Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HỒNG ANH

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HỒNG ANH

THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố Tụng Dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ HỒNG YẾN



HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của tiến sĩ Vũ Thị Hồng Yến. Các nội
dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố
dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Trong luận văn có sử dụng một số
nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ
chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất
kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận
văn của mình.
Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2016

Trần Hồng Anh
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn:


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ......................... 6
1.1 Quy định chung về hợp đồng .................................................................. 6
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển .................................................... 6
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng ................................. 9
1.1.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng...........................................14
1.1.4 Hiệu lực của hợp đồng .................................................................17
1.2 Khái quát về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản .........20

1.2.1 Khái niệm điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản .20
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
cơ bản ....................................................................................................23
1.2.3 Các trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản dẫn đến điều chỉnh
hợp đồng................................................................................................25
1.2.4 Cách thức điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản..27
1.3 Pháp luật của các nước quy định về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản....................................................................................31
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN .............................................36
2.1. Các điều kiện để điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản 36
2.2 Nội dung điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.............45
2.3 Chủ thể điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản ...............49
2.4 Hậu quả pháp lý của việc điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản ....................................................................................................51
2.4.1 Nội dung mới của hợp đồng được thiết lập..................................52
2.4.2 Hợp đồng được chấm dứt hiệu lực...............................................55


Chương 3: XEM XÉT CÁC VỤ VIỆC THỰC TIỄN DƯỚI GÓC
ĐỘ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ
BẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT............................62
3.1 Xem xét các vụ việc thực tiễn dưới góc độ thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản ...........................................................................62
3.1.1 Một số vụ việc trong nước............................................................62
3.1.2 Một số vụ việc nước ngoài ...........................................................68
3.2 Hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
cơ bản...........................................................................................................73
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật .......................76
3.2.2 Một số giải pháp khác ..................................................................78

KẾT LUẬN ................................................................................................81


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, bởi hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có
mục đích kinh doanh hay nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường,
đều liên quan đến hợp đồng. Mục đích của pháp luật về hợp đồng là bảo vệ
quyền tự do ý chí của các bên, quyền tự do ý chí này chỉ bị hạn chế khi bảo vệ
trật tự công hoặc để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba. Hợp đồng
được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực ràng buộc với các bên, một bên không
được tự ý sửa đổi hoặc không tuân theo hợp đồng. Đây chính là yêu cầu mang
tính bản chất của hiệu lực hợp đồng và là nội dung cơ bản của nguyên tắc
hiệu lực bất biến (pacta sunt servanda) trong lĩnh vực hợp đồng.
Điều khoản Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản được
xem như sự thay đổi đáng kể trong chế định hợp đồng, là bước tiến mới mẻ
trong tiến trình lập pháp nước ta. Bởi lẽ, việc một bên yêu cầu bên còn lại
điều chỉnh hợp đồng đã giao kết khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong quá trình
các bên thực hiện hợp đồng chưa từng được nhắc đến trong Bộ luật Dân sự
năm 1995 cũng như Bộ luật Dân sự năm 2005. Khi xây dựng Bộ luật Dân sự
năm 2015 và ngay cả khi điều luật này được chính thức ghi nhận, các nhà
nghiên cứu thực sự dành nhiều sự quan tâm, bàn luận cũng như đóng góp ý
kiến liên quan đến nội dung này. Do vậy, việc nghiên cứu về vấn đề này là hết
sức cần thiết và cấp bách, không chỉ làm rõ nội dung cũng như hệ quả của quy
định này, mà còn là nền tảng để tìm hiểu thêm về những hạn chế hay bất cập
có thể xuất hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật sau này.



2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét từ phương diện lý luận nói chung, điều chỉnh hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản không phải là vấn đề hoàn toàn mới, vì nội dung này
được xem là nằm trong quy định về sửa đổi hợp đồng nói chung. Tuy nhiên,
khi Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên đưa ra điều khoản “Thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản”, trong đó cụ thể hóa các khía cạnh liên
quan đến điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, trường hợp áp
dụng quy định pháp luật cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên được xác
định rõ hơn rất nhiều, vấn đề này trở thành nội dung nổi bật đòi hỏi được nhìn
nhận và xem xét kỹ càng hơn trước.
Những bài viết nghiên cứu trong nước liên quan đến thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản chủ yếu được đăng tải trong khoảng thời
gian lấy ý kiến về dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2015. Vấn đề này thu hút được
nhiều sự quan tâm của các học giả, một số nhà nghiên cứu đã trình bày ý kiến
của mình trong các bài phỏng vấn, buổi tọa đàm,… chứ không chỉ thông qua
những tác phẩm được giới thiệu trong tạp chí chuyên ngành, ví dụ như trọng
tài viên Đỗ Văn Đại của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam đã giới thiệu
bài tham luận về “Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi” trong hội
thảo “Chế định hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi” tổ chức tại
Hà Nội tháng 3 năm 2015. Những công trình nghiên cứu không chỉ giới thiệu
nội dung mới của pháp luật mà còn phân tích ảnh hưởng của quy định đó
trong thực tiễn áp dụng, đồng thời có liên hệ pháp luật nước ngoài. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu có giá trị tham khảo lớn khác có thể được kể đến là
bài viết “Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp
luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Lê Minh Hùng
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử.



3

Trong khi số lượng tài liệu về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản của Việt Nam không nhiều, thì trên thế giới đây lại là đề tài nghiên
cứu có nguồn tài liệu tham khảo rất phong phú. Nội dung này thực sự là chủ
đề hấp dẫn và tạo ra nhiều tranh luận giữa các học giả từ hơn 200 năm trước
đến nay. Bên cạnh việc giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển của quyền
điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, phân tích các trường hợp
áp dụng, quyền và nghĩa vụ của các bên, hệ quả pháp lý,… các bài viết còn so
sánh để làm rõ sự khác biệt của quy định này giữa các quốc gia hoặc hệ thống
pháp luật trên thế giới, thu thập các vụ việc thực tế nổi bật ở mỗi nơi để làm
rõ cách áp dụng pháp luật. Một trong những tác phẩm được đánh giá là chi
tiết, dễ hiểu, dễ tiếp cận để tham khảo có thể được kể đến là cuốn sách “The
effect of a change of circumstances on the binding force of contracts Comparative perspectives”, độ dày khoảng 300 trang, của nhà nghiên cứu
người Chi lê Rodrigo Momberg Uribe phát hành năm 2011.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về nội dung liên quan đến thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản, chủ yếu tập trung vào khía cạnh điều chỉnh hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, dựa trên điều 420 Bộ luật Dân sự năm
2015 về “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản” và các quy định
chung về chế định hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành. Luận văn
không đề cập đến trường hợp điều chỉnh nội dung hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi cơ bản ở giai đoạn trước khi hợp đồng được ký kết, hay nói cách
khác là trong quá trình các bên vẫn đàm phán để soạn thảo nội dung hợp
đồng.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng đến làm rõ các khía cạnh của thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản, cụ thể là: đưa ra được khái niệm về điều chỉnh hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, phân tích các điều kiện được sử dụng để



4

đánh giá sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh khiến một bên có quyền yêu cầu
điều chỉnh hợp đồng, cách thức điều chỉnh hợp đồng, hệ quả của việc điều
chỉnh hợp đồng. Đồng thời, luận văn muốn giới thiệu về nội dung này trong
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới với mục đích tham khảo. Bên cạnh
đó, qua quá trình phân tích và nghiên cứu, luận văn đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn lần lượt làm rõ những nội dung chính sau đây:
- Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản là gì?
- Vì sao cần điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản?
- Pháp luật Việt Nam quy định thế nào về thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản?
- Quy định pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ
bản có vấn đề gì cần sửa đổi?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn bao
gồm: phương pháp phân tích quy phạm; phương pháp diễn dịch; phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh luật học; phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn. Các phương pháp này được sử dụng trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được xem như công trình nghiên cứu bước đầu về thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong pháp luật Việt Nam, có
dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài. Luận văn là kết quả của quá trình tổng
hợp và nghiên cứu công phu của người viết, do vậy luận văn có thể được sử
dụng như nguồn tài liệu tham khảo liên quan đến vấn đề này, giúp cho việc

nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này trong tương lai được thuận lợi hơn.


5

8. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng và thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản
Chương 2: Quy định pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi cơ bản
Chương 3: Xem xét vụ việc thực tiễn dưới góc độ thực hiện hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và kiến nghị hoàn thiện pháp luật


6

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN
1.1 Quy định chung về hợp đồng
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Chế định hợp đồng là một trong những nội dung nền tảng của luật dân
sự, được hình thành từ rất sớm và dần được hoàn thiện theo thời gian. Nhằm
đáp ứng các nhu cầu về sinh hoạt, tiêu dùng, mỗi cá nhân cũng như tổ chức
phải tham gia các quan hệ xã hội để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất.
Sự thiết lập các mối quan hệ như vậy được xem là tất yếu đối với mọi xã hội.
Quan hệ này được pháp luật điều chỉnh nhằm bảo vệ lợi ích của các bên tham
gia cũng như duy trì ổn định xã hội. Luật La Mã, hệ thống luật cổ được xây
dựng cách đây hơn 2000 năm, đã ghi nhận hợp đồng với bản chất là sự thỏa

thuận giữa các bên nhằm xác lập nghĩa vụ. Không chỉ xác định nhiều loại hợp
đồng dân sự như hợp đồng mua bán, thuê, ủy quyền…, Luật La Mã còn quy
định về nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng, điều kiện có hiệu lực và các
trường hợp chấm dứt của hợp đồng. Nhiều nội dung về hợp đồng của Luật La
Mã được kế thừa và phát triển trong pháp luật dân sự sau này.
Tại nước ta, trong thời thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ
luật Dân sự Napoleon năm 1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được
ban hành. Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ năm 1884 gồm có 11 thiên,
quy định về các vấn đề nhân thân, hộ tịch, giá thú, ly hôn, phụ hệ, con nuôi,
giám hộ…, không có quy định về hợp đồng. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban
hành năm 1931, gồm 1455 điều chia thành 1 Thiên sơ bộ và 4 Quyển, trong
Thiên sơ bộ đã ghi nhận nguyên tắc tự do khế ước. Bộ luật Dân sự Trung Kỳ
được ban hành năm 1936 bao gồm 5 Quyển (1709 điều), trong đó các quy
định về hợp đồng được xây dựng giống với Luật La Mã, đó là các nguyên tắc
cơ bản về hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng công nghệ,


7

hợp đồng vận tải. Phần khế ước của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ được đánh giá
là chi tiết và chặt chẽ hơn các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Đây chính
là những quy định đầu tiên về chế định hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, các nhà kinh doanh vẫn tiếp
tục sử dụng hình thức hợp đồng để thiết lập và duy trì mối quan hệ kinh tế,
đồng thời pháp luật về hợp đồng dần được hoàn thiện. Trong thời kỳ đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị
định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo đó là bản Điều lệ tạm thời về hợp
đồng kinh doanh. Sau đó, trước yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế, ngày
10/3/1975 Nhà nước ta ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế (kèm
theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ). Trong điều

kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các quan hệ hợp đồng
kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới, bản điều lệ về chế độ
hợp đồng kinh tế ban hành kèm Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 trở nên
không còn phù hợp nữa. Vì vậy, ngày 25/9/ 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
được ban hành, thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh
tế của Đảng, khẳng định giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với tư cách là
sự thống nhất ý chí của các bên. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản
pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành một hệ thống các quy phạm làm cơ
sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế
kinh tế mới.
Hiện tại, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại,
Luật Kinh doanh bảo hiểm…, trong đó Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc.
Bộ luật Dân sự quy định các vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp
luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên
tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Trên cơ sở các
quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của


8

các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những
quy định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó,
ví dụ như các quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương
mại, hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm… Các quy định về
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là các quy định chung còn các quy
định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được coi là các quy định
chuyên ngành. Trong trường hợp có sự không thống nhất giữa Bộ luật Dân sự
và luật chuyên ngành, các quy định chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng;
nếu luật chuyên ngành không có điều chỉnh về một nội dung cụ thể, điều

khoản có liên quan trong Bộ luật Dân sự có thể được xem xét để áp dụng.
Tuy rằng trong thực tiễn áp dụng, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam
hiện nay còn tồn tại một số hạn chế nhất định đang được các nhà làm luật tiếp
tục sửa đổi, bổ sung để bắt kịp với thực tiễn xã hội, nhưng nhìn chung các quy
định pháp luật về hợp đồng của nước ta được xem là khá tiến bộ và phù hợp
với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như pháp luật quốc tế. Trải qua
nhiều giai đoạn hoàn thiện, các chế định về hợp đồng đã phần nào quán triệt,
thể chế hoá các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của nhà
nước, cụ thể hoá các quyền về kinh tế, dân sự của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp và đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm
tăng cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn quyền
quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung
hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi phạm… Không những vậy,
Nhà nước luôn nỗ lực khuyến khích và bảo vệ quan hệ hợp đồng của các bên,
đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền tự do của các bên trong hợp đồng
cũng như lợi ích công công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.


9

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng và phổ
biến nhất được sử dụng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong xã hội. Có nhiều thuật ngữ khác được dùng để chỉ quan hệ hợp đồng
như: cam kết, giao kèo, khế ước, luật riêng của các bên tham gia giao kết…
Nếu mô tả theo cách thức đơn giản nhất, hợp đồng có thể được xem là “cam
kết có thể thực thi được bởi pháp luật”1. Cam kết đó là cam kết hợp pháp, với
nội dung là thực hiện một công việc hay không thực hiện một công việc nhất
định. Việc hình thành hợp đồng đòi hỏi sự đồng thuận của hai hoặc nhiều chủ

thể, trong đó thông thường một bên chủ thể đưa ra đề nghị và bên chủ thể còn
lại chấp thuận đề nghị đó, cùng với một số đề xuất bổ sung hoặc sửa đổi nếu
có. Khi một trong các bên không làm đúng cam kết, bên còn lại có quyền yêu
cầu pháp luật can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa “Hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”, tương tự như cách định nghĩa tại Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ
luật Dân sự năm 2015. Điều này được đánh giá là khái quát hơn so với quy
định tại Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, theo đó Pháp lệnh hợp
đồng dân sự năm 1991 định nghĩa “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên
trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không
làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Hợp đồng khi được xác lập sẽ
hình thành mối liên hệ pháp lý ràng buộc các chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng, là cơ sở để các bên hành động cũng như là căn cứ để giải quyết tranh
chấp có thể phát sinh trong tương lai. Quyền và nghĩa vụ của các bên được thể

1
Arthur Taylor von Mehren (2016), “Contract Law”, Encyclopaedia Britannica, tại địa chỉ
ngày truy cập 02/07/216.


10

hiện rõ trong nội dung hợp đồng, do đó các bên có nghĩa vụ tôn trọng và tuân
thủ những gì đã thỏa thuận và thống nhất. Mối liên hệ pháp lý ghi nhận trong
hợp đồng được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước,
bên nào vi phạm thỏa thuận sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành
vi vi phạm của mình.

Hợp đồng có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, hợp đồng phải có sự tham gia của các bên. Nếu như hành vi
pháp lý đơn phương chỉ là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể
thì hợp đồng đòi hỏi phải có ít nhất hai chủ thể đứng về hai phía của hợp
đồng. Chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp
thuận thì không thể hình thành quan hệ trao đổi lợi ích vật chất, do đó không
thiết lập được quan hệ hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân hoặc các loại chủ thể khác, được xác định rõ ràng trong hợp đồng
và đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về năng lực tham gia hợp đồng. Vì lý
do khách quan hoặc chủ quan, tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên và quy
định của pháp luật, các bên chủ thể của hợp đồng có thể thay đổi. Bên có
quyền có thể chuyển giao quyền yêu cầu theo hợp đồng sang cho chủ thể
khác, tương tự nghĩa vụ thực hiện theo hợp đồng có thể được chuyển giao từ
người có nghĩa vụ sang người thế nghĩa vụ. Trong trường hợp một bên chủ
thể của hợp đồng không còn tồn tại, không có chủ thể khác thay thế, quan hệ
hợp đồng sẽ được chấm dứt.
Thứ hai, hợp đồng được hình thành từ sự thống nhất ý chí của các chủ
thể. Việc thiết lập quan hệ để chuyển giao lợi ích vật chất giữa các chủ thể
không tự nhiên hình thành, bởi tài sản (thường là hiện thân của các lợi ích vật
chất) không thể tự tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài
sản chỉ được hình thành từ ý chí của các chủ thể, như Các Mác đã nhận xét:
“Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được.
Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng phải đối


11

xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” 2. Trong thực
tiễn đời sống xã hội, mỗi bên chủ thể khi tham gia vào hợp đồng thường theo
đuổi những lợi ích nhất định của riêng mình, họ thể hiện ý chí cũng như mong

muốn của mình cho phía bên kia xem xét trong quá trình giao kết hợp đồng.
Do đó, hợp đồng chính là kết quả của sự dung hoà các lợi ích giữa các bên.
Sự thống nhất ý chí không chỉ là mong muốn của các bên gặp gỡ nhau, mà
còn là sự thống nhất ý chí nội tại của mỗi bên chủ thể, ý chí bên trong và sự
thể hiện ý chí ra bên ngoài của một chủ thể phải đồng nhất với nhau. Nếu như
thoả thuận trong hợp đồng không phù hợp với ý chí thực sự của các bên thì có
thể dẫn đến việc giá trị pháp lý của hợp đồng không được thừa nhận.
Thứ ba, hợp đồng làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự. Các bên khi tham gia vào hợp đồng đều phải hướng đến
những đối tượng nhất định, có thể là tài sản (hữu hình hoặc vô hình) hoặc
hành vi (công việc phải làm hoặc công việc không được thực hiện). Những tài
sản hay hành vi đó phải là hợp pháp, được xác định cụ thể, đáp ứng được lợi
ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần cho chủ thể. Thoả thuận hướng đến những
chủ đích đó sẽ làm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Cụ thể, các bên sẽ được phép thực hiện
những hành động nhất định hoặc buộc phải xử sự theo những gì đã thỏa thuận
khi ở trong hoàn cảnh xác định. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng được các bên tự do thoả thuận, nhưng phải được đặt trong giới hạn bởi
lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để
các bên tự do vô hạn trong việc quy định những gì được làm và không được
làm thì hợp đồng sẽ trở thành phương tiện để người giàu bóc lột người nghèo
và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội.

2

Trường đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập II, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 91, trích trong tài liệu: Các Mác (1973) Tư bản, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 163.


12


Trong sự đa dạng của các loại hợp đồng, dựa vào các căn cứ nhất định,
hợp đồng được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau. Phân loại hợp đồng có
ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu, xây dựng pháp luật và thực tiễn pháp lý,
được các nhà khoa học và luật gia trên thế giới nhìn nhận nghiêm túc.
Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, hợp
đồng được phân thành hai loại: hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Phân
loại hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là cách phân loại đầu tiên được
nhắc tới trong các bộ luật dân sự Việt Nam. Hợp đồng song vụ là hợp đồng
mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, hay nói cách khác, mỗi bên chủ thể
của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự.
Trong nội dung của loại hợp đồng này, quyền dân sự của bên này đối lập
tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp đồng song
vụ được giao kết theo hình thức văn bản thì phải được lập thành nhiều bản để
mỗi bên giữ một bản hợp đồng. Hợp đồng song vụ có những vấn đề pháp lý
sau thường xuất hiện từ chính tính chất ràng buộc có đi có lại của nó: (1) Một
bên có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ nếu bên kia không thực hiện nghĩa
vụ; (2) Một bên có thể huỷ bỏ hợp đồng khi bên kia không thực hiện nghĩa
vụ; (3) Một bên không còn bị ràng buộc bởi hợp đồng nếu bên kia do gặp phải
trường hợp bất khả kháng mà không thực hiện được nghĩa vụ.
Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên chủ thể trong hợp đồng
có nghĩa vụ, hợp đồng chỉ làm phát sinh nghĩa vụ đối với một bên. Trong hợp
đồng đơn vụ không tồn tại sự có đi có lại về quyền và nghĩa vụ, một bên chỉ
có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có
quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào với bên còn lại. Việc xác
định quyền và nghĩa vụ đối với nhau giữa các chủ thể trong hợp đồng được
bắt đầu từ thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực. Các hợp đồng đơn vụ có sự
khác biệt căn bản với hành vi pháp lý đơn phương ở chỗ: hợp đồng đơn vụ
vẫn phải được tạo lập trên cơ sở thống nhất ý chí giữa hai bên chủ thể xác



13

định. Hợp đồng đơn vụ có thể bao gồm: hợp đồng tặng cho, hợp đồng vay,
hợp đồng gửi giữ…
Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng có liên
quan, hợp đồng được phân thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Hợp đồng
chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ (theo quy
định tại Khoản 3 Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2005). Các hợp đồng chính
khi tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định thì đương nhiên
phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên từ thời điểm giao
kết. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính
(Khoản 4 Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2005). Các hợp đồng phụ muốn có
hiệu lực phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung,
về hình thức... tuy vậy, dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên
nhưng hợp đồng phụ vẫn không có hiệu lực nếu hợp đồng chính (hợp đồng
mà nó phụ thuộc) bị coi là không có hiệu lực.
Dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, hợp đồng được
phân loại thành hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù. Hợp đồng
có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện
cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Lợi
ích trong hợp đồng có đền bù có thể được thể hiện dưới dạng lợi ích vật chất
cụ thể, nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần hoặc thể hiện ở một hành vi thực
hiện công việc, không được thực hiện một công việc nhất định. Hợp đồng
không có đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ bên
kia lợi ích nhưng không phải giao lại lợi ích nào. Như vậy, nếu tiền đề của
hợp đồng có đền bù là những lợi ích (thường là lợi ích vật chất) thì tiền đề của
hợp đồng không có đền bù có thể là mối quan hệ tình cảm sẵn có giữa các chủ
thể. Bên cạnh việc sử dụng hợp đồng làm phương tiện để trao đổi những lợi
ích, các chủ thể còn dùng nó làm phương tiện để giúp đỡ nhau.



14

1.1.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là phương thức ghi nhận nội dung thoả thuận
mà các chủ thể đã xác định. Những điều khoản mà các bên đã cam kết phải
được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Theo khoản 1 Điều
401 Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Như vậy, hình thức của hợp đồng
được pháp luật quy định tương đối đa dạng, tạo điều kiện thuận tiện cho chủ
thể lựa chọn hình thức phù hợp. Mỗi loại hình thức của hợp đồng đều có ưu
điểm và nhược điểm riêng, do vậy sẽ phù hợp với nội dung của các hợp đồng
khác nhau. Đối với những hợp đồng đặc thù mà pháp luật đã quy định các bên
buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định thì các bên phải tuân theo
hình thức được pháp luật xác định đó.
Hợp đồng giao kết bằng lời nói hoặc bằng hành vi thường được áp
dụng trong trường hợp các bên đã có sự tin tưởng với nhau, hoặc những giao
dịch đơn giản, rõ ràng, sẽ được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết,
ít xảy ra tranh chấp hoặc tranh chấp có thể được giải quyết nhanh chóng.
Trong khi đó, nếu các bên muốn nâng cao sự xác thực về những nội dung đã
được cam kết, đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết tranh chấp
có thể phát sinh sau này, các bên sẽ lập hợp đồng dưới dạng văn bản, mỗi bên
ký và giữ bên một bản làm bằng chứng chứng minh quyền và nghĩa vụ của
mình. Ngoài ra, đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh
chấp ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của mỗi bên và có đối tượng là những tài
sản thuộc sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước thì hợp đồng của các bên cần
được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng có hình thức
này sẽ có giá trị chứng cứ cao nhất. Do đó, đối với hợp đồng mà pháp luật
không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để đảm bảo tối đa quyền và

lợi ích của mình, các bên có thể công chứng hoặc chứng thực hợp đồng.


15

Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản theo thoả thuận của
các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Các điều khoản đó mô tả đối tượng
các bên hướng đến khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, xác định cụ thể quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, dự liệu những cách xử sự cần thiết
khi xảy ra tình huống nhất định, đồng thời quy định hậu quả bất lợi mà một
bên phải gánh chịu nếu không tuân thủ theo hợp đồng. Điều 402 Bộ luật Dân
sự năm 2005 quy định về nội dung của hợp đồng dân sự như sau:
Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những
nội dung sau đây:
Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải
làm hoặc không được làm;
Số lượng, chất lượng;
Giá, phương thức thanh toán;
Thời hạn, địa điểm, phương thực thực hiện hợp đồng;
Quyền, nghĩa vụ của các bên;
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Phạt vi phạm hợp đồng
Các nội dung khác
Tuỳ thuộc vào từng loại hợp đồng mà nội dung của hợp đồng có thể
khác nhau. Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở
hợp đồng này các bên không cần thoả thuận, nhưng ở một hợp đồng khác, các
bên buộc phải thống nhất thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Ví dụ, liên
quan đến chất lượng của hàng hoá, khi bên A và bên B ký kết hợp đồng với
nội dung vào ngày mùng 5 hàng tháng, bên B sẽ chuyển đến văn phòng của
bên A 5 thùng giấy in cỡ A4 nhãn hiệu X, các bên có thể không cần quy định

trong hợp đồng về chất lượng của giấy in, vì sản phẩm này đã được sản xuất
và đóng gói theo một cách thức nhất định khi bán ra thị trường. Tuy nhiên,
nếu bên A và bên B ký hợp đồng để bên B cung cấp và vận chuyển 5 tấn hải


16

sản từ Hải Phòng vào thành phố Hồ Chí Minh, các bên buộc phải thoả thuận
rõ chất lượng hàng hoá được cung cấp, đặc biệt là thỏa thuận về điều kiện bảo
quản trong quá trình vận chuyển cũng như tình trạng của hàng hoá khi đến
thành phố Hồ Chí Minh.
Do vậy, các điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể được chia
thành ba loại, là điều khoản cơ bản, điều khoản thông thường và điều khoản
tuỳ nghi, cụ thể như sau:
Điều khoản cơ bản là điều khoản xác định nội dung chủ yếu và quan
trọng bậc nhất của hợp đồng. Điều khoản cơ bản bắt buộc phải có trong hợp
đồng, nếu không thoả thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không
thể giao kết được. Việc xác định điều khoản nào là điều khoản cơ bản có thể
do tính chất của từng loại hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quy định.
Tuỳ theo từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả,
địa điểm… Ví dụ, trong hợp đồng mua bán tài sản, điều khoản về đối tượng,
số lượng, giá cả là điều khoản cơ bản; trong hợp đồng cung cấp dịch vụ, điều
khoản cơ bản có thể là điều khoản về đối tượng, giá, thời gian, địa điểm…
Điều khoản thông thường là những điều khoản mà nội dung đã được
xác định trong các văn bản pháp luật, như Bộ luật Dân sự và các luật chuyên
ngành khác. Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thoả thuận những điều
khoản này thì được coi là các bên đồng ý thực hiện như nội dung pháp luật đã
quy định. Khác điều khoản cơ bản, điều khoản thông thường không làm ảnh
hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng. Để rút ngắn thời gian xây dựng hợp
đồng, các bên có thể không cần thoả thuận và không buộc phải ghi vào văn

bản hợp đồng những điều khoản thông thường, tuy nhiên các bên vẫn cần
thực hiện theo quy định của pháp luật, nếu có tranh chấp về những nội dung
này thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng. Ví dụ, nếu trong hợp đồng các bên không có điều
khoản về bất khả kháng, thì các bên hoàn toàn có thể dựa theo các quy định


17

của pháp luật để xác định quyền và nghĩa vụ trong trường hợp diễn ra sự kiện
được coi là bất khả kháng.
Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng tự ý lựa chọn và thoả thuận với nhau để xác định cụ thể hơn quyền
và nghĩa vụ. Như vậy, ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất
của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao
kết hợp đồng các bên còn có thể thoả thuận để xác định thêm một số điều
khoản khác, giúp cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hơn hoặc nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cũng như căn cứ rõ ràng cho các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Thông qua điều khoản tuỳ nghi, bên có nghĩa vụ được lựa
chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho
đáp ứng được tối đa lợi ích của mình đồng thời vẫn bảo đảm được quyền và
lợi ích của bên còn lại. Ví dụ, trong số các hình thức giải quyết tranh chấp
được pháp luật quy định, các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng rằng tranh
chấp phát sinh giữa các bên sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC),
với số lượng trọng tại viên là một người.
1.1.4 Hiệu lực của hợp đồng
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là rất quan trọng, bởi
kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực thì các quyền và nghĩa vụ của các bên
được thỏa thuận trong hợp đồng mới phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Về

nguyên tắc, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng còn được xác định theo sự thỏa thuận của các bên
hoặc theo quy định của pháp luật. Việc cho phép thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng được xác định theo sự thỏa thuận của các bên là dựa trên cơ sở
nguyên tắc tự do hợp đồng. Vì các bên có quyền tự do thỏa thuận nội dung
hợp đồng nên cũng có quyền tự do lựa chọn thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng. Tất nhiên, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng


18

khác với quy định của pháp luật, nhưng không được trái pháp luật hoặc trái
với bản chất của hợp đồng. Trên cơ sở của hình thức hợp đồng đã giao kết mà
hiệu lực của hợp đồng được xác định theo từng thời điểm khác nhau. Cụ thể,
hợp đồng giao kết bằng lời nói có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp
thỏa thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng; hợp đồng bằng
văn bản thường có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hợp
đồng; hợp đồng có công chứng, chứng thực, đăng ký có hiệu lực tại thời điểm
văn bản hợp đồng được công chứng, chứng thực hoặc cho phép.
Để hợp đồng có hiệu lực pháp lý thì hợp đồng đó phải thỏa mãn đầy đủ
các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định. Điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng
được lập đúng bản chất đích thực của nó. Theo đó, hợp đồng phải đáp ứng
được các nội dung: chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có năng lực hành vi
dân sự theo quy định của pháp luật; mục đích và nội dung của hợp đồng
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; chủ thể ký
kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có quy định.
Khi hợp đồng không đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định, hợp
đồng sẽ bị vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu không có giá trị pháp lý, không làm

phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên tham gia hợp đồng từ thời điểm
xác lập. Do vậy, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên tham gia ký kết
hợp đồng phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần như:
không đạt được mục đích thỏa thuận ban đầu; nếu chưa thực hiện hợp đồng
thì sẽ không thực hiện giao dịch nữa; nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt
việc thực hiện đó để quay lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận... Ngoài ra, nếu một trong các bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu
thì phải chịu bồi thường thiệt hại cho bên kia.


19

Nằm trong quy luật vận động của các sự vật và hiện tượng nói chung,
hợp đồng dân sự cũng trải qua các giai đoạn phát sinh, phát triển và chấm dứt.
Tuy nhiên, khác với các sự vật, hiện tượng khác, hợp đồng dân sự bao giờ
cũng được phát sinh từ những hành vi có ý thức của các chủ thể. Vì vậy, các
sự kiện làm chấm dứt một hợp đồng dân sự không phải là các sự biến sinh ra
do sự vận động của tự nhiên mà đó là những sự kiện được xuất hiện từ hành
vi có ý thức của các chủ thể hoặc do pháp luật quy định. Theo Điều 424 Bộ
luật Dân sự năm 2005 thì hợp đồng dân sự chấm dứt khi:
Hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thoả thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác
chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc
chủ thể đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp
đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng
khác hoặc bồi thường thiệt hại;

6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định
Chấm dứt hợp đồng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với chấm dứt
mọi nghĩa vụ, bởi pháp luật có ghi nhận các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau khi
hợp đồng chấm dứt, hay còn gọi là các nghĩa vụ hậu hợp đồng. Các điều
khoản quy định các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng chấm dứt có thể
xuất hiện trong nhiều loại hợp đồng khác nhau, từ hợp đồng nhượng quyền
thương mại, hợp đồng lao động, đến hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp
đồng phân phối độc quyền, hợp đồng đại lý.... Ví dụ, trong các hợp đồng có
quy định về chuyển giao quyền sử dụng bí mật kinh doanh, để ngăn chặn bên
nhận chuyển giao tiếp tục sử dụng các thông tin mật, bên chuyển giao thường


20

đưa vào hợp đồng rằng nghĩa vụ bảo mật thông tin tiếp tục tồn tại sau khi hợp
đồng chấm dứt. Theo đó, bên nhận chuyển giao vẫn bảo mật các thông tin bí
mật và những kinh nghiệm mà bên chuyển giao cung cấp và đào tạo cho mình
khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực, toàn bộ các quyền và nghĩa vụ khác trong
hợp đồng đều đã được hoàn thành.
1.2 Khái quát về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1.2.1 Khái niệm điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Một trong những nguyên tắc cơ bản đã tồn tại từ rất lâu và được vận
dụng rộng rãi trong quá trình thực hiện cam kết là “Pacta sunt servanda”.
“Pacta” có nghĩa là “những điều giao ước”, “sunt” là “thì”, “servanda” là “cần
phải được giữ”, như vậy nội dung của nguyên tắc “pacta sunt servanda” là:
Những điều đã giao ước cần phải được giữ. Nói cách khác, các bên phải tôn
trọng và thực hiện đúng như những gì đã thỏa thuận. Nguyên tắc này không
chỉ trở thành tập quán quốc tế, được đưa vào các điều ước quốc tế, mà pháp
luật của các quốc gia đều ghi nhận nội dung này trong hệ thống pháp luật của
mình. Quy định rằng việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc:

“1. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng
loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác; 2. Thực hiện một cách
trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy
lẫn nhau” tại Điều 412 Bộ luật Dân sự năm 2005 chính là phản ánh nội dung
nguyên tắc này.
Nguyên tắc “Pacta sunt servanda” có tồn tại ngoại lệ, đó là “clausula
rebus sic stantibus”. Điều này nghĩa là trong hợp đồng bao gồm điều khoản
ngầm định (clausula) rằng một số hoàn cảnh thiết yếu phải được giữ nguyên
không thay đổi (sic stantes). Nói cách khác, nếu những điều kiện làm nền tảng
cho việc hình thành hợp đồng thay đổi về cơ bản, việc thực hiện hợp đồng
cũng phải điều chỉnh lại. Ví dụ, bên B có khả năng và điều kiện thuận lợi để
cung cấp sản phẩm ngô hạt với sản lượng đều đặn và chất lượng tốt, nên bên


×