Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con theo luật phòng chống bạo lực gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.26 KB, 84 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON THEO LUẬT
PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số : 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hà Thị Mai Hiên

Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Luật Dân sự,
khoa Sau Đại học, trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt cho
tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất tới Phó giáo sư Tiến sĩ Hà
Thị Mai Hiên, người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên
cứu, giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện
giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên không thể tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.

Hà Nội, tháng 04 năm 2016
Học viên



Nguyễn Tiến Đạt


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ..................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................2
3. Tính mới của đề tài .....................................................................................2
4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu ...................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................3
6. Kết cấu của luận văn: .................................................................................3
CHƯƠNG 1 ...........................................................................................................4
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON .......4
1.1. Khái niệm gia đình: ................................................................................4
1.2. Khái quát chung về bạo lực gia đình .....................................................6
1.2.1. Khái niệm về bạo lực gia đình: ............................................................6
1.2.2. Hậu quả của bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con đối với gia đình và
xã hội. ..............................................................................................................7
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật trong việc phòng, chống bạo lực giữa cha mẹ
và con ..............................................................................................................8
1.2.4. Các hành vi bạo lực gia đình:...............................................................9
1.3. Phân loại hành vi bạo lực giữa cha mẹ và con: ...................................11
1.3.1. Phân loại các mối quan hệ giữa cha mẹ và con: ................................11
1.3.2. Các dạng bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con: ................................13
CHƯƠNG 2 .........................................................................................................17
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ PHÒNG


CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON .............................17
2.1.Khung pháp lý của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình: ............17
2.2. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình và mối quan hệ với bạo lực
gia đình giữa cha mẹ và con: ...............................................................................19
2.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của bạo lực gia đình: ..................23


2.3.1. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân: .........................................................23
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình: ..............25
2.3.3. Trách nhiệm của gia đình: .................................................................27
2.3.4. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác ............................................28
2.3.5. Những hành vi bị cấm: .......................................................................29
2.4. Các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con: .......................................................30
2.4.1. Các biện pháp xử lý cơ bản: ...............................................................30
2.4.1.1. Buộc chấm dứt hành vi bạo lực và cấp cứu nạn nhân ...................30
2.4.1.2. Cấm tiếp xúc ....................................................................................32
2.4.2. Xử lý vi phạm bằng các văn bản pháp luật khác. .............................34
2.4.2.1. Xử lý hành chính..............................................................................35
2.4.2.2. Xử lý theo pháp luật dân sự ...........................................................36
2.4.2.3. Xử lý theo pháp luật hình sự ...........................................................39
CHƯƠNG 3 .........................................................................................................43
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM.................................43
3.1. Thực trạng bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con trong những năm qua
..............................................................................................................................43
3.1.1. Bạo lực gia đình của cha mẹ đối với con: ..........................................43
3.1.2. Bạo lực gia đình của con cái đối với cha mẹ: .....................................52

3.2. Nguyên nhân bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con .............................56
3.2.1. Cách dạy con chịu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa phong kiến: ...56
3.2.2. Sự xuống cấp về đạo đức: ...................................................................59
3.2.3. Định kiến giới ......................................................................................59
3.2.4. Trình độ nhận thức, sự thiếu hiểu biết về pháp luật còn thấp: ........60


3.2.5. Hỗ trợ tài chính cho công tác phòng chống bạo lực gia đình còn hạn
chế: ................................................................................................................62
3.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật phòng bạo lực gia đình giữa cha mẹ và
con ........................................................................................................................62
3.3.1.Người dân thực hiện pháp luật phòng bạo lực gia đình: ...................62
3.3.2. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật phòng
chống bạo lực gia đình..................................................................................64
3.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật về bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay: .........................................66
3.4.1. Hoàn thiện Luật PCBLGĐ. ................................................................66
3.4.1.2. Hoàn thiện một số quy định của Luật PCBLGĐ............................68
3.4.2. Tăng cường tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức của cá
nhân, gia đình và toàn xã hội về bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình ....71
3.4.3. Xây dựng các chính sách đối với đối tượng dễ trở thành nạn nhân
của bạo lực gia đình......................................................................................74
KẾT LUẬN ..........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................78


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Bạo lực đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu của lịch sử phát triển của con
người. Có thể, nói khi con người xuất hiện, việc sử dụng bạo lực để áp chế, Điều
khiển đối tượng khác cũng xuất hiện theo. Con người thời tiền sử sinh tồn bằng săn
bắt và hái lượm, trong đó, săn bắt là hoạt động sử dụng bạo lực. Con người ngày
càng phát triển, đối tượng áp dụng hoạt động bạo lực của con người ngày càng được
mở rộng:không chỉ là động vật khác, dần chuyển sang đối tượng là con người,
những cá nhân con người ở ngoài cộng đồng mình, và lan đến cả những cá nhân con
người ở trong cộng đồng mình. Trong đó, có những hành vi bạo lực đi ngược lại
truyền thồng đạo đức, đi ngược lại pháp luật của quốc gia đã xuất hiện và đe dọa
những giá trị đáng quý như quyền con người, trật tự an toàn của xã hội. Một trong số
đó là bạo lực gia đình.
Những năm qua, để đấu tranh chống lại hiện tượng xã hội tiêu cực này, việc
phòng chống bao lực gia đình đã được đặt ra với Đảng và Nhà nước, dẫn đến nhiều
văn bản pháp luật được ban hành, trong đó quy định trực tiếp và gián tiếp về vấn đề
bạo lực gia đình như:Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013, Luật Hôn nhân và gia đình;
Luật bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Bộ Luật Dân sự, Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh về Người Cao tuổi,
Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật…đã giúp cho vấn đề đấu tranh phòng
chống bạo lực gia đình những năm qua đã có những bước tiến đang ghi nhận. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề trong thực tế, hệ thống văn bản pháp luật chưa thể
chạm tới trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình chưa thể chạm tới, nhất là đối
với những đối tượng xảy ra hiện tượng bạo lực có quan hệ hết sức gần gũi như cha
mẹ và con. Hơn nữa, hiện tượng bạo lực gia đình, nhất là bạo lực gia đình giữa cha
mẹ và con đang có chiều hướng tăng lên, được dư luận hết sức quan tâm, trong khi
pháp luật về phòng chống, bạo lực gia đình chưa thể ngay lập tức thay đổi. Do đó,
thiết nghĩ, cần nghiên cứu các quy định của pháp luật , đối chiếu với những vấn đề
đặt ra trong thực tế, qua đó, tìm ra nguyên nhân của những khó khắn vướng mắc đặt
ra, những vấn đề mà pháp luật phòng chống và bạo lực gia đình còn chưa đi sâu,
chưa theo kịp tình hình thực tế, để bảo vệ tốt hơn các thành viên gia đình.



2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, khi chưa có Luật

phòng, chống bạo lực gia đình (Luật

PCBLGĐ), các học giả thường tập trung nghiên cứu mặt xã hội của hiện tượng bạo
lực gia đình, những nghiên cứu về pháp luật phòng chống bạo lực gia đình thường
được xây dựng lồng ghép trong các nghiên cứu về hôn nhân gia đình. Sau khi Luật
PCBLGĐ, nhiều nghiên cứu pháp lý xoay quanh vấn đề bạo lực gia đình đã được
thực hiện, cùng lúc khi vấn đề bạo lực gia đình ngày càng mang tính thời sự cấp
thiết. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện về phòng chống bạo lực gia
đình như: Khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu hành vi phòng chống bạo lực gia đình –
nguyên nhân, giải pháp hạn chế” của tác giả Nguyễn Thị Bình (Hà Nội,2010), khóa
luận tốt nghiệp “Bạo lực gia đình đối vơi người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Phùng Thị Vân Anh (Hà Nội, 2012) hay Luận văn thạc sĩ Luật học “Luật
phòng chống bạo lực gia đình với việc hạn chế ly hôn do bạo lực gia đình của tác
giả Nguyên Thị Lệ (Hà Nội, 2010). Mỗi công trình đều nghiên cứu về một khía
cạnh của việc phòng, chống bạo lực gia đình, có thể xuất phát từ bản thân hành vi
bạo lực, đối tượng của hành vi bạo lực hay hệ quả của hành vi bạo lực. Đối với đối
tượng của hành vi bạo lực, các công trình nghiên cứu thường xoay quanh một đối
tượng cụ thể của hành vi bạo lực như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, nhưng chưa có
nhiều những nghiên cứu đối tượng bạo lực gia đình dựa trên một quan hệ xã hội cụ
thể giữa các thành viên gia đình. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Bạo lực gia đình
giữa cha mẹ và con theo Luật PCBLGĐ Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Tính mới của đề tài
Đề tài “Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con theo Luật PCBLGĐ Việt Nam”
đi sâu vào nghiên cứu vấn đề bạo lực gia đình đặt trong mối quan hệ đặc thù giữa

cha mẹ và con cái, về cả 2 phương diện, vấn đề bạo lực của cha mẹ đối với con và
vấn đề bạo lực của con cái đối với cha mẹ, đối chiếu với các quy định của pháp luật
Việt Nam nói chung và Luật PCBLGĐ nói riêng. Từ đó, xem xét thực trạng xã hội
về bạo lực xảy ra giữa các đối tượng này. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm
ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình xảy ra trên thực tế.


3

4. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu các quy định cuả Luật PCBLGĐ Việt
Nam cũng như các văn bản pháp luật khác về vấn đề bạo lực gia đình, đồng thời
xem xét các thực trạng và đưa ra những giải pháp khắc phục hành vi bạo lực gia
đình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định của Luật
PCBLGĐ năm 2007, có xem xét tới các quy định liên quan trọng các văn bản pháp
luật khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài bao
gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về phòng, chống bạo
lực gia đình giữa cha mẹ và con.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
giữa cha mẹ và con và một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam



4

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON
1.1. Khái niệm gia đình:
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua những bước phát triển lâu dài để
có hình thái gia đình như ngày nay. Ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện, xuất
phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào
nhau để sinh tồn, các hình thức sinh hoạt cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã
xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu,
gia đình một vợ một chồng...
Gia đình thường xuyên biến đổi theo sự thay đổi của xã hội. Điều này để lại
những hệ quả trực tiếp hay gián tiếp đối với những thành viên trong suốt quá trình
phát triển.
Trên thực tế có rất nhiều khái niệm khác nhau về gia đình: gia đình là tập
hợp những người cùng có tên trong một sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những
người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà…
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia thành rất nhiều
dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia đình hạt nhân
và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ…
Theo hướng vĩ mô: gia đình được hiểu như một thiết chế với cấu trúc và
những chức năng xã hội nhất định (quan điểm của G. Endrweit và G. Trommsdorff;
"La Sociologie et les sciences de societe" của nhóm tác giả người Pháp – trích đề tài
: “Nghiên cứu đặc thù của gia đình Việt Nam truyền thống để xây dựng gia đình
Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Vụ Gia đình - Uỷ ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em, do thạc sĩ Ngô Thị Ngọc Anh chủ nhiệm).
Theo hướng vi mô, gia đình được định nghĩa là một nhóm xã hội với những
tiêu chí cụ thể, bao gồm có hôn nhân, huyết thống và cùng chia sẻ các lợi ích cũng
như nền văn hoá chung; các tiêu chí về quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ giáo dục

(nảy sinh từ các hình thức, lối sống mới của gia đình trong xã hội hiện đại).
Dù trải qua nhiều biến đổi, hạt nhân chủ yếu vẫn là quan hệ hôn nhân (vợ,
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái). Bên cạnh đó, việc nhìn nhận,
đánh giá gia đình cần được đặt trong trong bối cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội, vào
từng thời điểm và từng góc độ nghiên cứu cụ thể.


5

Cấu trúc gia đình được xác định chính là những nhân tố tạo nên gia đình và
quan hệ qua lại giữa các nhân tố đó. Nói một cách khác, cấu trúc gia đình là số
lượng, thành phần và mối quan hệ giữa các thành viên, các thế hệ trong gia đình. Từ
đây, ta có thể thấy gia đình được cấu trúc theo chiều dọc và chiều ngang: Chiều
ngang là quan hệ hôn nhân và chiều dọc là quan hệ huyết thống.
Về mặt xã hội học, gia đình là một hình thể đặc biệt được tạo thành trên cơ
sở kết hợp các yếu tố khác nhau như: yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa. . .
không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác. Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình là một tế bào của xã hội, là nhân tố tạo
nên xã hội. Không có gia đình, không có sự tái tạo của con người thì xã hội không
tồn tại và phát triển được. Chính vì những đặc điểm và vai trò đặc trưng như vậy,
gia đình trong xã hội mang nhiều chức năng khác nhau: chức năng sinh sản duy trì
nòi giống, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế đóng góp của cái vật chất…
Về mặt kinh tế, gia đình là một đơn vị sản xuất. Lao động của các gia đình là
quá trình tích lũy của cải cho xã hội. Kết luận này được rút ra từ thời kỳ văn minh
nông nghiệp và vẫn đúng trong thời kỳ công nghiệp, thậm chí trong thời kỳ phát
triển dịch vụ và thông tin, khi phần lớn sức sản xuất của xã hội nằm trong tay các
tập đoàn đa quốc gia. Dấu ấn của gia đình luôn đậm nét trong hoạt động thương mại
quy mô nhỏ, hoạt động nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Các nghề tự do thường
mang tính chất cha truyền con nối.
Theo nhà tâm lý học Ngô Công Hoàn, gia đình có 6 đặc trưng cơ bản:

- Là một nhóm xã hội phải có từ 2 người trở lên;
-Trong gia đình phải có giới tính (nam, nữ);
-Quan hệ trong gia đình phải là quan hệ ruột thịt huyết thống nghĩa là có
quan hệ tái sản xuất con người;
-Các thành viên trong gia đình phải gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý;
-Gia đình phải có ngân sách chung;
-Gia đình phải sống chung một nhà. [28]
Dựa theo những đặc điểm nêu trên, ta có khái niệm: “Gia đình là một nhóm
người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có
đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung".


6

Dưới góc độ pháp lý, khái niệm gia đình từng được định nghĩa theo Điều 8
Luật Hôn nhân và gia đình 2000: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.”. Định nghĩa
này cũng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể, theo khoản
2 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Gia đình là tập hợp những người gắn
bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.”
Từ các định nghĩa trên, ta có thể rút là một khái niệm chung: “Gia đình là
một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, có quyền và nghĩa vụ với nhau theo pháp luật, có những chức năng chức
năng xã hội nhất định như chức năng kinh tế, chức năng duy trì nòi giống, chức
năng văn hóa, chức năng giáo dục và các chức năng khác. ”
1.2. Khái quát chung về bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm về bạo lực gia đình:
Nhiều tổ chức trên thế giới đưa ra những khái niệm khác nhau về bạo lực gia

đình:
Tổ chức Y tế thế giới WHO đưa ra khái niệm: “Bạo lực là việc đe dọa hay
dùng sức mạnh thể chất hay quyền lực đối với bản thân, người khác hoặc đối với
một nhóm người hay một cộng đồng người mà gây ra hay làm gia tăng khả năng
gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây
ra sự mất mát. ”
Theo định nghĩa của Đại hội đồng Liên hiệp quốc: “Bạo lực gia đình bao
gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả
năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ
của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay
tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống
riêng tư. ”
Khái niệm bạo lực gia đình được quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật PCBLGĐ
trong phần về giải thích thuật ngữ: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên


7

gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với thành viên khác trong gia đình”
Bạo lực gia đình có thể xảy ra trong bất kỳ mối quan hệ gia đình nào, bao
gồm quan hệ vợ - chồng, vợ cũ - chồng cũ; cha dượng/mẹ kế với con riêng của
vợ/chồng, cha mẹ và con cũng như quan hệ giữa những người cùng chung sống.
1.2.2. Hậu quả của bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con đối với gia đình
và xã hội.
Bạo lực gia đình là vấn đề đã tồn tại từ lâu trong xã hội nước ta. Do không
được quan tâm đúng mức, tình hình bạo lực gia đình đang xảy ra với nhiều mức độ
nghiêm trọng hơn và phổ biến hơn tại khắp các vùng miền trên cả nước. Hành vi
bạo lực dưới nhiều dạng thức khác nhau đều để lại những hậu quả nặng nề về thể
chất, sức khỏe, tinh thần, kinh tế… đối với nạn nhân. Bạo lực gia đình giữa cha mẹ

và con là một trong những hình thức bạo lực gia đình phổ biến nhất. Nạn nhân của
bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con chủ yếu là trẻ em. Đối với trẻ em, những hành
vi này sẽ để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn trẻ, chi phối đến sự hình thành nhân
cách sau này. Những trẻ em là nạn nhân trực tiếp của bạo lực gia đình phải gánh
chịu nỗi đau về thể xác, tinh thần lớn lao, rất dễ có những phản ứng tiêu cực, những
suy nghĩ hay hành động lệch lạc. Ngoài ra, trẻ em còn có thể nạn nhân gián tiếp của
bạo lực gia đình khi chứng kiến các hành vi bạo lực của các thành viên khác trong
gia đình , đặc biệt là cha mẹ, thậm chí còn bị ảnh hưởng nặng nề hơn, có thể gây
nên những chấn thương tâm thần, đôi khi kéo dài suốt cả cuộc đời. Những đứa trẻ
này thường lo lắng, bất an, khó hòa nhập cuộc sống, từ đó nảy sinh tư tưởng chán
đời, học hành sa sút, dễ mắc các bệnh trầm cảm… Nguy hiểm hơn, đây chính là
mảnh đất để ươm mầm những hành vi bạo lực gia đình trong tương lai, khi mà
những đứa trẻ trưởng thành cũng có xu hướng sử dụng bạo lực để giải quyết các
mâu thuẫn trong gia đình. Một nạn nhân khác của bạo lực gia đình đó là những
người cao tuổi. Khi mà tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên, dẫn đến tình
trạng số người cao tuổi tăng nhanh chóng về mặt số lượng. Trong xã hội, những
người cao tuổi được xem là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương do hạn chế về mặt
sức khỏe có các quyền lợi đặc biệt cần được bảo vệ. Nhưng trên thực tế, các quyền
lợi của nhóm người này vẫn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng bị


8

xâm hại. Thậm chí, người cao tuổi còn trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, từ
chính những người con của mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới bản thân sức khỏe
, thậm chí cả tính mạng của người cao tuổi.
Với những tác động tiêu cực như trên đối với mỗi cá nhân, gia đình, bạo lực
gia đình cũng để lại hậu quả nặng nề cho toàn xã hội. Trước hết, nó làm suy thoái
đạo đức nghiêm trọng: khi mà những quan hệ thiêng liêng, bền vững như tình cảm
cha mẹ với con cái, con cái hiếu thảo với cha mẹ bị xâm phạm thì những giá trị đạo

đức trong xã hội cũng không còn được coi trong Bên cạnh đó, hành vi bạo lực còn
tác động xấu đến trật tự xã hội: những người xung quanh, những người chứng kiến
hành vi sẽ cảm thấy bất bình mất niềm tin vào những giá trị tốt đẹp; hoặc ngược lại,
trở nên vô cảm, lãnh đạm đối với hành vi bạo lực gia đình thì có thể chính họ sẽ
thực hiện hành vi này, làm gia tăng xu hướng bạo lực trong xã hội.
Về kinh tế, bạo lực gia đình giữa cha mẹ cũng để lại nhiều thiệt hại: gây tốn
kém tiền của, chi phí để chữa bệnh, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân, chi phí để điều
tra, truy tố, xét xử các vụ việc…
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật trong việc phòng, chống bạo lực giữa cha
mẹ và con
Với những hậu quả đã kể ra ở trên, việc pháp luật có những quy định về
phòng, chống bạo lực gia đình cha mẹ và con có vai trò quan trọng đối với việc đảm
bảo quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành viên
gia đình, đặc biệt là người già và trẻ em; đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ
em; đảm bảo cho hạnh phúc, bình yên trong mỗi gia đình cũng như đảm bảo trật tự
an toàn xã hội.
Phòng, chống bạo lực gia đình trước hết là ngăn chặn kịp thời hành vi bạo
lực hoặc nguy cơ gây ra hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
hợp pháp của tất cả các chủ thể, đặc biệt là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Không chỉ đem lại sự an toàn tạm thời cho họ mà việc hiểu biết những quy
định về vấn đề này, nhận thức được tác động xấu của hành vi này tới những người
xung quanh, đặc biệt là với trẻ em còn giúp họ nâng cao khả năng tự bảo vệ bản
thân và gia đình.


9

Khi trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình từ chính cha mẹ mình thì việc
phòng, chống bạo lực gia đình là một cách để bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời xây
dựng một môi trường tốt để các em có điều kiện phát triển nhân cách. Với những

chủ thể gây ra bạo lực gia đình, là cha mẹ và con cái đối với nạn nhân là chính con
cái hay cha mẹ mình, họ có thể có những thiếu sót trong việc nhận thức, hay tệ hơn
là có sự suy đồi về mặt đạo đức. Khi đó, việc hiểu về hậu quả của bạo lực gia đình,
về quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình, về việc phải chịu trách nhiệm vì
hành vi bạo lực của mình, sẽ bị pháp Luật trừng phạt thích đáng các hành vi bạo
lực gia đình đã xảy ra… có tác động rất lớn trong giáo dục, phòng ngừa, răn đe
thậm chí là cải tạo làm thay đổi nhận thức của chính chủ thể đã gây ra hành vi bạo
lực và những người xung quanh.
Việc phòng, chống bạo lực gia đình sẽ nâng cao ý thức bảo vệ gia đình cho
các thành viên, góp phần đảm bảo cho một gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc,
bền vững. Nếu các thành viên gia đình nhận thức được hậu quả của hành vi bạo lực,
những quyền và nghĩa vụ của mình với hành vi bạo lực trong gia đình, mỗi thành
viên gia đình sẽ có ý thức tôn trọng lẫn nhau, quan tâm đến nhau hơn, cư xử đúng
mực khi nảy sinh tranh chấp... Các mối quan hệ gia đình từ đó mà bền chặt hơn,
trong đó có quan hệ giữa cha mẹ và con.
Phòng, chống bạo lực gia đình không những là trách nhiệm của cá nhân mà
còn là trách nhiệm của cả cộng đồng, đòi hỏi sự tham gia rộng rãi của các cá nhân,
gia đình, các tổ chức xã hội và nhà nước. Những quan niệm không đúng đắn có từ
lâu, không còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện tại có thể được thay đổi. Mỗi cá
nhân sẽ có ý thức hơn với việc xây dựng cộng đồng, quan tâm hơn tới vấn đề bạo
lực gia đình, từ đó sự thờ ơ đối với hành vi trái pháp luật - bạo lực gia đình sẽ
không còn. Mối quan hệ gia đình, trong đó có mối quan hệ cha mẹ và con được bảo
vệ sẽ trở thành nền tảng của đạo đức xã hội, giúp điều chỉnh hành vi của mỗi người
đối với những người trong gia đình mình.
1.2.4. Các hành vi bạo lực gia đình:
Theo Luật PCBLGĐ năm 2007, các hành vi được xem là bạo lực gia đình
bao gồm:


10


a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông,
bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài
sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên
gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá
khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng
phụ thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Tất cả các hành vi trên đều bị nghiêm cấm theo Luật PCBLGĐ. Ngoài ra, các
hành vi sau đây cũng bị nghiêm cấm:
1. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi
bạo lực gia đình.
2. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực
gia đình.
3. Trả thù, đe dọa trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người
phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
4. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
5. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực
hiện hoạt động trái pháp luật .
6. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp

luật đối với hành vi bạo lực gia đình.


11

Các cá nhân hay tổ chức vi phạm các hành vi trên sẽ bị phạt theo quy định
của Nghị định 110/2009-NĐ-CP ngày 2009/10/02 (phụ lục 03).

1.3. Phân loại hành vi bạo lực giữa cha mẹ và con:
1.3.1. Phân loại các mối quan hệ giữa cha mẹ và con:
Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con là bạo lực gia đình xảy ra giữa các đối
tượng thuộc mối quan hệ giữa cha mẹ và con.
Cha mẹ và con là một trong các quan hệ đặc trưng trong quan hệ hôn nhân và
gia đình. Trên khía cạnh luật học, quan hệ giữa cha mẹ và con còn là một mối quan
hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái dựa trên sự kiện pháp luật
nhất định do Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Theo pháp luật, quan hệ giữa cha
mẹ và con có thể hình thành dựa trên các sự kiện: sinh đẻ, nuôi dưỡng và kết hôn.
a. Quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ:
Cơ sở pháp lý của quan hệ giữa cha mẹ và con có thể là sự kiện sinh đẻ, mối
quan hệ huyết hệ tự nhiên.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định tại Khoản 1 Điều 88 như sau:
"Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là
con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ
thừa nhận là con chung của vợ chồng. " Điều này kế thừa quy định tại Điều 63 Luật
Hôn nhân gia đình 2000.
Về nguyên tắc các trường hợp sau đây coi là con chung của vợ chồng:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nghĩa là sinh ra sau khi đã tổ chức đăng
ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên chết trước hoặc do
tòa án công nhận, quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai bên
vợ chồng. Có thai trong thời kỳ hôn nhân nghĩa là con sinh ra khi chấm dứt quan hệ

hôn nhân nhưng người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân (trong thời kỳ từ khi tổ
chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân).
- Thời kỳ thai nghén là khoảng thời gian phụ nữ mang thai. Thời kỳ thai
nghén bắt đầu từ khi người phụ nữ thụ thai cho đến khi họ sinh đẻ. Y học chứng
minh thời kỳ thai nghén tối thiểu là 200 ngày, tối đa là 286 ngày. Pháp luật quy
định thời kỳ thai nghén tối thiểu là 189 ngày, tối đa là 300 ngày, xác định thời kỳ


12

thai nghén sẽ xác định thời điểm người phụ nữ thụ thai đứa trẻ và như vậy có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định cha cho con kể cả con trong giá thú. Về
nguyên tắc trong thời hạn 300 ngày (kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân) người vợ
sinh con thì đứa trẻ đó xác định là con chung của vợ chồng. Đối với trường hợp
trong thời gian 300 ngày mà người vợ kết hôn với người khác thì theo quy định
Điều 88 Khoản 1 nếu sau này người vợ sinh con được xác định là con của người
chồng sau theo nguyên tắc suy đoán pháp lý: con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân.
Nếu người chồng sau không thừa nhận đứa con đó là con mình thì có quyền đưa ra
các chứng cứ chứng minh (khi kết hôn người vợ đã có thai với người chồng trước
hoặc sự thừa nhận của người vợ qua các chứng cứ khác...)
Tuy nhiên, ngay cả con không sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của cha mẹ
cũng được pháp luật bảo vệ. Theo Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Con
sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa
vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ Luật dân sự
và các Luật khác có liên quan. ”
b. Quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi dưỡng:
Ngoài ra, quan hệ cha mẹ và con có thể được xác lập thông qua sự kiện nhận
con nuôi. Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Nuôi con nuôi 2010 thì: “ Nuôi con
nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi. ”

Theo Điều 78 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:”Cha nuôi, mẹ nuôi, con
nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ
thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con
nuôi. ”
Việc xác lập nuôi con nuôi hướng tới mục đích là đảm bảo người con nuôi
được chăm sóc, giáo dục tốt; đồng thời gắn bó lâu dài giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
trên cơ sở thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ pháp luật qui định.
c. Quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện kết hôn:
Ngoài ra, bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con có thể xảy ra giữa con dâu,
con rể với cha, mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, thậm chí cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ
cũ.


13

Theo quy định tại Điều 80 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 : “Trong
trường hợp con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các
bên có các quyền, nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau theo quy
định tại các Điều 69, 70, 71 và 72 của Luật này. ”
Như vậy, quyền và nghĩa vụ của con dâu, con rể với cha mẹ chồng, cha mẹ
vợ cũng giống như quyền và nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ và ngược lại, cha
mẹ chồng, cha mẹ vợ cũng có quyền và nghĩa vụ như cha mẹ ruột với con cái.
Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con là dạng bạo lực gia đình xảy ra giữa đối
tượng là cha mẹ ruột với con cái và ngược lại, cha mẹ nuôi với con cái và ngược lại,
cha mẹ chồng với con rể và ngược lại, cha mẹ vợ với con rể và ngược lại, cha
dượng - mẹ kế với con cái và ngược lại.
1.3.2. Các dạng bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con:
Hành vi bạo lực gia đình được chia làm 4 nhóm: bạo lực tinh thần, bạo lực
thể chất, bạo lực kinh tế và bạo lực tình dục, cụ thể như sau:
Nhóm 1, nhóm hành vi bạo lực về tinh thần: bao gồm các hành vi lăng mạ

hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm hay cô lập, xua đuổi hoặc
gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngăn cản việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu, giữa cha,
mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa anh, chị, em với nhau, hành vi trái pháp luật
buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở, cưỡng ép tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, ly hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Nhóm 2, hành vi bạo lực về thể chất hay thể xác: bao gồm hành vi hành hạ,
ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng.
Nhóm 3, nhóm hành vi bạo lực về kinh tế: bao gồm chiếm đoạt, huỷ hoại,
đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác
trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình hay cưỡng ép thành
viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ hoặc là
kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về
Nhóm 4, nhóm hành vi bạo lực về tình dục: gồm có hành vi cưỡng ép quan
hệ tình dục.Ở mối quan hệ giữa cha mẹ và con, cả 4 nhóm bạo lực trên đều xảy ra.


14

Cha mẹ và con không chỉ là những người có quan hệ về huyết thống, nuôi
dưỡng. Hai chủ thể này có sự gắn bó chặt chẽ về tình cảm, kinh tế, tinh thần với
nhau. Do đó, ở mối quan hệ này có Điều kiện để phát sinh hành vi bạo lực ở cả 4
nhóm của bạo lực gia đình. Cụ thể:
Bạo lực về thể chất là khi cha mẹ dùng bạo lực gây tổn hại đến thân thể của
con cái hoặc ngược lại con cái dùng bạo lực gây tổn hại đến thân thể của cha mẹ.
Đây là dạng bạo lực phổ biến nhất trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Tuy
nhiên, trên thực tế, hành vi này ở nước ta nếu xảy ra khi cha mẹ thực hiện vơi con
lại được xem là một cách dạy con, một hành vi bình thường của cha mẹ đối với con.
Bạo lực về tinh thần là khi cha mẹ lăng mạ hoặc hành vi cố ý xúc phạm danh
dự, nhân phẩm hay cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây

hậu quả nghiêm trọng hoặc ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ
gia đình giữa các thành viên gia đình với nhau, hành vi trái pháp luật buộc thành
viên gia đình ra khỏi chỗ ở, cưỡng ép tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản
trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Đây cũng là nhóm hành vi thường xuyên xảy ra
trong quan hệ giữa cha mẹ và con. Vì khi con còn nhỏ, con cái luôn chịu sự phụ
thuộc về tinh thần vào cha mẹ. Đôi khi, cha mẹ có hành vi áp đặt suy nghĩ của mình
đối với con cái và xảy ra mâu thuẫn giữa con cái và cha mẹ. Có thể chưa đến mức
sử dụng bạo lực về thân thể nhưng cha mẹ hoàn toàn có thể sử dụng những lời lẽ
mang tính chất xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con cái, hoặc tệ hơn, có những
trường hợp cha mẹ đuổi con ra khỏi nhà do mâu thuẫn quá sâu sắc. Bên cạnh đó,
việc cha mẹ ngăn cản hôn nhân tự nguyện của con cái là chuyện tương đối phổ biển.
Hiện tượng con cái ngăn cản hôn nhân tự nguyện của cha (hoặc mẹ) cũng không
phải hiếm. Ở một số địa phương, vẫn tồn tại hiện tượng tảo hôn, cưỡng ép kết hôn,
ly hôn của cha mẹ đối với con cái.
Bạo lực về kinh tế giữa cha mẹ và con cũng là một hành vi thường xuyên xảy
ra. Hành vi này xảy ra khi một bên nắm quyền lực kinh tế trong gia đình và một bên
phụ thuộc vào kinh tế. Cha mẹ có thể ép buộc con cái nhỏ tuổi, hoặc con cái có thể
buộc cha mẹ lớn tuổi phải lao động quá sức hoặc làm những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm…hoặc tiếp xúc với chất độc hại và những công việc khác trái với quy
định của pháp luật lao động (như đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống trên đường).


15

Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con ở trong lĩnh vực kinh tế còn có thể xảy ra các
biểu hiện như không cho thành viên gia đình ( con cái, cha mẹ mình) sử dụng tài
sản chung vào mục đích chính đáng hoặc kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của
thành viên gia đình hoặc nguồn tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành
viên gia đình đó phải chịu sự phụ thuộc về tài chính. Kiểm soát nguồn tài chính ở
đây không thể hiểu như trường hợp cha mẹ thay con cái quản lý tài sản của con cái

khi con cái còn nhỏ tuổi, chưa tự quản lý các tài sản của mình, mà phải hiểu là
trường hợp ngay cả khi con cái có đầy đủ khả năng quản lý tài sản của mình, cha
mẹ vẫn kiểm soát tài sản của con cái với những lý do không chính đáng, hoặc con
cái kiếm soát tài chính của cha mẹ khi cha mẹ già cả có tài sản riêng.
Người cao tuổi, trẻ em là những người yếu thế trong xã hội do không thể tự
lao động làm ra của cái vật chất, lại hạn chế hơn về sức khỏe và không có quyền lực
về kinh tế nên rất dễ phải chịu sự chi phối của các thành viên khác. Họ cũng dễ phải
chịu bạo lực gia đình về kinh tế từ phía cha mẹ (đối với trẻ em) hoặc con cái (đối
người người cao tuổi). Hành vi bạo lực gia đình ở đây có thể là kiểm soát tài sản
một cách hà khắc và vô lý như đã đề cập hoặc không cho phép các thành viên này
được sử dụng những tài sản chung của gia đình.
Bạo lực về tình dục gồm các hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục. Là dạng
bạo lực hiếm xảy ra nhất trong các dạng bạo lực giữa cha mẹ và con, nhưng khi
hành vi này xảy ra thì đây là một trong những hành vi bạo lực gia đình bị lên án
mạnh mẽ nhất. Hành vi bạo lực tình dục giữa cha mẹ và con thường chỉ xảy ra do
cha mẹ thực hiện với con. Sở dĩ, nhóm hành vi này bị lên án mạnh mẽ vì bản chất
nó không chỉ là một hành vi vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đến luân lý, đạo đức
xã hội. Điều này càng thể hiện rõ ở những nước phương Đông như Việt Nam,
những nơi coi trọng danh dự, văn hóa truyền thống và chuẩn mực đạo đức. Theo
đánh giá của Phó vụ trưởng Vụ bình đẳng giới, hậu quả của tình trạng bạo lực tình
dục rất nghiêm trọng; ảnh hưởng tới sự phát triển về trí tuệ, tinh thần, thể chất của
các nạn nhân, đặc biệt là trẻ em gái.
Trong các dạng bạo lực đã nêu ở trên, bạo lực về thể chất là dạng bao lực
phổ biến và có thể dễ dàng phát hiện nhất. Tuy nhiên, đối với mối quan hệ giữa cha
mẹ và con, ngay cả bạo lực về mặt thể chất cũng rất khó có thể phát hiện và xử lý
triệt để.


16


KẾT LUẬN
Bạo lực gia đình, trong đó có bạo lực gia định giữa cha mẹ và con, là một
vấn đề không mới. Đây là một hiện tượng đã xảy ra trong xã hội suốt một thời gian
rất dài. Nhưng vấn đề bạo lực gia đình vẫn chưa được nhận thức một cách đúng
đắn, nhất là bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con. Sự nguy hại của bạo lực gia đình
giữa cha mẹ và con chưa được đánh giá đúng mức.Vì vậy, ý nghĩa của việc phòng
chống bạo lực gia đình vẫn còn bị xem nhẹ. Thực tế, vai trò của bạo lực gia đình,
trong đó có bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con rất quan trọng để đảm bảo sự phát
triển của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Nhưng để có thể phòng chống
bạo lực gia đình, việc nhận thức đúng đắn về hành vi bạo lực gia đình giữa cha mẹ
và con rất quan trọng,


17

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ PHÒNG
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH GIỮA CHA MẸ VÀ CON
2.1.Khung pháp lý của pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình:
Pháp luật phòng chông bạo lực gia đình là tổng thể các quy định pháp luật
do nhà nước ban hành để xác định các hành vi nào là bạo lực gia đình, đưa ra những
hình thức xử phạt đối với những hành vi đó, cũng như ngăn chặn nguy cơ các hành
vi bạo lực gia đình có thể xảy ra trong tương lai. Nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình trong đó có vấn đề bạo lực gia đình như Hiến
pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ
Luật dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình
sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Luật người cao tuổi. . . Các quy định pháp
luật tuy đã đề cập đến các biện pháp bảo vệ gia đình và phòng ngừa bạo lực gia
đình, nhưng vẫn chưa có quy định trực tiếp và riêng biệt về phòng, chống bạo lực
gia đình, chưa xử lý thích đáng tính đặc thù của bạo lực gia đình. Đảng ta cũng

đồng ý về mặt chủ trương là phải "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về... dân số,
gia đình, trẻ em và chính sách xã hội".Do đó, một văn bản Luật riêng đã được ban
hành năm 2007, đó là Luật PCBLGĐ, pháp luật phòng chống bạo lực gia đình được
xây dựng nhằm ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình giữa các thành viên gia đình khi
các hành vi đó xảy ra, giải quyết các hậu quả mà hành vi đó mang lại, đồng thời
phòng ngừa các hành vi bạo lực gia đình có thể xảy ra trong tương lai. Pháp luật
phòng chống bạo lực gia đình quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ
trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức
trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình.
Quy định trong các văn bản Luật hình sự, hành chính và dân sự là cơ sở để
bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình và buộc người gây bạo lực chịu trách nhiệm. .
Trong gia đình, quan hệ giữa cha mẹ và con là một trong những mối quan hệ
cơ bản nhất, tạo nên nền tảng của quan hệ gia đình. Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và
con không chỉ gây ra những hậu quả nặng nề cho những nạn nhân của hành vi bạo


18

lực mà còn phá vỡ mối quan hệ giữa các thành viên gia đình. Một khi mối quan hệ
giữa các thành viên gia đình đổ vỡ, nền tảng của các quan hệ gia đình sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Điều này kéo dài sẽ dẫn đến hủy hoại gia đình. Gia đình là tế
bào của xã hội. Khi quan hệ gia đình bị hủy hoại, xã hội chắc chắn sẽ gánh chịu
những ảnh hưởng tiêu cực. Thậm chí, an ninh trật tự xã hội cũng bị ảnh hưởng khi
gia đình đổ vỡ. Nhiệm vụ của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình là hạn chế
đến mức thấp nhất hướng tới triệt tiêu bạo lực gia đình giữa các thành viên gia đình,
trong đó có cha mẹ và con, nhằm giảm thiểu đến mức thấp nhất các tác động tiêu
cực của bạo lực gia đình đối với xã hội. Pháp luật quy định các phương thức hạn
chế hậu quả của các hành vi bạo lực gia đình đối với người bị bạo lực gia đình, sau
đó giảm thiểu sự tác động của bạo lực tới xã hội. Các quy định của pháp luật được

điều chỉnh, bổ sung có tác dụng phòng ngừa, răn đe các cá nhân thực hiện hành vi
bạo lực gia đình, đồng thời tuyên truyền cho quần chúng nhân dân phương hướng
xây dựng gia đình văn hóa, gương mẫu theo đúng yêu cầu mà Đảng và nhà nước đề
ra.
Khung pháp lý đối với phòng chống bạo lực gia đình ở nước ta bao gồm tổng
hợp các quy định của các ngành Luật liên quan điều chỉnh các hành vi bị xem là
bạo lực gia đình bao gồm: Luật PCBLGĐ, Luật Dân sự, Luật Bộ Luật Hình Sự,
Luật Hành Chính, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Người Cao
tuổi.
Tất cả những văn bản pháp luật trên cùng tạo ra một cách tiếp cận tổng hợp:
Luật PCBLGĐ khuyến khích quan tâm hơn nữa tới bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân, còn
các văn bản Luật hình sự và hành chính tập trung xử phạt người gây bạo lực.
Khung pháp lý nói trên quy định cách tiếp cận nhiều mặt trong phòng ngừa,
đấu tranh, và xử lý bạo lực gia đình và có sự tham gia của các cơ quan nhà nước và
tổ chức đoàn thể khác nhau. Các cơ quan, tổ chức đó bao gồm Bộ Văn hóa, Thể
thao và du lịch, Bộ Y têm Bộ Lao đông, Thương Binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc.


19

2.2. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình và mối quan hệ với bạo
lực gia đình giữa cha mẹ và con:
Theo quy định của Luật PCBLGĐ, nguyên tắc chủ đạo của phòng chống bạo
lực gia đình ở nước ta gồm:
“Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia
đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng các công tác tuyên truyền, giáo dục về gia
đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. ”

Đặc trưng của quan hệ gia đình, nhất là quan hệ gia đình ở nước ta thường là
tách biệt với người ngoài. Nói cách khác, người bên ngoài ít có khả năng tham gia
vào các mối quan hệ giữa các thành viên gia đình với nhau, ngay cả khi có những
vấn đề xảy ra đối với quan hệ này. Quan hệ giữa cha mẹ và con cũng là trong những
mối quan hệ tách biệt với bên ngoài. Mỗi gia đình, thậm chí mỗi bậc làm cha, làm
mẹ, đều có cách dạy con riêng, sao cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình, phù hợp
với tâm lý, suy nghĩ, định hướng về cách dạy con được chính những người cha,
người mẹ tiếp thu trong quá trình sống, cũng phụ thuộc vào chính bản thân những
người con. Mỗi người con có một đặc điểm thể chất, tâm lý khác nhau, do đó,
không phải mọi đứa trẻ đều phù hợp một cách ngẫu nhiên với mọi kiểu nuôi dạy,
giáo dục hay chăm sóc của cha mẹ. Tóm lại, mỗi gia đình và mỗi bậc cha mẹ đều có
những cách xử lý mối quan hệ cha mẹ- con khác nhau. Do đó, rất khó để cho các
gia đình khác có thể nhận biết hay xen vào quá trình nuôi dạy của một ông bố bà
mẹ. Hơn nữa, quan hệ giữa cha mẹ và con trong một gia đình cũng được xem là một
mối quan hệ riêng tư, khép kín, người ngoài gia đình không thể biết được, cũng như
không có khả năng can thiệp vào cách thức nuôi dạy con cái của các ông bố bà mẹ
khác. Theo quan niệm của người Việt từ xa xưa, đòn roi hay bạo lực gia đình của
cha mẹ dành cho con cũng là một phần của quá trình giáo dục, nuôi dưỡng của cha
mẹ với con. Hoặc khi con cái có hành vi bạo lực với cha mẹ thì các thành viên gia
đình bao gồm cả chủ thể thực hiện hành vi bạo lực cũng coi đó là chuyện riêng,
chuyện trong nhà, chuyện có thể gây tổn hại đến danh dự của cả gia đình. Do đó,
người ngoài thường không có cơ hội phát hiện hay tham gia can thiệp sớm khi hành
vi bạo lực gia đình xảy ra. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bạo hành


20

gia đình, trong đó có bạo lực gia đình của cha mẹ và con khó bị phát hiện hoặc nếu
có phát hiện cũng khó có thể xử lý đối với hành vi bạo lực. Nguyên nhân là do
chính các thành viên gia đình khép kín mối quan hệ gia đình đối với những người

ngoài xung quanh, nên bản thân ngay cả chính nạn nhân của bạo lực gia đình cũng
không muốn những người ngoài gia đình biết chuyện. Kể cả khi bạo lực gia đình có
được kịp thời phát hiện và xử lý, tình trạng khép kín của các thành viên gia đình ,
giữa nạn nhân và chủ thể của hành vi bạo lực gia đình rất dễ tái lập, và bạo hành gia
đình sẽ tiếp diễn khi không có biện pháp ngăn chặn phù hợp và hiệu quả. Hơn nữa,
đây là vấn đề nhận thức của mỗi người dân nên cả những quy định của pháp luật
cũng không thể thay đổi để bảo vệ người dân được. Nhận thức hạn chế của người
dân khó có thể thay đổi ngay lập tức. Do vậy, ưu tiên hàng đầu cho nguyên tắc
phòng chòng chống đối với bạo lực gia đình luôn đặt phòng ngừa làm biện pháp chủ
đạo. Ngay khi bạo lực gia đình mới manh nha xuất hiện hoặc chưa xuất hiện, việc
chú trọng tuyên truyên, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp sẽ có thể
nâng cao nhận thức của những nạn nhân bạo lực gia đình, giúp họ có ý thức, có kiến
thức để tự bảo vệ bản thân mình trước hành vi bạo lực, cũng như đối với đối tượng
có nguy cơ trở thành chủ thể của hành vi bạo lực gia đình có thể kiềm chế, Điều
chỉnh hành vi bạo lực của bản thân mình nếu có nhằm tránh những hậu quả không
hay xảy ra.
Nguyên tắc này phù hợp với bối cảnh tình hình ở nước ta, vốn chịu ảnh
hưởng nhiều từ các quan niệm cũ như “phép vua thua lệ làng” “chuyện trong nhà
đóng cửa bảo nhau”, cộng thêm trình độ dân trí, hiểu biết về pháp luật của người
dân còn có những hạn chế nhất định. Việc tiếp cận người dân bằng cách sử dụng
các quy định cứng rắn can thiệp trực tiếp quyết liệt có thể gây ra những rạn nứt
trong quan hệ gia đình không thể hàn gắn được.
Mặt khác, pháp luật luôn ưu tiên hướng tới việc phòng hơn là chống. Việc
ngăn chặn hành vi trái pháp luật trước khi hành vi đó xảy ra trên thực tế có thể bảo
vệ một cách tốt nhất cho nạn nhân bị bạo lực gia đình. Khi hành vi bạo lực đã xảy
ra, việc khắc phục hậu quả, đầu tiên là về thể chất, sau đó là về tinh thần của người
bị hại là không đơn giản. Hơn thế nữa, hành vi bạo hành khi đã xảy ra sẽ gây nên
những tổn hại to lớn đến hạnh phúc gia đình, những tổn hại này trong một vài



×