Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hệ thống vật quyền trong bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.03 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THÙY DƯƠNG

HỆ THỐNG VẬT QUYỀN
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THÙY DƯƠNG

HỆ THỐNG VẬT QUYỀN
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Văn Thanh



HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
trích dẫn từ các tài liệu tham khảo được trích ghi nguồn đầy đủ và hoàn toàn
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ CỦA LUẬN VĂN

Ngô Thùy Dương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. Bộ luật dân sự : BLDS
2. Bất động sản: BĐS


MỤC LỤC

TRANG
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vật quyền

6


1.1. Khái niệm và đặc điểm vật quyền

6

1.1.1. Khái niệm “vật quyền”

6

1.1.2. Đặc điểm của vật quyền

9

1.1.3. Hệ quả

11

1.2. Sự khác nhau giữa vật quyền và trái quyền

12

1.3. Phân loại vật quyền

14

1.3.1. Phân loại vật quyền trong pháp luật La Mã

14

1.3.2. Phân loại vật quyền trong pháp luật dân sự của một số quốc gia 16

trên thế giới
1.4. Sự cần thiết và việc áp dụng lý thuyết vật quyền trong hoàn thiện các 21
quy định về quyền tài sản trong Luật dân sự Việt Nam
1.4.1. Sự cần thiết của việc áp dụng lý thuyết vật quyền trong hoàn 21
thiện các quy định về quyền tài sản trong Luật dân sự Việt Nam
1.4.2. Việc áp dụng lý thuyết vật quyền trong xây dựng Bộ luật dân sự 22
Việt Nam năm 2015
Chương 2: Phân tích và đánh giá hệ thống vật quyền trong Bộ luật dân sự 27
năm 2015
2.1. Quyền sở hữu
2.1.1. Quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền sở hữu

27
27

2.1.2. Đánh giá quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền sở hữu 33


2.2 . Các loại vật quyền khác (vật quyền hạn chế)

38

2.2.1. Quyền chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu tài sản

38

2.2.2. Quyền đối với bất động sản liền kề

45


2.2.3. Quyền hưởng dụng

52

2.2.4. Quyền bề mặt

56

2.3. Các biện pháp bảo đảm mang tính chất vật quyền

60

2.3.1. Quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về các biện pháp bảo đảm 60
mang tính chất vật quyền
2.3.2. Đánh giá quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về các biện 63
pháp bảo đảm mang tính chất vật quyền
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện hệ thống vật quyền trong bộ luật dân sự 65
năm 2015
3.1. Kiến nghị hoàn thiện chế định quyền sở hữu

65

3.2. Kiến nghị hoàn thiện chế định các loại vật quyền hạn chế

67

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền chiếm hữu của người 67
không phải là chủ sở hữu tài sản
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền đối với bất động sản liền 69
kề

3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền hưởng dụng

72

3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền bề mặt

74

3.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về các biện pháp bảo đảm mang 77
tính chất vật quyền
KẾT LUẬN

79


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thời cổ, người La Mã đã chủ trương thiết lập sự phân biệt giữa hai loại
quyền tài sản, là vật quyền và trái quyền. Việc phân biệt này giúp các nhà làm
luật xác định được chính xác tính chất của từng loại quyền, tạo điều kiện để xây
dựng các chế độ pháp lý tương ứng cho các quyền tài sản có tính chất khác biệt.
Bộ luật dân sự (BLDS) Việt Nam năm 2005 do chưa xác định đúng bản chất của
một số quyền đối vật nên đã bộc lộ một số hạn chế về lập pháp, gây khó khăn
vướng mắc trong quá trình áp dụng trên thực tế. Đến BLDS năm 2015 các nhà
làm luật đã khắc phục vấn đề này bằng cách vận dụng lý thuyết vật quyền vào
việc xây dựng, hoàn thiện các quy định về quyền tài sản. Có thể nói, đây là một
trong số những ưu điểm đáng ghi nhận của BLDS năm 2015. Vậy BLDS năm

2015 đã vận dụng lý thuyết vật quyền vào việc xây dựng các quy định như thế
nào? Hệ thống các quyền tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam nếu nhìn nhận
dưới góc độ vật quyền thì bao gồm những quyền gì? Quy định của BLDS năm
2015 về các quyền này có khác gì so với BLDS năm 2005 là vấn đề cần làm rõ
sau khi BLDS năm 2015 đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIII (sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2017). Với lý do trên, tác giả đã lựa
chọn vấn đề “Hệ thống vật quyền trong Bộ luật dân sự năm 2015” làm đề tài
nghiên cứu để hoàn thành luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự phân biệt quyền tài sản thành vật quyền và trái quyền có thể nói là sự
phân biệt kinh điển, có giá trị trong lập pháp từ thời cổ cho đến nay và vẫn giữ
nguyên giá trị. Do đó, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
này nói chung và về vật quyền nói riêng.


2

Ở Việt Nam, từ trước khi BLDS năm 2015 ra đời cũng đã có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu về vấn đề sự cần thiết của việc áp dụng học thuyết
vật quyền vào việc xây dựng, hoàn thiện các quy định về quyền tài sản. Nhất là
thời điểm tiến hành xây dựng BLDS năm 2015, nhiều chuyên gia, các nhà luật
học đã có những bài viết thể hiện quan điểm về việc cần thiết áp dụng học thuyết
vật quyền trong xây dựng BLDS năm 2015 cũng như những bài viết góp ý hoàn
thiện từng loại quyền tài sản dưới góc độ vật quyền. Ta có thể kể đến một số bài
viết nghiên cứu như:
1.“Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật tài sản” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện (Tạp chí nghiên cứu
lập pháp điện tử): bài viết này nghiên cứu về việc áp dụng vật quyền trong xây
dựng lại một số vấn đề pháp lý như định nghĩa tài sản của Luật dân sự Việt Nam,
chế độ pháp lý về bất động sản trong quan hệ láng giềng, các biện pháp bảo đảm

nghĩa vụ bằng tài sản đặc định.
2.“Một số góp ý về vật quyền trong Dự thảo BLDS” của PGS.TS. Bùi
Đăng Hiếu (Tạp chí Luật học, Số đặc biệt góp ý hoàn thiện dự thảo BLDS (sửa
đổi)): bài viết đưa ra một số góp ý về các quy định về vật quyền trong Dự thảo
BLDS năm 2015 như: Cân nhắc sự cần thiết của quy định về chiếm hữu; Dự thảo
sử dụng khái niệm “địa dịch” hay “quyền địa dịch” mới chuẩn xác; Cần làm rõ
một số nội dung của quyền hưởng dụng; Nên phân biệt rõ “quyền bề mặt” với
“quyền sở hữu vật trên đất”. Có thể thấy là bài viết này được tác giả Bùi Đăng
Hiếu viết trong bối cảnh góp ý cho Dự thảo BLDS năm 2015 và thời điểm bấy
giờ Dự thảo này thực sự bộc lộ nhiều vấn đề và sai sót trong xây dựng các quy
định về các quyền tài sản được xác định là vật quyền.
3. “Áp dụng nguyên tắc vật quyền nhằm khắc phục những hạn chế của chế
định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự” của TS. Vũ Thị Hồng Yến


3

(Tạp chí Luật học, Số đặc biệt góp ý hoàn thiện dự thảo BLDS (sửa đổi)): bài
viết phân tích những hạn chế trong quy định về chế định tài sản và quyền sở hữu
của BLDS năm 2005 và đưa ra kiến nghị áp dụng nguyên tắc vật quyền vào sửa
đổi một số nội dung của chế định này. Có thể nói bài viết đã đưa ra nhiều kiến
nghị có giá trị tham khảo để hoàn thiện chế định tài sản và giúp cho quyền sở
hữu thể hiện được chính xác bản chất vật quyền trung tâm trong hệ thống vật
quyền, nhưng phạm vi của bài viết chỉ đề cập tới quyền sở hữu chứ không đề cập
tới các quyền tài sản mang tính chất vật quyền khác.
Sau khi BLDS năm 2015 được Quốc hội thông qua thì cũng chưa có một
công trình hay bài viết nào nghiên cứu, đánh giá chung về quy định của BLDS
năm 2015 đối với các loại quyền tài sản mang tính chất vật quyền.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài của luận văn là “Hệ thống vật quyền trong BLDS năm 2015”. Với đề

tài này, luận văn sẽ nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, phân loại vật quyền và
quy định của BLDS năm 2015 về các quyền tài sản mang tính chất là vật quyền
trong sự so sánh với BLDS năm 2005. Tuy nhiên, với phạm vi của một luận văn
thạc sĩ khó có thể đi quá sâu vào phân tích chi tiết quy định của pháp luật về từng
loại quyền tài sản mang tính chất vật quyền được, nên luận văn chỉ tập trung phân
tích và đánh giá những quy định thể hiện rõ bản chất vật quyền của mỗi quyền.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, phân loại vật quyền, luận
văn sẽ phân tích các quy định của BLDS năm 2015 về các quyền tài sản mang
tính chất là vật quyền trong sự so sánh với BLDS năm 2005, từ đó đánh giá
những ưu điểm và hạn chế của các quy định trong BLDS năm 2015 và kiến nghị
để nhằm hoàn thiện quy định về các loại quyền tài sản mang tính chất vật quyền,


4

đảm bảo hiệu quả khi áp dụng vào thực tế.
4.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện mục tiêu đó, luận văn đã tập trung nghiên cứu những vấn đề
cụ thể sau:
- Khái niệm, đặc điểm và phân loại vật quyền;
- Ý nghĩa và việc áp dụng lý thuyết vật quyền trong xây dựng Bộ luật dân
sự Việt Nam năm 2015;
- Phân tích và đánh giá hệ thống vật quyền trong Bộ luật dân sự năm
2015 (bao gồm: Quyền sở hữu, Các vật quyền hạn chế, Các biện pháp bảo đảm
mang tính chất vật quyền);
- Kiến nghị hoàn thiện hệ thống vật quyền trong bộ luật dân sự năm 2015.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Vật quyền là gì? Đặc điểm của các loại quyền tài sản là vật quyền?

- Tại sao phải áp dụng lý thuyết vật quyền vào việc xây dựng Bộ luật dân
sự Việt Nam? BLDS năm 2015 đã áp dụng lý thuyết vật quyền trong việc xây
dựng các quy định về quyền tài sản như thế nào?
- Hệ thống vật quyền của BLDS năm 2015 gồm những quyền nào? Quy
định của BLDS năm 2015 về các quyền này có khác gì so với BLDS năm 2005
khi lý thuyết vật quyền chưa được áp dụng hoàn toàn? Những quy định trong
BLDS năm 2015 đã phù hợp chưa? Những vướng mắc cần sửa đổi, hoàn thiện?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mac - Lenin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế, định hướng hoàn thiện pháp
luật trong thời gian tới để đánh giá, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Trong phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng


5

các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: liệt kê, diễn giải, phân
tích, so sánh, logic để chỉ ra những điểm khác biệt của BLDS năm 2015 so với
BLDS năm 2005 khi quy định về các quyền tài sản mang tính chất vật quyền.
Bên cạnh đó, phương pháp so sánh, logic cũng được tác giả sử dụng khi xây
dựng kiến nghị để hoàn thiện các quy định của BLDS Việt Nam trong sự tham
khảo các quy định tương tự ở BLDS của một số nước thuộc hệ thống Civil Law.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đánh giá và hoàn thiện những
quy định của BLDS năm 2015 về các loại quyền tài sản mang tính chất vật
quyền, tạo cơ sở khoa học để hoàn thiện chế định quyền tài sản trong điều kiện
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hướng dẫn thi hành
BLDS năm 2015.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và sinh viên, học

viên chuyên ngành luật dân sự khi tìm hiểu về các quyền tài sản mang tính chất
vật quyền.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Phần nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vật quyền.
Chương 2: Phân tích và đánh giá hệ thống vật quyền trong Bộ luật dân sự
năm 2015.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện hệ thống vật quyền trong bộ luật dân sự
năm 2015.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VẬT QUYỀN

1.1. Khái niệm và đặc điểm vật quyền
1.1.1. Khái niệm “vật quyền”
Trong tiếng Việt, “vật” được hiểu là cái có hình khối, có thể nhận biết được.
Trong tiếng Anh, ‘things” (vật) được hiểu là những đối tượng của sự chiếm hữu
hoặc được hiểu là tài sản. Từ điển Luật học Black định nghĩa: “vật-things” là
những đối tượng ổn định có thể nhìn thấy, có thể cảm nhận được qua giác quan.
Vật được chia làm ba loại: vật bất động (immovable things); vật lưu động
(movable things); và vật hỗn hợp (mixed things), tức là những vật mang đặc
trưng của hai loại trên, ví dụ như văn tự xác nhận quyền (title- deed)1. Do lý
thuyết vật quyền được xây dựng xuất phát từ Luật La Mã nên để hiểu khái niệm
“vật quyền” ta phải đi từ cách hiểu của các luật gia La Mã về “vật”. Thuật ngữ
“vật” (res) được sử dụng trong ngôn ngữ pháp lý Latin để chỉ một vật tồn tại theo
tính chất của nó, một vật có biểu hiện vật chất và cụ thể. Mặt khác, “res” cũng

được hiểu như một quyền trừu tượng mà con người có được đối với vật2. Nếu vật
là đối tượng của quyền thì con người là chủ thể của quyền. Chính trong quan hệ
đó mà vật được coi là tài sản. Do vậy, hiểu theo cách cắt nghĩa từ chung nhất thì
vật quyền chính là quyền đối với tài sản.
Trong khoa học pháp lý, vật quyền được hiểu theo hai góc độ khác nhau:.
- Góc độ thứ nhất: Vật quyền (jus in re), theo định nghĩa được chấp nhận
trong học thuyết pháp lý ở các nước chịu ảnh hưởng của luật La Mã, là quyền
được thực hiện trực tiếp và ngay lập tức trên một vật. Người có vật quyền thực
1
2

Black Law Dictionary, Sixth Edition (1990), St Paul, Minn, West Publishing Co., tr 1216.
Nguyễn Ngọc Điện (2009), Giáo trình Luật La Mã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 11.


7

hiện các quyền của mình mà không cần sự hợp tác của người khác3. Nói đến khái
niệm vật quyền thì phải bắt đầu từ Luật La Mã. Mặc dù trong Luật La Mã không
đưa ra khái niệm vật quyền cũng như các luật gia La Mã không phân biệt quyền
tài sản thành vật quyền và trái quyền, tuy nhiên lý thuyết vật quyền lại được xây
dựng từ kết quả phân tích các đặc điểm của quyền sở hữu trong Luật La Mã. Các
luật gia La Mã xác định: một chủ thể có thể tạo ra một tài sản hoặc mua một tài
sản, trên cơ sở đó họ là chủ sở hữu đối với tài sản đã tạo ra, đã mua và khi đã trở
thành chủ sở hữu thì họ có toàn quyền đối với tài sản đó; được thực hiện tất cả
hành vi tác động lên tài sản để thỏa mãn yêu cầu của mình và không phụ thuộc
vào ý chí cũng như hành vi của người khác. Người ta nhận thấy quyền này mang
tính chất tuyệt đối và độc nhất: chủ sở hữu có tất cả các quyền đối với tài sản và
tập trung các quyền đó trong tay mình, không chia sẻ với ai khác. Dựa trên tính
chất của việc thực hiện quyền có phụ thuộc vào hành vi của người khác hay

không, các luật gia sau này đã xây dựng nên khái niệm vật quyền và trái ngược
với nó là trái quyền4.
Ví dụ: Một người bỏ tiền ra mua một cái xe đạp thì người đó có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chiếc xe đạp đó (gọi là vật quyền) mà không cần
phụ thuộc vào ý chí hoặc hành vi của bất kì một chủ thể nào. Khác với trường
hợp một người sang mượn người hàng xóm chiếc xe đạp để sử dụng. Trong
trường hợp này việc sử dụng chiếc xe đạp của người đi mượn phải phụ thuộc vào

3

Nguyễn Ngọc Điện (2015), Sự cần thiết của việc vận dụng lý thuyết về vật quyền bảo đảm vào quá trình sửa đổi
Bộ luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 02/2015, tr 39.
4
Trái quyền là quyền của một người được yêu cầu một người khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một
hành vi nhất định, và chỉ thông qua hành vi của người đó thì quyền và lợi ích của người có quyền mới được đáp
ứng (Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật La Mã, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 62).
Theo quan điểm trước đây thì vật quyền là quyền của chủ sở hữu với vật, dựa trên quyền do pháp luật quy định
và tính năng của vật. Còn trái quyền là quyền của một chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Trước khi ban hành BLDS
năm 1995 thì phần nghĩa vụ được gọi là trái vụ. Trong trái vụ có trái chủ (là người có quyền) và thụ trái (là người
có nghĩa vụ). Do ít phổ biến nên từ BLDS năm 1995 đã chuyển thành “Nghĩa vụ và hợp đồng”. Khái niệm nghĩa
vụ được dùng thay cho khái niệm trái vụ.


8

sự đồng ý, cho phép và phải có hành vi giao xe đạp của chủ sở hữu chiếc xe đạp
thì người này mới sử dụng được. Việc sử dụng chiếc xe đạp lúc này cũng hoàn
toàn theo thỏa thuận với chủ sở hữu (mục đích, thời gian sử dụng…). Vì vậy,
người ta còn xem vật quyền là một trong những quyền chủ quan của chủ sở hữu5.
- Góc độ thứ hai: Vật quyền là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về

vật với tư cách là đối tượng của vật quyền, nội dung của các loại vật quyền, căn
cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật
quyền, các hạn chế mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền
năng của mình… Nói cách khác, theo góc độ này thì vật quyền chính là pháp luật
về vật, về các quyền của chủ sở hữu và người không phải là chủ sở hữu đối với
vật. Dưới góc độ này, người ta xem vật quyền là một trong những quyền khách
quan của chủ sở hữu – là những quy định của pháp luật.
Khái niệm “vật quyền” đã được sử dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật
dân sự của những nước thuộc hệ thống Civil Law. Tại Bộ luật Napoléon (1804)
– Bộ luật dân sự đầu tiên trên thế giới thì phần thứ hai trong Bộ luật chính là vật
quyền (quyền trên vật). Trong BLDS của Nhật Bản cũng quy định vật quyền tại
phần hai (trái quyền tại phần ba). Bộ luật dân sự của Đức gồm 5 quyển và những
quy định về vật quyền nằm ở Quyền thứ ba. BLDS Cộng hòa Liên bang Nga
năm 1995 có bốn phần, trong đó Phần thứ hai được gọi là “Quyền sở hữu và các
loại vật quyền khác” và hiện nay sau 20 năm tồn tại, trong Dự thảo mới nhất của
BLDS Nga, tên gọi này đã được dự kiến thay bằng “Vật quyền” để đảm bảo tính
ngắn gọn, đồng thời phù hợp hơn với thông lệ quốc tế6. Mặc dù BLDS của Cộng
hòa Pháp hiện hành không có qui định nào ghi nhận trực tiếp thuật ngữ vật

5

Quyền chủ quan được hiểu là quyền của một chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ. Nó khác với quyền khách
quan là quyền do pháp luật quy định.
6
Dương Đăng Huệ (2015), Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(Số chuyên đề Góp ý hoàn thiện Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Số 13 (293) Tháng 07/2015), tr 4.


9


quyền nhưng trên thực tế luật tài sản của Cộng hòa Pháp được xây dựng dựa trên
cơ sở sự phân biệt giữa vật quyền và trái quyền.
1.1.2. Đặc điểm của vật quyền
Lý thuyết vật quyền được xây dựng dựa trên quan điểm của các luật gia La
Mã về việc thực hiện quyền trực tiếp và ngay lập tức trên một vật mà không cần
sự hợp tác của người khác, do đó vật quyền mang các đặc điểm sau:
- Thứ nhất: vật quyền được thực hiện trực tiếp trên đối tượng
Nếu như trái quyền là quyền có thể yêu cầu bên đối tác thực hiện hành vi
nhất định (còn gọi là quyền tương đối) thì vật quyền được xây dựng với bản chất
là quyền được thực hiện trực tiếp và ngay lập tức trên một vật, do đó không cần
đến sự hợp tác hoặc trợ lực của chủ thể khác, và mọi chủ thể khác đều phải tôn
trọng quyền này (quyền tuyệt đối). Tính chất trực tiếp của việc thực hiện vật
quyền được thể hiện ngay trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất (và cả
hành vi pháp lý) của chủ thể lên đối tượng của quyền.
Ví dụ: chủ sở hữu chiếc xe đạp có toàn quyền trong việc sử dụng, khai thác
công dụng và định đoạt chiếc xe đạp thuộc sở hữu của mình mà không cần vai
trò trung gian của một người nào khác hay chủ thể có quyền hưởng dụng sẽ được
tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối
tượng của quyền hưởng dụng.
Đặc điểm này khiến vật quyền khác với trái quyền bởi trong quan hệ trái
quyền chủ thể có quyền thực hiện quyền của mình không phải bằng việc tác
động trực tiếp lên đối tượng (tài sản) mà thông qua việc yêu cầu một người khác
phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định và chỉ thông qua
hành vi của người đó thì quyền và lợi ích của người có quyền mới được đáp ứng.
- Thứ hai: Vật quyền mang tính đối kháng với mọi chủ thể khác
Quyền đối nhân có hiệu lực trong mối quan hệ giữa người có quyền yêu cầu


10


và người có nghĩa vụ, nhưng, trên nguyên tắc, không làm bận tâm người thứ ba;
trong khi đó, quyền đối vật có hiệu lực đối với tất cả mọi người và phải được
mọi người tôn trọng bởi xét ở một khía cạnh nào đó thì đây cũng chỉ là mối quan
hệ giữa chủ thể có quyền với tài sản. Đây chính là tính chất tuyệt đối (theo tiếng
Latinh là “erga omnes”) của học thuyết vật quyền. Vật quyền là quyền chi phối
trực tiếp đối với vật cho nên không thể xác lập cùng lúc cùng một vật quyền có
cùng nội dung với cùng một vật (tính loại trừ của vật quyền)7.
Ví dụ điển hình nhất cho đặc điểm này của vật quyền đó là việc pháp luật
của tất cả các nước trên thế giới đều có quy định về việc bảo vệ quyền sở hữu
của chủ sở hữu tài sản trong trường hợp tài sản bị một người thứ ba lấy khỏi chủ
sở hữu (không theo ý chí và mong muốn của chủ sở hữu) bằng phương thức trái
pháp luật (như trộm, cướp, lừa đảo…).
Tất nhiên, để đối kháng được với người thứ ba, thì điều cần thiết là vật
quyền phải được người thứ ba nhận biết rõ ràng, chứ không thể tồn tại một cách
mập mờ, lúc ẩn, lúc hiện. Để công bố sự tồn tại của vật quyền, luật của các nước
thiết lập hệ thống đăng ký. Ví dụ ở các quốc gia đều xây dựng hệ thống đăng ký
bất động sản nhằm công khai hóa quyền và qua đó bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi
ích của các bên. Trong pháp luật dân sự của một số quốc gia thì đăng ký vật
quyền là điều kiện để đối kháng với người thứ ba (theo quan điểm của luật dân
sự Cộng hòa Pháp, Nhật Bản…). Nhật Bản thực hiện đăng ký với 9 loại vật
quyền (quyền sở hữu, quyền trên mặt đất - 2 quyền, quyền địa dịch, đặc quyền
lấy trước, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền thuê mướn, quyền đối với bất
động sản). Ở Nhật Bản, mọi thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản đều
được cung cấp cho người dân, doanh nghiệp khi có nhu cầu tìm hiểu. Việc công

7

Vũ Thị Hồng Yến (2015), Áp dụng nguyên tắc vật quyền nhằm khắc phục những hạn chế của chế định tài sản và
quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, Tạp chí Luật học (số đặc biệt góp ý hoàn thiện dự thảo BLDS (sửa đổi)), tr 83.



11

khai vật quyền nhằm đảm bảo bên thứ ba có thể nhận biết được rõ ràng đời sống
pháp lý của vật quyền, tức là biết được sự tồn tại của vật quyền cũng như sự dịch
chuyển của vật quyền trong giao lưu dân sự (nguyên tắc này tránh rủi ro cho các
bên thứ ba).
- Thứ ba: Vật quyền phải do luật quy định
Do vật quyền là quyền tuyệt đối, có tính loại trừ, có tính chi phối, nên luật
phải quy định cụ thể các loại vật quyền, nội dung, hiệu lực của vật quyền và
cách thức công bố công khai vật quyền. Vật quyền phải do luật quy định; nếu
không được luật quy định thì không được công nhận là vật quyền để đảm bảo
trật tự giao dịch không bị xáo trộn. Pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới
cũng đã quy định cụ thể về vấn đề này như Điều 175 BLDS Nhật Bản không
thừa nhận vật quyền ngoài quy định của luật hay Luật dân sự của Liên bang Nga
cũng quy định tất cả các vật quyền đều được luật (văn bản do cơ quan lập pháp
ban hành) quy định, các chủ thể trong giao dịch không thể tự mình đặt ra các loại
vật quyền theo ý muốn của mình.
1.1.3. Hệ quả
- Quyền theo đuổi
Vật quyền cho phép chủ thể thực hiện quyền của mình đối với vật, bất kể
vật đang nằm trong sự chiếm hữu của người nào. Luật gọi đó là quyền theo đuổi.
Đây là hệ quả từ tính đối kháng với mọi chủ thể khác của vật quyền. Trên
nguyên tắc, tất cả những ai đang nắm giữ vật, dù với tư cách nào, đều phải tôn
trọng các quyền năng của người có vật quyền, một cách không điều kiện: người
có quyền sở hữu tài sản được quyền yêu cầu người nắm giữ tài sản phải giao tài
sản cho mình và người này phải giao nếu không muốn bị coi là người chiếm giữ
tài sản bất hợp pháp; chủ sở hữu tài sản thế chấp phải tôn trọng quyền kê biên tài
sản của chủ nợ nhận thế chấp; chủ sở hữu bất động sản chịu địa dịch về lối đi



12

qua phải tôn trọng quyền về lối đi qua của người hưởng địa dịch... Từ chính
quyền theo đuổi mà pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế giới ghi nhận
chủ thể của vật quyền có quyền đòi vật từ sự chiếm hữu của bất cứ ai (thậm chí
trong một số trường hợp được đòi vật từ chính sự chiếm hữu của chủ sở hữu như
trường hợp chủ nợ nhận thế chấp đòi tài sản nhận thế chấp để xử lý khi người thế
chấp không trả nợ đúng thỏa thuận).
- Quyền ưu tiên
Vật quyền cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với vật
nhằm thoả mãn lợi ích theo đuổi trước những người khác, đặc biệt là những
người theo đuổi cùng lợi ích đó. Luật gọi đó là quyền ưu tiên. Người có quyền
đối vật được ưu tiên trước những người có quyền đối nhân (và cả những người
có quyền đối vật xếp sau mình trong thứ tự đăng ký) trong việc thực hiện các
quyền đối với tài sản liên quan.
Ví dụ: Người mua tài sản, sau khi quyền sở hữu tài sản mua đã được
chuyển mà tài sản chưa được giao, có quyền ưu tiên đối với tài sản so với các
chủ nợ của người bán trong trường hợp người bán lâm vào tình trạng phá sản:
nếu người mua tuyên bố nhận tài sản, thì các chủ nợ của người bán không có
quyền yêu cầu kê biên tài sản đó. Quyền ưu tiên của người có quyền đối vật phát
huy tác dụng rõ nét nhất trong trường hợp quyền đối vật mang tính chất của một
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: ngườì nhận thế chấp hoặc cầm cố có
quyền ưu tiên được thanh toán bằng số tiền bán tài sản thế chấp hoặc cầm cố so
với các chủ nợ không có bảo đảm của người thế chấp hoặc cầm cố.
1.2. Sự khác nhau giữa vật quyền và trái quyền
Vật quyền từ lâu đã được xây dựng như là một đối trọng với trái quyền (còn
gọi là quyền đối nhân) là obligatio. Người La Mã thiết lập sự phân biệt giữa vật
quyền và trái quyền trước hết là để phân loại tài sản. Theo đó, một quyền có giá



13

trị tài sản chỉ có thể là vật quyền hoặc là trái quyền. Khái niệm vật quyền được
hình dung theo cách của người La Mã là quyền được thực hiện trực tiếp trên một
vật cụ thể và xác định, những tài sản nào không được gọi là vật quyền thì là trái
quyền. Cuốn từ điển pháp luật của Pháp mang tên “Petit Dictionnaire de Droit”
định nghĩa: “Trái quyền là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người, được gọi
là trái chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công theo sự
lựa chọn của anh ta để buộc người khác, người thụ trái xác định, chuyển giao tài
sản, làm hoặc không làm việc gì đó”8. Nói cách khác trái quyền là quyền cho
phép một người gọi là trái chủ đòi hỏi một người khác, gọi là thụ trái, thực hiện
một việc để thỏa mãn quyền của trái chủ hoặc của người khác. Điều đó có nghĩa
rằng, để quan hệ trái quyền vận hành hoàn hảo, nhất thiết phải có sự hợp tác của
cả trái chủ và thụ trái điều này là khác với quan hệ vật quyền. Họ là những người
xác định trong từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà trong đó trái chủ là loại chủ thể
tích cực có quyền yêu cầu người thụ trái phải thi hành một nghĩa vụ nào đó; còn
người thụ trái là loại chủ thể tiêu cực phải thi hành nghĩa vụ vì quyền lợi của trái
chủ hoặc của người khác mà đã được xác định cụ thể trong quan hệ nghĩa vụ cụ
thể. Ở đây cần phải phân biệt vật quyền có đối tượng là vật; còn trái quyền có
đối tượng cụ thể là công việc mà người thụ trái phải thi hành, trong đó có thể là
chuyển giao tài sản, hoặc làm hoặc không làm một công việc nào đó. Do đó dẫn
đến các hệ quả là sự chuyển giao nghĩa vụ khó khăn hơn chuyển giao vật quyền,
bởi sự thay đổi trái chủ và người thụ trái không thể tuỳ tiện.
Các vật quyền được nhận ra nhờ hai đặc điểm cơ bản mà, trên nguyên tắc,
trái quyền không có: thứ nhất, thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa chủ thể và đối
8

TS Ngô Huy Cương (2008), “Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam”, Bài viết trên trang
Thông tin pháp luật dân sự tại địa chỉ: ngày truy cập:

13/6/2016).


14

tượng của quyền mà không cần có vai trò của người thứ ba; thứ hai, được người
thứ ba tôn trọng và sự tôn trọng ấy được pháp luật bảo đảm bằng những biện
pháp bảo vệ đặc biệt. Từ điển pháp luật của Pháp định nghĩa: “Trái quyền là
quyền đối với một người xác định mà là người thụ trái trong quan hệ nghĩa vụ”;
còn “Vật quyền là quyền có thể được thực hiện chống lại tất cả mọi người”.
Trong quan hệ vật quyền, chủ thể có quyền được quyền thực hiện quyền của
mình đối với vật, bất kể vật đang nằm trong sự chiếm hữu của người nào (quyền
theo đuổi) và người có quyền cũng được thực hiện quyền của mình đối với vật
nhằm thoả mãn lợi ích theo đuổi trước những người khác, đặc biệt là những
người theo đuổi cùng lợi ích đó (quyền ưu tiên). Trái quyền là một loại quyền
tương đối, khác với vật quyền là một loại quyền tuyệt đối, có nghĩa là trái quyền
không có hiệu lực đối với người thứ ba (có một số ngoại lệ) mà trái chủ chỉ có
quyền yêu cầu người thụ trái, và chỉ trái chủ mới có được quyền như vậy. Các
vật quyền có tính cách hạn định hay phải do pháp luật qui định; còn trái quyền có
thể do ý chí của các bên xác lập.
1.3. Phân loại vật quyền
1.3.1. Phân loại vật quyền trong pháp luật La Mã
Từ thời La Mã, các luật gia La Mã đã chia vật quyền thành hai loại là quyền
trên tài sản của mình (tức là quyền sở hữu – jus in re propria) và quyền trên tài
sản của người khác (tức là vật quyền khác ngoài quyền sở hữu – jus in re aliena).
Những vật quyền khác ngoài quyền sở hữu là các vật quyền không đầy đủ bằng
quyền sở hữu và các quyền này làm cắt giảm bớt quyền của chủ sở hữu tài sản
bởi các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu có được là do chủ sở hữu cho một
người hưởng lợi ích trên tài sản của mình9.
9


William Livesey Burdick (2004),The Principles of Roman Law and Their Relation to Modern Law, The
Lawyers Co Operative Publishing.


15

- Quyền sở hữu: Trong Luật dân sự La Mã thì quyền sở hữu được xác định
là một dạng quyền tuyệt đối và phạm vi rất rộng. Các luật gia La Mã không đưa
ra khái niệm đồng nhất về quyền sở hữu cũng như nội dung của quyền sở hữu
nhưng họ đã chỉ ra các quyền năng cơ bản của chủ sở hữu. Những quyền năng đó
bao gồm10:
+ Quyền sử dụng vật (Jus Utendi): là quyền khai thác những lợi ích kinh tế
từ vật phù hợp với tính năng, tác dụng của vật đó;
+ Quyền thu nhận thành quả và lợi nhuận (Jus Fruendi): là quyền của chủ sở
hữu được hưởng thành quả và lợi nhuận từ tài sản thuộc sở hữu của mình
mang lại;
+ Quyền chiếm hữu tài sản (Jus Possidendi): là quyền của chủ sở hữu được
nắm giữ, kiểm soát và chi phối vật.
+ Quyền định đoạt vật (Jus abutendi): là quyền của chủ sở hữu được định
đoạt số phận thực tế cũng như số phận pháp lý của vật;
+ Quyền đòi lại vật (Jus Vidicandi): là quyền của chủ sở hữu được đòi lại
vật đang bị người thứ ba chiếm hữu bất hợp pháp.
- Quyền trên tài sản của người khác (jus in re aliena) là quyền của chủ thể
không phải là chủ sở hữu của tài sản nhưng có quyền sử dụng và hưởng những
lợi ích mà tài sản đó mang lại. Quyền trên tài sản của người khác đầu tiên xuất
phát từ khái niệm Servitius (Quyền dụng ích). Quyền trên tài sản của người khác
có hai nhánh lớn là địa dịch (dịch quyền thuộc vật - predial servitude or real
servitude) và dịch quyền thuộc người (personal servitude).
* Dịch quyền thuộc vật hay địa dịch là một quan hệ mà trong đó một bất

động sản gánh chịu dịch quyền hay dịch lụy vì lợi ích của một bất động sản
khác. Từ thời La Mã cổ đại có lẽ người ta đã xét đến việc bất động sản có thể bị
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật La Mã, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 67-68.


16

chuyển nhượng và quyền trên bất động sản đối kháng hay loại trừ tất cả những
người khác, do đó đã chia hai bất động sản liên hệ thành bất động sản gánh chịu
dịch quyền và bất động sản được hưởng dịch quyền. Bất kể ai có quyền đối với
các bất động sản đó đều phải gánh chịu hoặc được hưởng dịch quyền tương ứng,
có nghĩa là dịch quyền hay mối quan hệ dịch quyền được gắn trực tiếp vào các
bất động sản liên hệ. Kỹ thuật pháp lý này rất quan trọng để bảo đảm sự ổn định
và trật tự của các quan hệ hàng xóm. Dịch quyền ở đây có thể là quyền có lối đi
lại; quyền chăn dắt gia súc đi qua; quyền dẫn nước, thoát nước; quyền được lấy
ánh sáng, không khí; quyền được sang đất của người khác để thu lượm hoa
quả…
* Dịch quyền thuộc người là một quan hệ mà trong đó, một tài sản tự gánh
chịu dịch quyền hay dịch lụy vì lợi ích của một người. Nó lại được chia nhỏ nữa
thành các vật quyền cụ thể. Trong số các vật quyền cụ thể này quyền hưởng
dụng (usufruct) là vật quyền lớn nhất11.
1.3.2. Phân loại vật quyền trong pháp luật dân sự của một số quốc gia trên

thế giới
Có nhiều cách để phân loại vât quyền được thực hành trong luật học của
các nước, trong đó, hai cách đáng chú ý nhất là: một cách dựa vào quyền sở hữu
(xác định xem đối tượng của vật quyền có thuộc sở hữu của người có quyền hay
không), cách còn lại dựa vào tính chất của mối quan hệ tác động giữa người có

quyền và đối tượng của quyền (tức là xác định người có quyền tác động lên đối
tượng là tài sản hay giá trị kinh tế của tài sản).
1.3.2.1. Phân loại vật quyền trong pháp luật dân sự Cộng hòa Pháp
Mặc dù BLDS của Cộng hòa Pháp hiện hành không có quy định nào ghi
11

Ngô Huy Cương (2010), Ý tưởng về chế định quyền hưởng dụng trong Bộ luật dân sự tương lai của Việt Nam,
Trang Thông tin pháp luật dân sự, tại địa chỉ: ngày truy
cập 30/4/2016.


17

nhận trực tiếp thuật ngữ vật quyền, nhưng trên thực tế luật tài sản của Cộng hòa
Pháp được xây dựng dựa trên cơ sở sự phân biệt giữa vật quyền và trái quyền.
Các nhà làm luật Pháp phân loại vật quyền theo cách dựa vào đối tượng tác động
của quyền là bản thể vật lý của tài sản hay là giá trị kinh tế của tài sản. Theo đó,
nhóm các vật quyền có thể được phân chia thành hai tiểu nhóm: vật quyền chính
(những quyền trực tiếp tác động lên bản thể vật lý của tài sản) và vật quyền phụ
(những quyền cho phép người có quyền tác động không phải vào bản thể của tài
sản mà vào giá trị kinh tế của tài sản)12.
Vật quyền chính bao gồm những quyền trực tiếp tác động lên bản thể vật
lý của tài sản và chỉ bằng cách tác động lên chính tài sản thì chủ thể mới thu
được tất cả những tiện ích do tài sản mang lại. Đứng đầu nhóm này là quyền sở
hữu – vật quyền chính đầy đủ, hoàn hảo nhất. Các vật quyền chính khác có mức
độ hoàn hảo của quyền năng thấp hơn quyền sở hữu, ví dụ như quyền hưởng hoa
lợi chỉ cho phép người có quyền thu hoa lợi từ việc khai thác tài sản, chứ không
cho phép định đoạt tài sản; quyền hữu dụng là quyền được ở và cho thuê để
hưởng hoa lợi, nhưng không có quyền định đoạt (nó có tính tạm thời, chỉ sau một
thời gian thì phải hoàn trả lại tài sản cho chủ sở hữu); quyền sử dụng (nếu tài sản

là BĐS thì chỉ được ở, không cho thuê để hưởng hoa lợi. Như trong luật thừa kế
của Cộng hòa Pháp: người vợ hay người chồng còn sống được ở ngôi nhà thừa
kế cho đến khi chia, chứ không được cho thuê hay bán)…Trong danh sách vật
quyền chính khác còn có: quyền địa dịch (có địa dịch tự nhiên và địa dịch do con
người tạo ra); quyền tạo lối ra do con người; quyền thuê đất dài hạn... Suy cho
cùng, các vật quyền chính khác đều chỉ là những phần không trọn vẹn của quyền
sở hữu. Tách ra từ quyền sở hữu để trở thành một quyền độc lập, các vật quyền
12

Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng Bộ luật dân sự (tài liệu đăng trên duthaoonline.quochoi.vn,
địa chỉ truy cập: duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU_COBAN/.../1622/11.doc, ngày truy cập:
16/4/2016).


18

chính không phải là quyền sở hữu đều có tính tạm thời: đến lúc nào đó, các
quyền này phải biến mất hoặc gia nhập trở lại vào quyền sở hữu. Nếu không thừa
nhận điều này, thì quyền sở hữu sẽ không giữ được các thuộc tính của nó – độc
nhất, tuyệt đối và lâu dài13.
Vật quyền phụ bao gồm những quyền cho phép người có quyền tác động
không phải vào bản thể của tài sản mà vào giá trị kinh tế của tài sản. Các vật
quyền này còn gọi là vật quyền bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, chỉ có tác dụng tạo
ra sự an toàn cho người có quyền trong quá trình tham gia vào một quan hệ
nghĩa vụ với tư cách trái chủ. Quyền của chủ nợ nhận thế chấp, nhận cầm cố là
những ví dụ tiêu biểu cho các vật quyền thuộc nhóm này. Trong chừng mực nào
đó, người ta nói rằng vật quyền được gọi là phụ bởi vì tài sản đối tượng của
quyền được coi như một thứ “dự trữ giá trị” (value reserve)14. Dự trữ đó sẽ được
và chỉ được mang ra sử dụng một khi người có quyền không cò sự lựa chọn khác
cho việc thực hiện trái quyền của mình. Lúc đó, thay vì phải lệ thuộc vào vai trò

chủ động của thụ trái (trong pháp luật Việt Nam hiện hành gọi là người có nghĩa
vụ) để có được sự thực hiện nghĩa vụ thoả đáng, người có vật quyền có thể tác
động vào giá trị kinh tế của tài sản (chủ nợ có thể xử lý tài sản bảo đảm bằng
cách tổ chức kê biên và bán, rồi nhận tiền thanh toán trước các chủ nợ khác của
người mắc nợ). Vật quyền phụ không trao cho người có quyền những công cụ
khai thác các khả năng của tài sản để phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt của mình,
như các vật quyền chính.
1.3.2.2. Phân loại vật quyền trong pháp luật dân sự Cộng hòa Liên bang Đức
Bộ luật Dân sự Đức được đánh giá là một Bộ luật có sự ảnh hưởng lớn và
13

Nguyễn Ngọc Điện (2014), Cải cách hệ thống pháp luật tài sản thỏa mãn tiêu chí hội nhập thông qua việc sửa
đổi Bộ luật Dân sự, bài viết đăng trên trang web , tại địa chỉ:
, ngày
truy cập 3/6/2016.
14
Xem thêm G. Cornu (1990), Droit civil. Introduction.Les personnes.Les biens, Montchrestien, Paris, tr. 312.


19

đã được nhiều nước tham khảo trong quá trình soạn thảo và sửa đổi Bộ luật Dân
sự của mình. BLDS Đức gồm 5 quyển và Quyển 3 là những quy định về vật
quyền. Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức phân loại vật quyền gồm hai nhóm:
nhóm một chỉ gồm quyền sở hữu và nhóm hai gồm tất cả các loại vật quyền còn
lại. Trong các loại vật quyền được quy định tại BLDS Đức thì quyền sở hữu là
loại vật quyền chính. Những loại vật quyền khác là sự độc lập hoá theo mục đích
của quyền sở hữu, là những bộ phận của quyền sở hữu hay được xem là các phân
nhánh của quyền sở hữu. Đây là các vật quyền có mức độ quyền năng thấp hơn
quyền sở hữu vì vậy mà chúng còn có thể được gọi là các vật quyền hạn chế.

Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức chia vật quyền thành 2 loại: vật quyền
về nội dung và vật quyền về hình thức. Vật quyền về nội dung được quy định tại
BLDS và các đạo luật khác nữa, ví dụ: Luật về sở hữu căn hộ; Luật về xây dựng
trên đất của người khác và một số luật liên quan phát sinh do quá trình thống
nhất nước Đức. Luật về vật quyền hình thức có nhiều cấp bậc, như Luật về đăng
ký bất động sản là đạo luật của liên bang và Luật liên quan đến thủ tục định đoạt
bất động sản hướng dẫn thi hành Luật về đăng ký bất động sản và chế độ bất
động sản được quy định chi tiết hơn do Bộ Tư pháp liên bang được Quốc hội
giao quyền ban hành và một số Luật của các bang điều chỉnh vật quyền hình
thức15.
Theo tác giả có sự phân loại như vậy bởi một trong các nguyên tắc quan
trọng về vật quyền mà pháp luật Đức ghi nhận đó là nguyên tắc công khai. Đối
với động sản, thỏa thuận chuyển giao vật được cụ thể hóa bằng hành vi giao vật.
Đối với bất động sản, thời điểm đăng ký vào sổ địa bạ được coi là thời điểm giao

15

Nguyễn Thị Hạnh (2012), Một số vấn đề về cấu trúc, vật quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà
Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005, Bài viết trên trang web Bộ Tư
pháp, tại địa chỉ: , ngày truy cập
13/4/2016.


×