Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

vấn đề tài sản trong bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.27 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập rất lâu
trong trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực
tế tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, vô cùng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính khác biệt cần thiết phải
có quy chế pháp lí điều chỉnh riêng. Chính vì vậy, việc phân loại tài sản
là cần thiết không chỉ có ý nghĩa trong hoạt động lập pháp mà còn có ý
nghĩa thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ
khác nhau, một sự vật được nhìn nhận và đánh giá một cách khác nhau.
Bởi vậy, ở mỗi tiêu chí khác nhau, tài sản cũng sẽ được phân thành các
loại cụ thể khác nhau. Do đó, Điều 105_BLDS năm 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Đây là cách phân loại cũng đồng thời là cách định nghĩa về tài sản của
Bộ luật. Theo quy định này thì tài sản được liệt kê khép kín chỉ tồn tại ở
một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Bài viết
dưới đây nhằm phân tích những loại tài sản đã được đề cập và một số
vấn đề lí luận và thực tiễn về tài sản theo quy định tại điều 105_BLDS
năm 2015 để góp phần hoàn thiện hơn nữa về cách hiểu tài sản trong
luật dân sự Việt Nam.
NỘI DUNG
Một số vấn đề lý luận về tài sản
Khái quát về sự hình thành và phát triển của Tài sản và pháp luật về tài
sản
Tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Từ hàng nghìn năm nay, pháp
luật về tài sản của các quốc gia đã hình thành dựa trên các tập quán, lối
suy nghĩ và hành động khác nhau. Luật tài sản Phương Tây có khởi



nguồn từ cổ luật La Mã. Từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỉ
XVII, người ta đã tạo ra các quy định và thiết chế mới về tài sản đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế tư bản, mà vẫn dựa trên tư duy cổ xưa, mang
đậm dấu ấn của luật tục. Hiện nay, luật tư được các học giả thừa nhận là
một ngành luật cơ bản và Luật dân sự_nền tảng căn bản của luật tư mà ở
đó, Nhà nước chỉ đóng vai trò là trọng tài-có liên quan tới con người và
quan hệ của con người với nhau liên quan đến tài sản. Trong các hệ
thống pháp luật, thông thường người ta mượn khái niệm tài sản và các
giải pháp của luật La Mã để giải quyết các mối quan hệ đó. Các nước
khác nhau có sự nhìn nhận và quan điểm luật học về tài sản khác nhau.
Luật học Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc những thành tựu của
các hệ thống luật tiên tiến và kế thừa có sáng tạo tinh thần luật học cổ
điển của nước nhà. Qua các thời kì từ trong luật cổ và tục lệ cho đến thời
cận đại và cuối cũng là thời hiện đại, pháp luật Việt Nam về tài sản đã
dần từng bước cải thiện và nâng cao. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế-xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tài sản
được xác định với tính cách là khách thể của quyền sở hữu và phạm vi
này là không hạn chế. Trong chế định quyền sở hữu thì tài sản giữ một
vai trò quan trọng, vừa là đối tượng của quyền sở hữu, vừa là khách thể
trong quan hệ pháp luật dân sự. Tài sản với tư cách là đối tượng của sở
hữu được đề cập lần đầu tiên trong các quy định về tài sản và quyền sở
hữu của Bộ luật dân sự Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 1995, năm 2005
trước đây cũng như Bộ luật dân sự năm 2015 hiện hành dựa vào tiêu chí
tài sản là đối tượng của quyền sở hữu phải trị giá được bằng tiền và có
thể đưa vào giao lưu dân sự. Đến Bộ luật dân sự năm 2015 khái niệm tài
sản đã được hoàn thiện thêm một bước góp phần tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình áp dụng pháp luật. Mặc dù, BLDS 2015 đã quy định cụ
thể khái niệm tài sản tuy nhiên trên thực tế xoay quanh vấn đề tài sản
vẫn còn nhiều vướng mắc.

Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2015


Tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong sự chiếm
hữu của một chủ thể, một khái niệm rộng và không có giới hạn, luôn
được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà con người nhận thức ra.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì tài sản chính là của cải vật chất
được sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng có dụng ích, luôn
luôn được con người hướng tới làm chủ: chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt. Dưới góc độ pháp lí, tài sản là một chế định quan trọng của của
Luật dân sự. Trong bối cảnh hệ thống pháp luật Việt Nam đang có nhiều
thay đổi để theo kịp với tiến trình hội nhập quốc tế, các khảo cứu mang
tính lí luận về tài sản về cơ bản đã bao quát và tương đối. Điều
105_BLDS năm 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Để hiểu rõ hơn về quy định này của pháp luật dân sự ta đi vào phân tích,
nghiên cứu từng loại tài sản theo quy định này:
1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản
Vật
Vật là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có
thể cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi
nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế
giới vật chất mà con người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì
cũng đồng nghĩa với việc con người không thể tác động được vào nó.
Hơn nữa, là đối tượng trong quan hệ pháp luật nên vật phải đáp ứng
được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Bộ luật Dân sự năm
1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đều quy định tài sản gồm có vật. Tuy
nhiên, Điều 105_BLDS 2015 quy định tài sản là “vật” mà không quy

định là “vật có thực” như quy định tại Điều 172_BLDS 1995. Điều 105
_BLDS 2015 quy định tài sản gồm vật, bỏ quy định vật có thực đã mở
rộng nội hàm của khái niệm vật. Vật có thể đang tồn tại hiện thực và vật


chắc chắn được hình thành trong tương lai. Như vậy, Quy định tại Điều
105 Bộ luật dân sự năm 2015 về vật phù hợp hơn với đời sống thực tế và
các giao lưu dân sự trong cơ chế thị trường hiện nay. Theo đó, các bên
chủ thể tham gia giao dịch có thể thỏa thuận về đối tượng của giao dịch
là vật được hình thành trong tương lai. Vậy vật là gì ? Và khi nào vật
được coi là tài sản? Sự cần thiết phải xác định nhằm làm rõ để có cơ sở
khi giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản, có được các căn cứ pháp
lí để quyết định đúng đắn, không gây sự nhầm lẫn. Trong thực tế, có
nhiều cách hiểu về vật khác nhau:
Với nghĩa vật lí: vật là một bộ phận của thế giới vật chất nhưng không
phải mọi vật của thế giới vật chất đều được coi là vật (tài sản) trong
quan hệ pháp luật dân sự. Xét theo tiêu chuẩn lí học: vật trước hết là một
vật thể tồn tại xác định được bằng các đơn vị đo lường về khối lượng.
Hình dáng, tính chất hóa, lí, sinh, những thuộc tính khác của vật trong
mối tương quan với thế giới khách quan cả về mặt tự nhiên và xã hội
Vật xét theo tiêu chuẩn pháp lí dân sự: vật phải tồn tại, có thực, con
người phải chiếm hữu được, chi phối được, xác định được và phải sử
dụng được trong sản xuất kinh doanh, sinh hoạt tiêu dùng nhằm đáp ứng
các nhu cầu vật chất, tinh thần của con người.
Vật xét theo chế độ pháp lí: vật đó theo quy định của pháp luật là vật
cấm lưu thông, hạn chế lưu thông và vật được tự do lưu thông. Chế độ
pháp lí đối với vật không phải là bất biến, mà có tính chất khả biến; một
mặt nó phụ thuộc vào sự phát triển chung về kinh tế-xã hội trong từng
giai đoạn nhất định, mặt khác nó còn phụ thuộc vào quan điểm lập pháp
của mỗi quốc gia trong giai đoạn lịch sử nhất định đó.

Vật xét theo quan niệm xã hội : vật được nhiều người sử dụng và vật
được số ít người sử dụng, vật mang giá trị kinh tế lớn, giá trị tinh thần
cao và vật mang giá trị kinh tế thấp, giá trị tinh thần không cao, Vật còn
được xét theo nhiều tiêu chuẩn khác tùy thuộc vào tâm lí, thẩm mĩ và
văn hóa sử dụng của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong từng thời kì phát


triển lịch sử nhất định và phần lớn phụ thuộc vào trình độ, chuyên môn
sản xuất vật chất và lưu thông hàng hóa của thời kỳ lịch sử đó
Vậy vật khi nào là tài sản ? Để giải quyết vấn đề đặt ra cần căn cứ vào
những tiêu chí của quan hệ pháp luật dân sự cụ thể để xác định. Điều
105 BLDS năm 2015 quy định về vật phải được hiểu như thế nào cho
đúng? Không phải bất kì vật nào của thế giới vật chất cũng đều được coi
là tài sản. Xét theo quan hệ này thì một vật nhất định được coi là tài sản
nhưng nếu xét theo quan hệ cụ thể khác thì vật đó không thể được coi là
tài sản. Để xác định một vật có được coi là tài sản hay không phải đặt
vật đó trong từng quan hệ cụ thể và không thể lập luận theo một chiều,
có vật là có tài sản được. Bởi vậy, vật là tài sản khi thỏa mãn các điều
kiện sau:
Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành
trong tương lai xác định được;
Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được, phải chiếm
hữu được;
Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó
phải khai thác được về tài sản (thương mại, dân sự, tiêu dùng), đáp ứng
nhu cầu vật chất và tinh thần của con người;
Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể
trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay quy đổi được bằng tiền.
Như vậy, vật được hiểu theo khía cạnh vật lí khác về ý nghĩa so với vật
được hiểu theo góc độ pháp lí. Vật được hiểu theo góc độ pháp lí là

những vật được dùng trong quan hệ pháp luật cụ thể đồng thời vật là đối
tượng của quan hệ pháp luật đó. Từ nhận định này thì tài sản bao gồm
vật nhưng không phải mọi vật của thế giới vật chất đều được coi là tài
sản trong quan hệ về quyền sở hữu và các quan hệ pháp luật dân sự
khác. Việc xác định vật khi nào là tài sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản. Khi xác định một vật là
tài sản, để có căn cứ pháp lí xác định các quyền và nghĩa vụ về tài sản


của các chủ thể trọng quan hệ pháp luật dân sự. Việc xác định vật là tài
sản đồng thời là căn cứ để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó của
chủ thể nhất định. Từ đó có thể kết luận rằng, vật chỉ có thể được coi là
tài sản khi nó được sử dụng vào mục đích xác lập quyền và nghĩa vụ tài
sản của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định và vật
được xác định là đối tượng của quan hệ pháp luật đó.
Tiền
Tiền, theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm
thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền
hiện nay khi nó đang có giá trị và lưu hành trên thực tế. Có thể nói rằng
việc sử dụng tiền là một phát minh vĩ đại của loài người. Một trong
những chức năng cơ bản nhất của tiền là nhằm vào mục đích sử dụng
trong giao dịch mua bán. Hợp đồng mua bán là hệ quả trực tiếp nhất của
việc sử dụng tiền. Với việc phát minh ra tiền thì giao dịch mua bán được
xác lập, tức là việc trao đổi vật để lấy một số tiền có giá trị tương đương.
Với số tiền do bán được vật, người bán lại có thể trở thành người mua
trong quan hệ mua bán khác, dùng số tiền do bán vật có được để lại mua
lấy các tài sản cần thiết cho bản thân. Từ thời điểm đó, hợp đồng mua
bán đã trở thành loại hợp đồng thông dụng nhất cho đến ngày nay. Pháp
luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại tài sản này có
những đặc điểm pháp ký khác với vật. Có thể liệt kê một số điểm khác

biệt giữa vật và tiền như sau:
Đối với vật, chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật
đó( dùng nhà để ở, dùng xe mấy để đi,) còn đối với tiền thì không thể
khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ tiền hay đồng tiền xu đó. Tiền
thực hiện ba chức năng chính là : công cụ thanh toán đa năng, công cụ
tích lũy tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Khái niệm
“quyền sử dụng” chỉ được áp dụng một cách trọn vẹn cho vật chứ không
áp dụng được cho tiền.


Các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra nhưng
tiền chỉ do nhà nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi
là một trong những chủ quyền của mỗi quốc gia.
Vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng còn
tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó.
Chủ sở hữu vật được toàn quyền tiêu hủy vật thuộc sở hữu của mình,
còn chủ sở hữu của tiền thì lại không được tiêu hủy tiền ( không được
xé, đốt, sửa chữa, thay đổi kích thước, hình dạng, làm giả )
Như vậy, từ việc so sánh trên, có thể thấy rõ được một số điểm khác biệt
về mặt pháp lí giữa vật và tiền. Dưới góc độ kinh tế thì việc sử dụng tiền
được hiểu thông qua hành vi đầu tư tiền vào các loại hoạt động kinh
doanh ( mua bán thiết bị, cho vay lấy lãi, góp vốn) hay tiêu dùng nhưng
dưới góc độ luật dân sự thì các hành vi hay tiêu dùng đó lại phải được
hiểu là các hành vi thực hiện quyền định đoạt tiền (chuyển giao quyền sở
hữu tiền cho chủ thể khác) chứ không phải là quyền sử dụng. Dưới góc
độ kinh tế, việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng ( gửi tiền vào tài khoản
của mình trong ngân hàng ) thường được coi là hành vi cất giữ tiền, còn
dưới góc độ luật dân sự thì việc gửi tiền vào ngân hàng hay các tổ chức
tín dụng khác lại phải luôn được hiểu là hợp đồng cho vay tài sản. Bởi
lẽ, sau khi gửi vào ngân hàng thì chính ngân hàng là chủ sở hữu khoản

tiền đó và phải chịu rủi ro đối với khoản tiền đó. Người gửi khi ấy chấm
dứt quyền sở hữu đối với số tiên vừa gửi, trở thành bên cho vay, có
quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán khoản tiền tương đương theo thời
hạn. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà hợp đồng vay đó có thể có thời
hạn hoặc không thời hạn, có thể có lãi hoặc không có lãi. Nói cách khác,
dưới góc độ kinh tế thì không có sự khác biệt cơ bản về bản chất của tiền
mặt và tiền trong tài khoản nhưng dưới góc độ luật dân sự thì “tiền trong
tài khoản” lại được hiểu là quyền tài sản (quyền yêu cầu ) – một loại tài
sản khác chứ không phải là tiền. Trong pháp luật dân sự, tiền có tính
năng đặc biệt ( khác với vật) là khi chuyển giao tiền thì bao giờ cũng
kèm theo chuyển giao quyền sở hữu, trừ trường hợp khi chuyển giao ta


đặc định hóa gói tiền thông qua việc niêm phong gói tiền lại. Chúng ta
cũng nên phân biệt giữa nội tệ và ngoại tệ. Dưới góc độ kinh tế, nội tệ
hay ngoại tệ cũng đều là tiền cả. Cách phân loại tiền thành nội tệ và
ngoại tệ hoàn toàn phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của một quốc gia:
Một loại tiền được coi là nội tệ của quốc gia phát hành và là ngoại tệ đối
với các quốc gia khác. Nhưng hiện tại chưa có điều luật quy định là tiền
là nội tệ và ngoại tệ hoặc ngoại tệ là loại tài sản hạn chế lưu thông. Có
quan điểm cho rằng ngoại tệ không phải là tiền bởi lẽ ngoại tệ không bao
giờ là công cụ thanh toán đa năng. Vậy ngoại tệ xếp vào đâu? Ngoại tệ
không phải là vật vì không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính tờ
ngoại tệ được. Ngoại tệ cũng không được coi là giấy tờ có giá bởi ta
không xác định được ai là chủ thể nghĩa vụ trong đó. Suy cho cùng xuất
phát từ chính khái niệm hẹp về tài sản mà phát sinh ra một số vấn đề
thực tế trong cuộc sống chưa giải quyết được.
Tuy nhiên có quan điểm cho rằng các kim loại quý, đá quý như vàng,
bạc, kim cương có giá trị tương ứng với tiền tại một thời điểm xác định
và có thể đưa vào giao lưu thay thế cho tiền nên cũng có thể coi đó là

tiền. Chính tại các kim loại quý,… đó chỉ có giá trị tương ứng với tiền
tại một thời điểm xác định vì các kim loại quý, đá quý thường xuyên
biến động theo thị trường nhưng cái pháp luật muốn hướng tới là những
quy định có tính ổn định dài vì việc xác định tiền chỉ là tiền giấy (hiện
tại ở Việt Nam) còn kim loại quý là vật có ý nghĩa quan trọng đối với
các nghành luật khác. Ví dụ như luật hình sự, khi vận dụng để xác định
hành vi chiếm đoạt vẫn phải tách riêng tiền và các loại tài sản khác vì
thời điểm chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay
không có tội phạm xảy ra. Ví dụ, đối với hành vi trộm cắp mà đối tượng
tác động là một chỉ vàng 9999 thì có thời điểm nó đủ yếu tố định lượng
để xác định tội danh, nhưng ở thời điểm khác lại không đủ điều kiện về
định lượng.
Giấy tờ có giá


Giấy tờ có giá là lọai tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay,
đặc biệt là trong ngân hàng và trong các tổ chức tín dụng khác. Nhưng
trong Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ quy định nó là một loại tài sản mà
không có quy định cụ thể về cách hiểu đối với giấy tờ có giá. Vậy phải
hiểu Giấy tờ có giá là như thế nào cho đúng với ý nghĩa là một loại tài
sản trong quan hệ pháp luật dân sự? Theo thông tư 34/2013/TT-NHNN
giấy tờ có giá được hiểu là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành với người
mua giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác. Giấy tờ có giá ngắn hạn được hiểu là giấy tờ có giá cờ
thời hạn dưới 1 năm bao gồm: kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi
ngắn hạn và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Giấy tờ có giá dài hạn là
giấy tờ có thời hạn 1 năm trở nên kể từ khi phát hành đến khi hết hạn
bao gồm: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài
hạn khác. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình

thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có gía vô
danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá đó. Theo
nghĩa rộng, giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định
( tổ chức hoặc cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể
khác. Tuy nhiên trong số giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản đó, có
một số giấy tờ đặc biệt có thể chuyển giao được, ai đánh mất nó là mất
quyền mà ai có nó thì có quyền, thì những giấy tờ này mới được coi là
giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân
sự. Dưới góc độ pháp luật dân sự, những loại giấy tờ có giá ghi danh và
cấm chuyển nhượng không được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một
loại tài sản trong giao lưu dân sự bởi lẽ mất chúng không phải là mất
tiền, chứng chỉ đơn giản là những loại giấy tờ có giá trị minh chứng cho
quyền sử dụng, quyền yêu cầu, quyền sử dụng, quyền định đoạt hoặc
quyến sở hữu nói chung mà thôi. Chỉ những giấy tờ có giá không ghi
danh có thể chuyển giao, cầm cố, thế chấp,và mất nó coi như mất tiền
mới được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản theo quy


định tại Điều 105 BLDS năm 2015. Qua đó có thể thấy được rằng: Giấy
tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được
trong giao lưu dân sự. Vậy dưới góc độ pháp lý trong quan hệ pháp luật
dân sự giấy tờ có giá có những đặc điểm nào ? Đặc điểm của giấy tờ có
giá bao gồm :
Thứ nhất về mặt hình thức thì giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập
theo hình thức, trình tự luật định.
Thứ hai là nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản,
giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp
luật ghi nhận và bảo hộ.
Thứ ba là giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển

nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ, một lần, việc chuyển
nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.
Ngoài ra còn có thể kể thêm một số đặc điểm khác như có tính thời hạn,
tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro.
Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, công tráikhác với tiền chỉ do cơ
quan duy nhất là Ngân hàng nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá có thể
do rất nhiều các cơ quan khác ban hành như Chính phủ, Kho bạc, các
công ty cổ phần. Nếu tiền luôn có mệnh giá nhất định thể hiện thước đo
gía trị của những loại tài sản khác, luôn lưu hành không có thời hạn,
không ghi danh thì giấy tờ có giá có thể có mệnh giá hoặc không có
mệnh giá, có thể có thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có
thể ghi danh hoặc không ghi danh và việc thực hiện quyền định đoạt về
số phận thực tế đối với giấy tờ có giá không thể xác định bằng những
đơn vị đo lường thông dụng mà nó được xác định giá trị thông qua giá
trị ghi trên loại giấy tờ đó ( ví dụ như hối phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi
nợ, séc,…) nhưng có loại giấy tờ giá trị của nó có thể cao hơn hoặc thấp
hơn giá trị bề mặt của nó ( chẳng hạn như cổ phiếu)…và ta không thể
khai thác công dụng hữu ích từ chính loại giấy tờ có giá đó. Và một điều


quan trọng là giấy tờ có giá không chỉ trị giá được bằng tiền mà còn
chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Nó là một tài sản hữu hình và
đối với loại tài sản này ta có thể thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt chúng.
Cần lưu ý là các loại gấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối
với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà, giấy đăng kí ô tô, sổ tiết kiệm,…không phải là giấy tờ có giá.
Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc
sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.

Quyền tài sản
Quyền tài sản là một trong các loại tài sản được liệt kê tại điều 105
BLDS năm 2015. Theo quy định tại điều 115 BLDS năm 2015: quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Có thể rút ra được gì từ định nghĩa đó? Rõ ràng, một mặt, quyền tài sản
là tài sản. Mặt khác, một quyền tài sản phải có đủ hai yếu tố: trị giá được
bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Theo đó thì quyền
tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của chủ thể mang
quyền. Quyền tài sản trước hết là quyền của chủ thể xác định được trong
quan hệ pháp luật nhất định. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân
sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền này
phải trị giá được thành tiền hay nói cách khác là phải tương đương với
một đại lượng vật chất nhất định. Quyền tài sản được xác định dưới góc
độ luật dân sự, là quan hệ về tài sản. Các căn cứ xác lập quyền tài sản,
chủ thể của quyền tài sản đều dựa trên những quy định của pháp luật và
các giao dịch dân sự. Quyền tài sản thì có rất nhiều nhưng chỉ những
quyền tài sản nào có thể trở thành đối tượng trong các giao dịch dân sự
thì mới được coi là tài sản theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015.
Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản là
tài sản như quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm hại, quyền tài


sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối
với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng. Đây là cách phân loại mang
nhiều ý nghĩa trong luật dân sự cũng như trong các ngành luật khác.
Trong luật dân sự, có nhiều trường hợp đối tượng của quan hệ không thể

là tiền hoặc giấy tờ có giá ví dụ như hợp đồng thuê, hợp đồng mượn.
Hơn nữa, khi đối tượng của giao dịch là các loại tài sản khác nhau thì
phương thức thực hiện cũng sẽ được áp dụng khác nhau ( ví dụ: phương
thức thực hiện nghĩa vụ giao vật khác với thực hiện nghĩa vụ có đối
tượng là tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Đối với tiền khi thực hiện
chậm sẽ bị tính lãi tương ứng với thời gian chậm trả còn đối với vật chỉ
có thể là buộc phải giao vật và/hoặc bồi thường thiệt hại. Đối với quyền
tài sản thì vấn đề cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ là yêu cầu
bắt buộc ). Trong luật hình sự, việc xác định được đúng loại tài sản theo
Điều 163 BLDS năm 2005 sẽ có ý nghĩa trong việc xác định đúng một
số tội danh như tội vận chuyển trái phép hang hóa, tiền tệ qua biên giới;
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả
khác; tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có…



×