậy vô hình chung đã thu hẹp đối tượng của
quyền công tố do đã gắn đối tượng của quyền công tố với các hành vi cụ thể,

những vụ việc cụ thể.
Theo tác giả, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm
tội. Do đối tượng tác động của thực hành quyền công tố cũng chính là đối
tượng của quyền công tố, nên đối tượng tác động của thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra cũng là tội phạm và người phạm tội.
Việc xác định đúng đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra đã góp phần giúp cho việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo đảm
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có căn cứ pháp luật,


15

bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều được khởi tố, điều tra,xử lý
theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
Nói về phạm vi thực hành quyền công tố tại đây tác giả sẽ cố gắng làm
rõ phạm vi thực hành quyền công tố nói chung và phạm vi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng bắt đầu và kết thúc như thế nào.
Quá trình giải quyết vụ án được chia thành 5 giai đoạn chính: Khởi
tố (bao gồm cả hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố), Điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó:
- Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong
đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của
tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời
ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên
quan đến hành vi đó.
- Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó Cơ quan điều
tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát

của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố
các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh
chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi
thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định:
Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án
đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
- Truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó
Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành
các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách qua các tài
liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị
truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra


16

quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội
trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ
án hình sự.
- Xét xử là giai đoạn thứ tư, trong giai đoạn này Tòa án có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng
các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo
thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả
tranh tụng để phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi,
có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu
bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của
bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng,
tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết

vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ
và đảm bảo sức thuyết phục.
Về phạm vi thực hành quyền công tố, có nhiều quan điểm cho rằng việc
xác định phạm vi thực hành quyền công tố cũng tương tự như cách xác định đối
tượng thực hành quyền công tố đó là đồng nhất phạm vi thực hành quyền công tố
với phạm vi quyền công tố. Tuy nhiên theo tác giả phạm vi quyền công tố có phần
“rộng” hơn phạm vi của thực hành quyền công tố vì các lý do sau:
Với quan điểm cho rằng phạm vi quyền công tố đồng nhất với thực
hành quyền công tố có nghĩa là phạm vi bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
vụ án. Tuy nhiên tác giả cho rằng quyền công tố là quyền buộc tội vì thế
quyền này được phát sinh ngay từ khi có hành vi phạm tội xảy ra, nếu chỉ hiểu
rằng quyền công tố chỉ bắt đầu từ khi hành vi phạm tội được phát hiện, tố
giác, thụ lý giải quyết, khởi tố thì đây chỉ là cách hiểu đối với các tội phạm rõ.
Trên thực tế, ngoài tội phạm rõ ( tội phạm đã được phát hiện và khởi tố vụ án)
thì còn nhiều hành vi phạm tội chưa được phát hiện (tội phạm ẩn) thì cũng cần
phải buộc tội đối với những tội phạm này chính vì vậy mà tác giả đồng tình


17

với quan điểm phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm được thực
hiện “quyền công tố luôn luôn treo trên đầu đối với tất cả những người đã
thực hiện hành vi tội phạm nhưng chưa bị phát hiện khởi tố, điều tra”10.
Mặt khác, thực hành quyền công tố là hoạt động thực hiện việc buộc tội
theo pháp luật thì hoạt động này phải được thực hiện theo quy định của pháp
luật. Theo đó, Bộ luật TTHS 2015 quy định thì phạm vi thực hành quyền
công tố nói chung bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi
có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án không bị kháng nghị hoặc đình chỉ
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự . Như vậy, phạm vi thực hành
quyền công tố chỉ xuất hiện đối với các tội phạm rõ mà không xuất hiện đối

với tội phạm chưa được phát hiện (tội phạm ẩn). Quan điểm này một lần nữa
được khẳng định tại Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2012 đã chỉ rõ: “Hoạt động
công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người
tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…”
Tóm lại, qua các phân tích trên ta thấy phạm vi quyền công tố có phần
rộng hơn so với phạm vi thực hành quyền công tố ở điểm bắt đầu và trùng
nhau tại điểm kết thúc. Phạm vi thực hành quyền công tố nói chung bắt đầu
khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật
của tòa án không bị kháng nghị hoặc đình chỉ theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự.
Vấn đề tiếp theo là phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra là bắt đầu và kết thúc ở đâu. Điều tra là giai đoạn trong đó cơ quan có
thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ

10

TS Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2005), Thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nhà
xuất bản tư pháp. Tr 59.


18

án11 . Trong giai đoạn này Cơ quan điều tra sẽ tiến hành các hoạt động thu
thập chứng cứ và Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra để bảo đảm cho mọi hoạt động điều tra được tiến hành đúng
pháp luật.

Như vậy, về phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
của Viện kiểm sát tương đồng với phạm vi tiến hành hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra. Hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra được tiến hành
chính thức sau khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi có một trong
các loại văn bản kết thúc điều tra: Kết luận điều tra hoặc Quyết định đình chỉ
điều tra và song song với Cơ quan điều tra, phạm vi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra cũng bắt đầu khi có quyết định khởi tố vụ án và kết
thúc khi có một trong các loại văn bản kết thúc điều tra: Kết luận điều tra
hoặc Quyết định đình chỉ điều tra.
1.3. Nội dung và đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
1.3.1. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
Việc xác định nội dung thực hành quyền công tố có ý nghĩa quan trọng
nhằm xác định hoạt động nào thuộc thực hành quyền công tố hoạt động nào
thuộc kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát rất dễ bị nhầm với hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp vì
hai hoạt động này nếu không nắm chắc được về mặt lý luận sẽ rất dễ nhầm lẫn
vì hai hoạt động này gắn bó mật thiết với nhau, luôn song hành cùng nhau
không tách rời hoạt động này sẽ tạo cơ sở để hoạt động kia được thực hiện và
khi thực hiện tốt hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ lại tác động ngược
trở lại hoạt động thực hành quyền công tố giúp cho hoạt động THQCT được
chính xác, đúng người đúng tội. Chính vì vậy mà trước đây một thời gian dài

11

Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), Giáo trình Luật tố tụng hình sự (2013),
Trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Tr 265



19

đã có sự nhầm lẫn giữa hai hoạt động này.
Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng “tổng
hợp” những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm
oan người vô tội. Bên cạnh đó, Kiểm sát hoạt động tư pháp (trong lĩnh vực
hình sự) là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu các hoạt động của Viện kiểm sát nhằm
phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) thì sẽ thuộc thực
hành quyền công tố còn hoạt động nào nhằm bảo đảm phát hiện vi phạm pháp
luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm bảo đảm
việc điều tra phải tuân thủ các nguyên tắc, trình tự thủ tục, thẩm quyền theo
quy định của pháp luật sẽ thuộc kiểm sát hoạt động tư pháp.
Sau khi đã phân định ranh giới giữa thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp thì vấn đề tiếp theo là nội dung thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra bao gồm những hoạt động nào? Đây là vấn đề đang có
nhiều quan điểm:
Có quan điểm cho rằng nội dung thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra bao gồm cả hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các hoạt
động bắt, tạm giữ…, quyết định truy tố bị can.

12

Với cách hiểu như vậy thì

hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đã lấn sang một phần

của giai đoạn khởi tố vụ án và giai đoạn truy tố. Cụ thể theo tác giả hoạt động
điều tra là hoạt động thu thập các chứng cứ tài liệu nhằm chứng minh tội
phạm và người phạm tội. Như vậy các hoạt động liên quan đến khởi tố vụ án,
TS Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường (2005), Thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Tr
66; Vụ công tác lập pháp – Viện khoa học kiểm sát, Những sử đổi cơ bản của
Bộ luật TTHS 2003, Nhà xuất bản tư pháp.
12


×