Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THÙY DƯƠNG

SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG
ỐNG NGHIỆM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THÙY DƯƠNG

SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG
ỐNG NGHIỆM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60380103


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi, các kết luận, số liệu trong luận văn đều là
trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.
Xác nhận của
giảng viên hướng dẫn

TS. Nguyễn Thị Lan

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Đỗ Thùy Dương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam (sửa đổi) 2014: Luật Hôn nhân và Gia
đình 2014
2. Nghị định 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2003 của Chính phủ về
sinh con theo phương pháp khoa học: Nghị định 12/2003/NĐ-CP;
3. Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy
định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo: Nghị định 10/2015/NĐ-CP;
4. Thông tư 57/2015/TT-BYT ngày 30 tháng 12 năm 2015 của Bộ Y tế quy
định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01
năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong

ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Thông tư
57/2015/TT-BYT.


MỤC LỤC
STT NỘI DUNG

1.1.

TRANG

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ SINH
CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM

1
7

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

7

1.1.1 Khái niệm kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
1.1.2. Khái niệm kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

7
9


1.2.

13

Ý NGHĨA CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM

1.2.1. Ý nghĩa về mặt xã hội
1.2.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý

13
14

1.3.

NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM

14

1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.

Nguyên tắc vì mục đích nhân đạo
Nguyên tắc tự nguyện
Nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận
Nguyên tắc tuân thủ theo quy trình kỹ thuật


15
16
17
18

1.4.

ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

19

1.4.1. Điều kiện đối với người cho noãn, cho tinh trùng, phôi
1.4.2. Điều kiện đối với người nhận noãn, tinh trùng, phôi

19
21

1.5.

HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

30

1.5.1. Xác định quan hệ giữa người cho noãn, tinh trùng, phôi với
trẻ sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
1.5.2. Xác định quan hệ giữa người nhận noãn, nhận tinh trùng,
nhận phôi với trẻ sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm

1.5.3. Xác định quan hệ giữa người mang thai hộ với trẻ sinh ra
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

30
32

35


1.5.4. Xác định quan hệ giữa người nhờ mang thai hộ với trẻ sinh ra
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
1.5.5. Xác định mối quan hệ giữa trẻ sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và người thân thích khác

37

1.6.

39

THỦ TỤC CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH QUAN HỆ CHA, MẸ, CON
BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM

1.6.1. Thủ tục hành chính
1.6.2. Thủ tục tư pháp

38

39
43


CHƯƠNG HAI: NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ BẤT CẬP CỦA
PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN

50

NHỮNG BẤT CẬP VÀ VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LUẬT VỀ
SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM

50

2.1.1. Pháp luật khó kiểm soát về tính triệt để tuân thủ các nguyên
tắc khi cho nhận tinh trùng, noãn, phôi
2.1.2. Điều kiện thực hiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm còn chưa hợp lý
2.1.3. Thủ tục đăng ký hồ sơ sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm còn nhiều hạn chế
2.1.4. Mang thai hộ phát sinh một số vướng mắc, bất cập
2.1.5. Thủ tục xác định lại cha, mẹ, con còn nhiều vướng mắc

50

2.2.

MỘT SÓ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SINH
CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM


71

KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79

2.1.

PHỤ LỤC

56
59
60
65


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ngày nay đã không còn là
một khái niệm quá xa lạ trong cuộc sống. Vấn đề vô sinh ở Việt Nam đang đối
mặt với những con số đáng báo động, khoảng 700.000 đến 1.000.000 cặp vợ
chồng đang bị vô sinh. Theo số liệu nghiên cứu hơn 4.000 tinh dịch đồ tại
trung tâm điều trị vô sinh ở thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu di
truyền và sức khỏe sinh sản thuộc khoa Y (Đại Học Quốc Gia) nghiên cứu tại

bệnh viện Phụ sản Trung Ương và Đại học Y Hà Nội, tiến hành trên 14.300
cặp vợ chống tuổi sinh đẻ (15 – 49 tuổi) ở tám tỉnh cho tám vùng sinh thái ở
Việt Nam, tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam lên tới 7,7%1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản đã trở thành một giải pháp phổ biến đối với các cặp vợ chồng
không thể có con theo cách tự nhiên cũng như những người phụ nữ độc thân
muốn có con.
Việt Nam đã có quy định pháp lý đầu tiên liên quan tới việc mang thai bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại Nghị định 12/2003/NĐ-CP ngày 12
tháng 02 năm 2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học (sau
đây gọi tắt là Nghị định 12/2003/NĐ-CP). Tuy nhiên, nghị định này mới chỉ
đưa ra hành lang pháp lý cơ sở của việc mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm mà chưa đề cập và giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh từ sự kiện
pháp lý này. Trong trường hợp mang thai hộ, sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm chính là một phần phương thức sự kiện này được diễn ra.
Trước khi được thông qua trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014, mang thai hộ
đã tồn tại chui và trở thành vấn đề nhức nhối của xã hội khi trở thành một hoạt
động mang tính thương mại hóa.
1

Xem:
/>

2

Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) 2014 được thông qua, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2015 có nhiều điểm mới, trong đó có quy định mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo. Cùng đó, nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28
tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (sau đây gọi
tắt là Nghị định 10/2015/NĐ-CP) và Thông tư 57/2015/TT-BYT ngày 30 tháng

12 năm 2015 của Bộ Y tế quy định chi tiết một số điều của Nghị định số
10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo (sau đây gọi tắt là Thông tư 57/2015/TT-BYT) được ban hành
nhằm đưa ra các quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
Kể từ thời điểm quy định của pháp luật cho phép mang thai hộ, hơn 60 hồ
sơ mang thai hộ đã được duyệt tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Cả nước có
khoảng 100 hồ sơ đủ điều kiện cho phép mang thai hộ. Dự kiến tới hết sáu
tháng đầu năm 2016, gần 30 em bé sẽ ra đời bằng phương pháp mang thai hộ2.
Tuy niên, do thời gian đi vào thực tế còn mới, nhiều vướng mắc, bất cập đã dần
phát sinh. Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được quy định như
thế nào và sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phát sinh hậu quả
pháp lý gì đối với những chủ thể liên quan? Việc cải tiến, tiếp tục hoàn thiện
pháp luật là điều vô cùng cần thiết. Chính bởi vậy, học viên đã lựa chọn đề tài:
“Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo pháp luật Việt Nam”.
Luận văn tập trung nghiên cứu, tổng hợp và phân tích một cách chuyên sâu và
toàn diện các vấn đề pháp lý về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm nhằm tìm ra những bất cập và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp
luật.

2

Xem: />

3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với “mang thai hộ”, “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” (bao
gồm kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm) là hai đề tài được quan tâm hàng đầu
trong lĩnh vực hôn nhân gia đình khi các nhà làm luật xây dựng Luật Hôn nhân

và gia đình 2014. Các quy định pháp lý về đề tài này được hệ thống hóa, biên
tập thành đầu sách trong Tủ sách Pháp luật phổ thông với nhan đề “Tìm hiểu
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo” của tác giả Trương Hồng Quang, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia năm 2015.
Đề tài sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cũng là một phần
nội dung được nghiên cứu trong các công trình liên quan đến vấn đề xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, có một
số bài viết được đăng trên các báo, tạp chí như: “Những vấn đề nảy sinh từ quy
định về xác định cha, mẹ, con sinh ra nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” của tác giả
Lê Thị Kim Chung (Tạp chí Dân chủ pháp luật số 9/2014); “Quyền làm mẹ của
người phụ nữ theo quy định của pháp luật Việt Nam” của TS. Nguyễn Phương
Lan (Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ năm 2004)… Tuy nhiên, việc mang
thai hộ mới được công nhận trong Luật hôn nhân và gia đình 2014 nên các
công trình khoa học kể trên mới chỉ phân tích đến vấn đề xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà không xét đến
trường hợp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm trong trường hợp
nhờ mang thai hộ. Vấn đề mang thai hộ cũng mới được nghiên cứu một cách
khái quát trong một số bài viết như: “Quy định về mang thai hộ - một nội dung
mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” của tác giả Nguyễn Quế Anh
(Tạp chí Luật sư Việt Nam số 8/2015); “Thụ tinh trong ống nghiệm và những
vấn đề pháp lí phát sinh” của TS. Nguyễn Thị Lan (Tạp chí Luật học số
4/2015); “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” của TS. Nguyễn Huy Quang và
Ths. Đinh Thị Thu Thủy (Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về Y tế số 03


4

tháng 09/2014)… nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
toàn diện và đầy đủ về quy định sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống

nghiệm. Khóa luận này là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, mang tính
chuyên sâu về các vấn đề pháp lý và hậu quả pháp lý của việc mang thai bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và các
nghiên cứu khác có liên quan để việc nghiên cứu có chiều sâu và có tính khoa
học.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn diện cả về lý luận và thực tiễn vấn đề
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo pháp luật Việt nam.
Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm không có yếu tố nước ngoài đồng thời tập trung nghiên cứu pháp
luật nội dung và các vấn đề pháp luật hình thức có liên quan mật thiết đến pháp
luật nội dung về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và hậu quả
pháp lý để đề tài nghiên cứu đảm bảo tính toàn diện và logic.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Từ đó phát
hiện những quy định còn thiếu sót, chưa cụ thể cũng như tìm ra những điểm bất
cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm. Trên cơ sở đó, khóa luận đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực
tế.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn


5

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn được đặt ra nhằm định hướng cho tác
giả luôn tư duy logic theo mạch vấn đề. Để trả lời cho câu hỏi mang thai bằng

kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm gồm những vấn đề cơ bản nào, tác giả đưa
ra hệ thống luận điểm, luận cứ trong phần đầu luận văn: khái niệm về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; điều kiện thực hiện sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm; các nguyên tắc đặt ra khi thực hiện sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm... Phần tiếp theo, câu hỏi vấn đề sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm có những vướng mắc, bất cập gì
và tác giả đưa ra quan điểm khoa học gì của cá nhân để khắc phục những bất
cập đó đều được làm rõ.
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mac
– Lenin và hệ thống quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp ở Chương hai khi xem xét,
đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm cũng như đưa ra phương hướng, giải pháp để xây dựng pháp
luật điều chỉnh việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt
Nam hiện nay và trong tương lai.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn đã khái quát được những vấn đề cơ bản của pháp luật về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá
trình học tập và nghiên cứu của sinh viên khi tìm hiểu về vấn đề sinh con bằng


6

kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cũng như có thể sử dụng như tài liệu xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài Mục lục, Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm hai chương:
Chương một: Cơ sở lý luận và pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm;
Chương hai: Những vướng mắc và bất cập của pháp luật về sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và một số giải pháp.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
1.1.

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM

1.1.1. Khái niệm kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng vượt trội, sức khỏe cũng
như tuổi thọ của con người đang ngày càng được cải thiện đáng kể3. Không chỉ
cải thiện tình trạng sức khỏe, các bệnh lý của con người cũng đã có nhiều giải
pháp hỗ trợ mà một trong số đó là vấn đề liên quan tới sinh sản. Việt Nam với
tỷ lệ vô sinh lên tới 7,7% (nghiên cứu trên 14.300 cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh
sản), kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã giúp các cặp vợ chồng vô sinh cũng như người
phụ nữ độc thân muốn sinh con có thể sinh con của chính mình, giải quyết vấn
đề y học. Để đảm bảo các hậu quả pháp lý phát sinh, pháp luật đã có những
quy định cụ thể về riêng vấn đề này.

Để hiểu rõ hơn về khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trước
hết cần xem xét một số khái niệm được quy định tại Điều 2 Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
1. Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong
ống nghiệm để tạo thành phôi.
...3. Noãn là giao tử của nữ;
4. Tinh trùng là giao tử của nam;
5. Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể được xem xét dưới
hai góc độ:
3

Tuổi thọ trung bình của dân số thế giới đã tăng gấp đôi trong hai thế kỷ qua.
Xem: />

8

 Dưới góc độ y học:
Theo định nghĩa từ Đạo luật về Chứng chỉ và Mức thành công của các
phòng Y tế Hỗ trợ Sinh sản (Hoa Kỳ)4, từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh:
Assisted Reproductive Technology A.R.T.) bao gồm tất cả các phương pháp
chữa trị chứng vô sinh trong đó cả trứng lẫn tinh trùng đều được sử dụng.
Bên cạnh đó, còn có một số định nghĩa khác về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
như:
+ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là những kỹ thuật kết hợp giữa y học và sinh
học, can thiệp vào các bước trong sinh lý sinh sản tự nhiên nhằm giúp làm tăng
khả năng sinh sản5.
+ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là các phương pháp giúp đỡ và điều trị cho
các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh bằng các thủ thuật y học với sự can thiệp

của cơ sở y tế có thẩm quyền.
Trong đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP:
"Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình
dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ
vẫn không có thai".
Tuy nhiên, hiện nay, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn được sử dụng để giúp
những người phụ nữ sống độc thân, mong muốn có con mà không thuộc trường
hợp hiếm muộn hay vô sinh. Vì thế, các định nghĩa trên vẫn còn tồn tại thiếu
sót. Theo quan điểm của tác giả, dưới góc độ y học, có thể đưa ra khái niệm
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như sau :
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con thông qua biện pháp
áp dụng những kỹ thuật y sinh học bởi các cơ quan y tế có thẩm quyền để giúp

4
5

Xem: />Xem: />

9

các cặp vợ chồng vô sinh hoặc những người phụ nữ sống độc thân thực hiện
được mong muốn có con của mình.
 Dưới góc độ pháp lý
Khái niệm “sinh con bằng kỹ thuật thuật hỗ trợ sinh sản” được đưa ra tại
Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Tuy nhiên, khái niệm này được xây dựng thông qua việc sử dụng phương
pháp liệt kê, chưa làm rõ được thế nào là “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản” cũng như không thể hiện được đặc trưng của phương pháp này. Tóm lại,

dưới góc độ pháp lý, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể được định
nghĩa như sau:
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con có sự can thiệp của
các kỹ thuật y sinh học trong trường hợp quá trình mang thai tự nhiên của con
người bị hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau, được tiến hành trên cơ sở
quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể.
1.1.2. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
mang thai hộ
1.1.2.1. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
“Lịch sử của thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization – IVF) và cấy
phôi (Embryo transfer – ET) được biết đến sớm nhất là vào năm 1890 khi
Walter Heape, một giáo sư – bác sĩ tại Đại học Cambridge (Anh) đã tiến hành
nghiên cứu về sinh sản ở một số loài động vật, báo cáo trường hợp đầu tiên
được biết đến của cấy ghép phôi thai ở thỏ, rất lâu trước khi các ứng dụng cho
khả năng sinh sản của con người được đề nghị. Tuy nhiên, phải đến năm 1959,
bằng chứng không thể chối cãi của thụ tinh ống nghiệm mới thu được bởi MC
Chang, người đầu tiên đạt được thành công trong sinh sản ở động vật có vú


10

(thỏ) bằng cách thụ tinh ống nghiệm. Những quả trứng mới rụng đã được thụ
tinh trong ống nghiệm bằng cách ủ với tinh trùng trong bình Carrel nhỏ trong
bốn giờ, mở ra phương thức để hỗ trợ sinh sản trên người.
…Năm 1978, đứa trẻ đầu tiên (Louise Brown) ra đời ra bằng phương pháp
thụ tinh ống nghiệm ở Oldham, Anh vào ngày 25 tháng 7 năm 1978. Thành
công này là kết quả của sự hợp tác giữa Patrick Steptoe và Robert Edwards.
Đạo luật vô sinh, luật đầu tiên về thụ tinh ống nghiệm và nghiên cứu liên quan
đến phôi người được công bố đầu tiên năm 1984. Đến năm 2012, hơn năm

triệu trẻ em đã được sinh ra trên toàn thế giới nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm. Những mốc phát triển quan trọng này đã mở đường cho hàng triệu gia
đình, mang đến hy vọng cho hàng triệu người khó có khả năng sinh con6”.
Tại Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị định số 10/2015/NĐCP và Thông tư số 57/2015/TT-BYT được coi là cơ sở pháp lý đưa ra những
hậu quả pháp lý của việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Dưới góc độ pháp lý của pháp luật Việt Nam, Khoản 1 Điều 2 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP đưa ra khái niệm:
“Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống
nghiệm để tạo thành phôi”.
Thụ tinh trong ống nghiệm và thụ tinh nhân tạo là hai khái niệm bản chất
hoàn toàn khác nhau. Dịch theo chuyên ngành y khoa, thụ tinh nhân tạo là
phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination IUI). Còn thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp mà noãn và tinh trùng
được đưa vào ống nghiệm để kết hợp thành phôi trong môi trường nhất định.
Luật Hôn nhân và gia đình 1959, Luật Hôn nhân và gia đình 1986, Luật
Hôn nhân và gia đình 2000 của Việt Nam trước đây đều chưa có sự đề cập tới
những khái niệm “hỗ trợ sinh sản”, “mang thai hộ” hay “sinh con bằng kỹ thuật

6

Xem: />

11

thụ tinh trong ống nghiệm”. Những khái niệm này lần đầu được đưa ra tại Nghị
định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2003 của Chính phủ về sinh
con theo phương pháp khoa học. Kèm theo nghị định này là thông tư số
07/2003/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 28 tháng 5 năm 2003 hướng dẫn thi hành
nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của Chính phủ về sinh con theo
phương pháp khoa học. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế và để hoàn thiện hơn
khung pháp lý về sinh con theo phương pháp khoa học và mang thai hộ vốn là

một khái niệm mới mẻ, gây nhiều tranh cãi, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã
cập nhật kịp thời những quy định về vấn đề này, có thể coi là những bước tiến
trong khoa học xã hội của nhà làm luật.
Tại Việt Nam, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm bắt đầu được thực hiện
vào năm 1997. Những người thuộc một trong ba nhóm nguyên nhân hiếm
muộn dưới đây sẽ được chỉ định thụ tinh trong ống nghiệm:
 Nguyên nhân hiếm muộn từ người vợ như tổn thương, tắc, ứ dịch vòi trứng,
lạc nội mạc tử cung hay rối loạn phóng noãn sau khi thất bại bơm tinh trùng
nhiều lần;
 Nguyên nhân hiếm muộn từ người chồng như tinh trùng ít, yếu và dị dạng
hoặc không có tinh trùng;
 Hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân và đã bơm tinh trùng nhiều lần thất bại.
Hiện nay, có ba cách thụ tinh trong ống nghiệm như sau:
1. Cổ điển: Trứng được trộn lẫn với hàng ngàn tinh trùng trong một chiếc đĩa
chuyên khoa. Sau đó, đặt vào tủ cấy mô phỏng môi trường tự nhiên. Cả quá
trình đều thực hiện trong phòng thí nghiệm. Sau khi phôi thai hình thành sẽ
được đưa vào tử cung người phụ nữ.
2. Cách với chu kỳ tự nhiên: Thu thập và thụ tinh một trứng trong quá trình
rụng trứng tự nhiên khi đến chu kỳ của người phụ nữ. Không sử dụng biện
pháp kích thích rụng trứng.


12

3. Cách kích thích nhẹ: Dùng một lượng nhỏ chất kích thích rụng trứng
trong quá trình thụ tinh, rút ngắn được thời gian hoàn thành hơn cách
cổ điển7.
Như vậy, tác giả hoàn toàn đồng tình với khái niệm sinh con bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm mà luật đã đưa ra. Theo tác giả, khái
niệm sinh con bằng khái niệm thụ tinh trong ống nghiệm là:

“Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp
sinh con mà có sự kết hợp của noãn và tinh trùng tạo thành phôi trong
ống nghiệm”.
Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nằm trong
nội hàm của khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mỗi
phương pháp khoa học như vậy khi tiến hành đều được tuân thủ nghiêm
ngặt theo quy định của pháp luật bở hậu quả pháp lý phát sinh từ các sự
kiện pháp lý này.
1.1.2.2. Khái niệm mang thai hộ
Trong một số trường hợp nhất định, thụ tinh trong ống nghiệm chính là
một giai đoạn của phương pháp mang thai hộ. Luật Hôn nhân và gia đình
2014 đưa ra khái niệm về mang thai hộ tại Điều 3 như sau:
22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự
nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng
mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của
người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của
người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

7

Xem: Điều trị hiếm muộn hiệu quả với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm IVF
/>

13

23. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ
mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để
được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
Các vấn đề pháp lý liên quan tới mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

cũng được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị định số
10/2015/NĐ-CP và Thông tư số 57/2015/TT-BYT. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng, nhiều vấn đề liên quan tới pháp luật nội dung cũng như
pháp luật hình thức của pháp luật về mang thai hộ đã được đặt ra. Việc
tìm ra định hướng hoàn thiện những bất cập này cũng chính là mục đích
hướng tới của luận văn.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ
TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
1.2.1. Ý nghĩa về mặt xã hội
Sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đưa ra nhiều ý nghĩa
quan trọng. Đối với y học, sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm là kết quả của việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong
lĩnh vực y học để giải quyết vấn đề vô sinh ở người. Đối với xã hội, sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là một biện pháp mang tính
nhân đạo đối với những cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân
có mong muốn sinh con. Không chỉ vậy, chức năng duy trì nòi giống của
gia đình theo quan niệm xã hội được bảo đảm duy trì. Ở các nước phát
triển, hiện có khoảng 1 – 5% số em bé sinh ra hiện nay là từ các kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm. Người ta ước tính có trên nửa triệu chu kỳ hỗ
trợ sinh sản được thực hiện mỗi năm trên toàn thế giới. Trên thế giới đã
có hàng triệu em bé ra đời từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bao gồm thụ
tinh trong ống nghiệm. Tại Việt Nam, con số này có thể đạt đến 1000 tính


14

đến hết năm 2016 và hiện nay có khoảng 250 em bé ra đời mỗi năm từ kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm8.
1.2.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý
Đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn hay phụ nữ độc thân lựa chọn

phương pháp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm sẽ phát sinh thủ
tục pháp lý khi tiến hành cũng như hệ quả pháp lý khi sự kiện phát sinh. Việc
đứa trẻ sinh ra được coi là một sự kiện pháp lý, làm phát sinh các yếu tố trách
nhiệm cũng như nghĩa vụ ràn buộc theo luật định. Giữa các chủ thể ở đây xuất
hiện những quan hệ pháp luật: giữa người cho tinh trùng, cho noãn và người
nhận tinh trùng, nhận noãn; giữa con sinh ra với người nhận tinh trùng, nhận
noãn; giữa con sinh ra với người trong gia đình người nhận noãn, tinh
trùng…Từ những quan hệ pháp luật đó, kéo theo các hậu quả pháp lý đối với
từng chủ thể khi có những sự biến xảy ra xét cả trên yếu tố nhân thân lẫn yếu tố
tài sản: thừa kế, cấp dưỡng…Việc xác định hậu quả pháp lý như xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
trở nên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xác định cha, mẹ, con cho trẻ sinh ra
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm kéo theo việc xác định một số quyền
và nghĩa vụ về nhân thân cũng như tài sản đối với các chủ thể liên quan.
1.3.

NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG KỸ THUẬT THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM

Để thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, các chủ
thể tham gia đều phải tuân thủ những nguyên tắc y khoa chặt chẽ cũng như
những nguyên tắc pháp lý mà pháp luật quy định. Các chủ thể tham gia quá
trình mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đều thuộc các đối
tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, bởi vậy, các chủ thể này đều tuân theo
8

Xem: />

15


những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự: nguyên tắc tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự;
nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; nguyên tắc bảo vệ quyền
dân sự; nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác; nguyên tắc tuân thủ pháp luật; nguyên tắc hòa
giải. Ngoài ra, là một quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình và mang tính cá biệt,
các chủ thể này cũng buộc tuân theo những nguyên tắc về việc áp dụng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm được quy định tại Điều 3 nghị định số
10/2015/NĐ-CP.
1.3.1. Nguyên tắc vì mục đích nhân đạo
Nguyên tắc này khẳng định mục đích việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Cặp vợ chồng vô sinh
và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trông ống nghiệm
và cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Khoản 2 Điều 2 Nghị định đưa ra:
“Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình
dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ
vẫn không có thai”.
Khoản 6 Điều 2 Nghị định đưa ra:
“Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy
định của pháp luật”.
Cả hai đối tượng này đều cần chứng minh những điều kiện tiên quyết để
thỏa mãn nguyên tắc của việc mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm. Cặp vợ chồng vô sinh phải chứng minh được hôn nhân hợp pháp của
mình thông qua giấy đăng ký kết hôn và giấy chỉ định của bác sĩ về việc mang
thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Phụ nữ độc thân có mong muốn
mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cần có xác nhận độc thân
của cơ quan xã, phường địa phương có thẩm quyền. Nếu đã ly hôn cần cung



16

cấp thêm quyết định cho phép ly hôn của tòa án để bệnh viện xem xét, tiến
hành kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguyên tắc nêu rõ cho phép mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Nguyên tắc này mang ý nghĩa
nhân văn vô cùng sâu sắc, đồng thời đảm bảo chức năng của gia đình đối với
xã hội. Các cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân không phân biệt dân tộc,
tôn giáo đáp ứng yêu cầu cần thiết đều có quyền thực hiện mang thai bằng kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm (Khoản 3 Điều 1 Nghị định 10/2015/NĐ-CP).
Bất kể trường hợp nào biến tướng không tuân theo nguyên tắc “vì mục đích
nhân đạo” đều không được chấp nhận, bị coi là vi phạm quy định của pháp
luật.
1.3.2. Nguyên tắc tự nguyện
Theo nguyên tắc này, việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn,
cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
của các chủ thể sẽ được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện.
Đối với cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ đơn thân muốn thực hiện kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm, sự tự nguyện này được thể hiện dưới dạng văn bản,
là đơn đề nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Phụ nữ đơn thân
có nguyện vọng mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm có đơn đề
nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Cặp vợ chồng đề nghị được
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải ghi rõ tên, tuổi của cả hai vợ
chồng và phải cùng ký đơn đề nghị9. Nguyên tắc này đảm bảo sự tự do ý chí
của người thực hiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là một kỹ thuật phức tạp, chi phí
tương đối cao so với thu nhập trung bình của người dân Việt Nam10, đồng thời
9

Mẫu số 03 Ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2016;

Theo số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2015 công bố ngày 26/12/2015 của Tổng cục Thống kê, GDP
bình quân đầu người ước đạt 45,7 triệu đồng. Chi phí ước tính mỗi ca mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm tại Việt Nam dao động từ 75 – 125 triệu đồng ;
10


17

yêu cầu cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ đơn thân phải trải qua hàng loạt
kiểm tra, xét nghiệm gắt gao, đáp ứng các điều kiện y học và pháp lý để thực
hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Việc quy định phải có đơn đề nghị
đồng thời để chủ thể cân nhắc kỹ trước khi tiến hành, vừa khẳng định yếu tố tự
nguyện, tự do ý chí của vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có mong muốn
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguyên tắc tự nguyện đặc biệt có ý nghĩa đối với người cho noãn, cho tinh
trùng, cho phôi và người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mỗi cá nhân đều
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm11. Việc cho tinh trùng, noãn, phôi phải được đảm bảo
tuân theo nguyên tắc tự nguyện, không có sự ép buộc về ý chí đối với chủ thể
là người cho. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khái niệm mới được công
nhận trong Luật hôn nhân và gia đình 2014, trên thực tế còn nhiều biến tướng
khó tránh khỏi. Luật Hôn và nhân gia đình 2014 nghiêm cấm thực hiện sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại12, mang thai hộ vì
mục đích thương mại13.
1.3.3. Nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận
Đây là nguyên tắc quan trọng khi thực hiện việc mang thai bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm. Nguyên tắc vô danh có thể được hiểu là thông tin
nhân thân của người cho và người nhận noãn, tinh trùng, phôi được bảo mật và
người cho hay người nhận noãn, tinh trùng, phôi nếu có yêu cầu cung cấp
thông tin sẽ bị từ chối. Nguyên tắc vô danh được quy định cụ thể tại Chương II

Nghị định 10/2015/NĐ-CP. Khoản 3 Điều 4 quy định về việc cho tinh trùng,
cho noãn: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ

11

Xem: Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013;
Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác;
13
Xem: Điểm g Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014;
12


18

và hình ảnh của người cho tinh trùng”. Khoản 5 Điều 5 quy định về việc nhận
tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được
cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận tinh trùng, nhận phôi”.
Như vậy, việc liên lạc, kết nối giữa người cho và người nhận noãn, tinh trùng,
phôi là không thể. Việc quy định như vậy nhằm bảo vệ đời tư của cả hai đối
tượng bên cho và bên nhận khi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm cũng như của con sinh ra bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Người nhận noãn, tinh trùng, phôi tuy không biết thông tin về người cho nhưng
chất lượng noãn, tinh trùng, phôi được đảm bảo do người cho phải trải qua rất
nhiều quá trình kiểm tra, đảm bảo về sức khỏe và những yêu cầu theo luật định.
Nguyên tắc vô danh không áp dụng tuyệt đối do thông tin về dân tộc của
người cho phải công khai. Thông tin về nhân thân như họ tên, tuổi, địa chỉ của
người cho tinh trùng, noãn, phôi được mã hóa. Luật quy định bảo mật về thông
tin người cho tinh trùng, noãn nhưng cũng quy định phải ghi rõ đặc điểm của
người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc vì lí do theo các quy luật sinh học, con

sinh ra sẽ có gen di truyền từ người cho tinh trùng, noãn14.
1.3.4. Nguyên tắc tuân thủ theo quy trình kỹ thuật
Nguyên tắc này quy định việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
phải tuân theo quy trình kỹ thuật và những điều kiện nhất định do Bộ trưởng
Bộ Y tế ban hành. Mang thai bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là một
kỹ thuật phức tạp đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, cơ sở trang thiết bị vật chất
đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật. Việc phối hợp giữa các bộ, ngành
chuyên môn để đưa ra quy định pháp lý tăng cường tính an toàn, hợp lý, chính
xác cho sức khỏe cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia. Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư số 57/2015/TT-BYT ngày 30 tháng 12 năm

14

Di truyền là hiện tượng chuyển những tính trạng của cha mẹ cho con cái thông qua gen của bố mẹ. Trong
sinh học, di truyền chuyển những đặc trưng sinh học từ một sinh vật cha mẹ đến con cái và nó đồng nghĩa với
di chuyển gen, gen thừa nhận mang thông tin sinh học (hay thông tin di truyền).


19

2015 quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28
tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Quy trình kỹ thuật của việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
được quy định tại Chương IV thông tư 57/2015/TT-BYT. Chương IV gồm 21
điều, đưa ra các quy định trình tự thủ tục cần thiết đối với các chủ thể tham gia
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Ngoài ra, việc hỗ trợ chuẩn bị cho các quy trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm cũng được quy định cụ thể, tạo ra một lộ trình khoa học
mang tính chính xác, ổn định để làm căn cứ cho đội ngũ y bác sĩ tiến hành

cũng như người cho và nhận tinh trùng, trứng và phôi.
1.4.

ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM

1.4.1. Điều kiện đối với người cho noãn, tinh trùng, phôi
Điều kiện đối với người cho tinh trùng và cho noãn được quy định tại Điều 4
Nghị định 10/2015/NĐ-CP, cụ thể:
 Người cho tinh trùng, cho noãn được khám và làm các xét nghiệm để xác
định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau; không bị mắc
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình; không bị nhiễm HIV.
Do bộ gen di truyền của con sinh ra từ việc thực hiện sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm là tổng hợp gen từ sự kết hợp tinh trùng/noãn của
người cho và noãn/tinh trùng của người nhận nên các yếu tố di truyền như tính
trạng màu mắt, màu tóc, da, chiều cao…và cả bệnh di truyền đều sẽ có xác suất
xuất hiện ở con. Tinh trùng, noãn được cho phải có chất lượng tốt, khỏe mạnh
và không mang gen bệnh từ người cho. Nếu người cho tinh trùng, noãn mắc
các bệnh trên, con sinh ra cũng sẽ bị bệnh di truyền. Quy định này để đảm bảo
con sinh ra khỏe mạnh, đảm bảo chất lượng giống nòi, không làm suy thoái


×