BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG THỊ HỒNG TRANG
BẢN CHẤT, PHẠM VI VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG
CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG THỊ HỒNG TRANG
BẢN CHẤT, PHẠM VI VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG
CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài
liệu tham khảo đều trích dẫn nguồn đầy đủ.
Xác nhận của giảng viên hƣớng dẫn
Học viên
PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu
Hoàng Thị Hồng Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NĐ : Nghị định
TT : Thông tư
UBND : Ủy ban nhân dân
VPCC : Văn phòng công chứng
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................................................3
3. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu của luận văn .............................................4
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn ...................................................................5
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ...................................................5
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................6
CHƢƠNG I CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM .7
1.1 Một số quan niệm về công chứng ...................................................................7
1.2 Các hệ thống công chứng trên thế giới ........................................................11
1.2.1 Hệ thống công chứng La Tinh ................................................................11
1.2.2 Hệ thống công chứng Anglo – sacxon ....................................................15
1.2.3 Hệ thống công chứng nhà nƣớc bao cấp ...............................................17
CHƢƠNG II MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CÔNG
CHỨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .....................................................................27
2.1 Bản chất của hoạt động công chứng ...........................................................27
2.1.1 Công chứng là hoạt động chuyên môn, chuyên nghiệp mang tính công
quyền ................................................................................................................28
2.1.2 Chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của giao dịch dân sự ........33
2.1.3 Chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
bản dịch. ............................................................................................................43
2.2 Phạm vi của hoạt động công chứng..............................................................46
2.2.1 Công chứng hợp đồng, giao dịch............................................................47
2.2.2 Công chứng bản dịch ..............................................................................49
2.3 Vai trò của hoạt động công chứng ở Việt Nam ...........................................50
2.3.1 Công chứng là công cụ đảm bảo an toàn pháp lý, phòng ngừa tranh chấp50
2.3.2 Công cụ quản lý của Nhà nƣớc trong một số lĩnh vực .........................56
2.3.3 Tạo lập và cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử ..........................58
CHƢƠNG III THỰC TIẾN HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG – MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG .................................63
3.1 Thực tiễn của hoạt động công chứng ở Việt Nam hiện nay .......................63
3.2 . Vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về công chứng – Kiến
nghị hoàn thiện .....................................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................82
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, xã hội đã phát triển
mạnh mẽ, đa dạng trên cả bề rộng và bề sâu, cả trong nước và cả với nước
ngoài. Nhiều giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại đòi hỏi phải được công
chứng để tạo chứng cứ có sức thuyết phục cao. Việc công chứng được yêu
cầu thực hiện một cách chính xác theo đúng pháp luật nhưng phải nhanh
chóng kịp thời, thuận tiện cho người dân.Việc xã hội hoá công chứng đã được
đặt ra từ nhiều năm nay, nhưng đây là một ngành nghề đặc thù vừa mang tính
chất dịch vụ công vừa mang tính chất hành chính nhà nước, việc xã hội hoá
đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nên chưa được triển khai mạnh mẽ. Tuy
nhiên, xã hội hoá công chứng đã trở thành một xu thế tất yếu để đáp ứng cho
được các yêu cầu bức thiết của xã hội. Xã hội hóa công chứng đi liền với
những thay đổi cũng như cách nhìn nhận pháp luật về công chứng qua từng
thời kỳ phát triển của đất nước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường.
Chế định về công chứng ở Việt Nam đã có quá trình hình thành và phát
triển gần 30 năm và liên tục đã có những bước đổi mới để theo kịp sự phát
triển của nền kinh tế thị trường. Nhà nước ta cũng đã nắm bắt được tầm quan
trọng cũng như có những thay đổi tích cực đối với việc cố gắng xây dựng và
hoàn thiện hoạt động pháp lý thiết yếu này. Có thể thấy, ngay từ những ngày
đầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, Đảng và Nhà nước đã chú trọng công
tác hoàn thiện hơn nữa đội ngũ cán bộ làm công tác công chứng, chứng thực
cũng như xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng nhằm tạo điều kiện tối đa
cho người dân thực hiện đủ và tốt hoạt động công chứng. Nhìn nhận chung,
hoạt động công chứng đã đóng góp một cách tích cực vào hoạt động bổ trợ tư
pháp, trợ giúp an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia giao kết
các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Theo đó, quan điểm về công chứng
cũng có những thay đổi thể hiện qua những văn bản pháp luật về công chứng
qua từng giai đoạn cụ thể. Ở mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị
2
trường, các nhà làm luật lại đưa ra những quy định pháp luật về công chứng
đáp ứng trong phạm vi nhu cầu của mỗi giai đoạn đó. Do vậy, quan điểm về
công chứng của các nhà làm luật qua từng giai đoạn cũng khác nhau, việc
hiểu đúng, hiểu rõ và thực thi đúng theo quan điểm của Nhà nước qua các quy
định về hoạt động công chứng có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn, giúp
công chứng phát huy được hết chức năng và vai trò của mình. Ngược lại, nếu
hiểu và thực hiện sai định hướng, sẽ khiến cho hoạt động này biến thành công
cụ lợi dụng của những kẻ gian trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng
phát triển nhanh và mạnh mẽ.
Luật công chứng 2006 ra đời đã đánh dấu sự thay đổi lớn trong quan
điểm về hoạt động công chứng ở nước ta. Đây là một bước tiến quan trọng
trong việc cụ thể hóa nội dung về hoàn thiện thể chế công chứng ở nước ta
được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, bước khởi đầu của chủ trương xã
hội hóa công chứng. Qua 8 năm triển khai thực hiện, Luật công chứng 2006
đã đạt được kết quả đáng khích lệ, góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ
trương xã hội hóa hoạt động công chứng, thực hiện cải cách hành chính và cải
cách tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện cho thấy một số
quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bất cập, không còn
phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngày 20/06/2014, Quốc hội đã ban hành Luật công chứng số
53/2014/QH13 (Luật công chứng 2014) với 10 chương, 81 điều, quy định về
công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng,
thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Luật công chứng
2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật công chứng 2014 đã thay thế cho
Luật công chứng 2006, trên cơ sở những bất cập cần phải hoàn thiện của luật
cũ, Luật công chứng 2014 đã có những quy định mới thể hiện quan điểm đổi
mới của Nhà nước ta về hoạt động công chứng. Tìm và hiểu đúng bản chất,
phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng theo quan điểm đổi mới này sẽ
3
giúp cho hoạt động công chứng đi đúng định hướng, thể hiện được một cách
trọn vẹn vai trò của hoạt động này.
Để có cách hiểu đúng đắn về hoạt động công chứng theo Luật công
chứng 2014, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Bản chất, phạm vi và vai
trò của hoạt động công chứng ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy là một chế định pháp luật mới xuất hiện trong hệ thống pháp luật
nước ta, nhưng đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực công
chứng. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được ban hành, có thể
kể đến các công trình, đề tài sau: Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận
và thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga (1996);
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành
vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay,
Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh (2000); Tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Dương
Khánh (2002) ; Hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam
hiện nay - lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ của tác giả Tuấn Đạo Thanh
(2001);
Từ khi Luật Công chứng năm 2006 được Quốc hội thông qua, có thể kể
tới một số công trình, bài viết nghiên cứu về lĩnh vực công chứng sau: Nghiên
cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây
dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Tuấn Đạo Thanh (2008);
Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Quang Minh (2009); Bồi thường
thiệt hại do công chứng viên gây ra, Bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (2011); Kiến nghị hoàn thiện Luật
Công chứng, Bài viết của tác giả Lê Quốc Hùng đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 1+2 (2012); Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối
4
với văn phòng công chứng, Bài viết của tác giả Phan Hải Hồ đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (2012)…
Tới khi Luật công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành cho tới nay
chưa đầy 2 năm, có các công trình nghiên cứu, bài viết về hoạt động công
chứng chưa nhiều, có thể kể tới: Bàn về một số điểm mới trong Luật Công
chứng năm 2014, bài viết của tác giả Tuấn Đạo Thanh, Nguyễn Duy Ninh
đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11(2014); Bàn về một số điểm mới
của Luật Công chứng năm 2014, bài viết của tác giả Lại Thị Bích Ngà đăng
trên tạp chí Nghề Luật số 6 (2014); Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh
Nghệ An và những giải pháp triển khai Luật công chứng năm 2014 của tác
giả Nguyễn Quế Anh đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6 (2015),
Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên theo Luật Công chứng năm 2014 của
tác giả Minh Hà đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6 (2015); Nâng
cao chất lượng công chứng viên theo yêu cầu của Luật Công chứng năm 2014
của tác giả Hoàng Ngọc Lan trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6 (2015);
Những bất cập của Luật Công chứng năm 2014 qua thực tiễn áp dụng của tác
giả Lê Trung Sơn đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2 (2016)….
Như vậy, có thể thấy từ khi Luật công chứng 2014 được ban hành và có
hiệu lực thi hành đã có rất nhiều bài viết nghiên cứu về hoạt động công
chứng nhưng ở các khía cạnh khác nhau của hoạt động công chứng mà chưa
có công trình nghiên cứu nào đi sâu toàn diện và đầy đủ các vấn đề về bản
chất, phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng trên cơ sở của Luật công
chứng 2014. Có thể khẳng định, đề tài “Bản chất, phạm vi và vai trò của hoạt
động công chứng ở Việt Nam” là đề tài đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về công
chứng hiện hành thể hiện bản chất, phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng.
Nghiên cứu bản chất, phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng có
phạm vi tương đối rộng, trong luận văn này sẽ khai thác, phân tích vấn đề bản
5
chất, phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng trên cơ sở của Luật công
chứng 2014 và các văn bản pháp luật về công chứng có liên quan.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ bản chất pháp lý của
hoạt động công chứng từ đó làm rõ phạm vi và vai trò của hoạt động công
chứng. Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành luật pháp luật công chứng nhằm
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng
Sản Việt Nam trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với
tính chất và yêu cầu của đề tài như: phương pháp lịch sử; phương pháp hệ
thống; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh,… kết hợp lý
luận với thực tiễn để đưa ra những kết luận, đánh giá nhằm giải quyết những
nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp cho việc giải quyết các vấn đề lý luận về bản chất,
phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng ở Việt Nam.
Thông qua đánh giá thực tiễn của hoạt động công chứng, đưa ra những
đề xuất cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu của của hoạt động công chứng
trong thời gian tiếp theo. Những vấn đề được làm sáng tỏ trong luận văn có
thể đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt
Nam theo hướng xã hội hóa, thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng của
Đảng và Nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp một góc nhìn về bản chất,
phạm vi và vai trò của hoạt động công chứng ở Việt Nam, giúp những người
hoạt động trong nghề công chứng có thêm cách nhìn nhận về bản chất cũng
6
như quan điểm về công chứng từ đó định hướng hành nghề một cách thống
nhất và hiệu quả.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tìm hiểu, nghiên
cứu về hoạt động công chứng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Công chứng và tổ chức công chứng ở Việt Nam
Chương II: Một số vấn đề lý luận về hoạt động công chứng ở Việt Nam hiện
nay
Chương III: Thực tiễn hoạt động công chứng – Một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về công chứng
7
CHƢƠNG I
CÔNG CHỨNG VÀ TỔ CHỨC CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
1.1
Một số quan niệm về công chứng
Trên thế giới nghề công chứng đã có từ rất lâu đời, góp phần tích cực
cho công việc quản lý nhà nước và xã hội. Tùy vào chế độ chính trị, tình hình
kinh tế, xã hội của từng quốc gia mà có nhiều quan niệm về công chứng khác
nhau. Có thể khẳng định quan niệm về công chứng là yếu tố quyết định đến
việc xác định mô hình, tổ chức, hoạt động của công chứng của mỗi quốc gia.
Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của
công chứng viên…Công chứng viên theo tiếng La Tinh là “Notarius”.
“Notarius” trong luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn
bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, công chứng viên là
người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện
của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và
giấy chuyển nhượng sở hữu. Theo cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công
chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại),
với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng.1
Trên thế giới có 3 hệ thống công chứng, đó là: hệ thống công chứng La
tinh, hệ thống công chứng Ănglo- sacxon, hệ thống công chứng Nhà nước bao
cấp (Collectiviste). Theo đó, quan điểm về công chứng ở các quốc gia trong
từng hệ thống cũng có những sự khác biệt. Mặc dù hệ thống công chứng La
tinh và hệ thống công chứng Ănglo Saxon có sự khác biệt nhau về cách thức
tổ chức, hoạt động, trình tự, thủ tục công chứng, song quan niệm về công
chứng ở hai hệ thống này có những nét tương đồng. Hai hệ thống này đều coi
công chứng là một nghề tự do, công chứng viên hoạt động một cách độc lập
và phải tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Do dó, đòi hỏi
công chứng viên phải nắm vững kiến thức chuyên ngành về luật cùng kỹ năng
1
Lê Thị Phương Hoa (2005), “Đổi mới quan niệm về công chứng”, Nghiên cứu lập pháp, (12), tr42.
8
nghiệp vụ để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng, giao dịch phức
tạp, đa dạng trong thực tiễn. Công chứng viên được nhà nước bổ nhiệm hoặc
công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định, hoạt động theo chế độ
chứng chỉ hành nghề.
Công chứng ở Cộng hòa Pháp là một điển hình của hệ thống công
chứng La tinh, Điều 1 Pháp lệnh số 452500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công
chứng của Cộng hòa Pháp đưa ra quan niệm “Công chứng viên là viên chức
công, được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên
phải hoặc muốn đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan
công quyền và để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao
văn bản công chứng” . Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của
trường phái công chứng Anglo Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833,
1834 quy định: “Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện
các hành vi công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư
và các giấy tờ khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy
tờ khác có liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân,
giấy ủy quyền liên quan đến bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales,
các nước khác thuộc khối cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận
hoặc xác nhận các giấy tờ liên quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về
sự cố xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển”.2
Khác với hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng Anglo
Saxon, theo hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng chưa không được
coi là một nghề . Trong hệ thống này, công chứng là chức năng kiêm nhiệm
cho các công chức nhà nước; công chứng viên không có chứng chỉ hành nghề,
công chứng viên chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước nhà nước về
2
Lê Thị Phương Hoa (2005), “Đổi mới quan niệm về công chứng”, Nghiên cứu lập pháp, (12), tr45.
9
những sai phạm trong hoạt động của mình mà không phải chịu trách nhiệm
trước khách hàng. Tuy nhiên, với sự thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, hiện nay hầu hết các nước trong hệ thống công chứng Collectiviste đã
có sự đổi mới trong quan niệm về công chứng phù hợp với quan niệm của hệ
thống công chứng La tinh và hệ thống Anglo Saxon. Theo đó, quan niệm mới
cũng xác định công chứng là một nghề tự do nhưng đặt dưới sự quản lý của
nhà nước, mô hình công chứng cải cách từ mô hình công chứng nhà nước
sang mô hình công chứng tự do. Ba Lan là một trong các nước đại diện cho hệ
thống Collectiviste, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng của
Ba Lan đã quy định: “Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản
mà trong đó, các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực”.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau về công chứng.
Theo Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 của Hội đồng bộ
trưởng về tổ chức và hoạt động của công chứng Nhà nước, công chứng nhà
nước được xác định như sau: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính
xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và
giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ” (Điều 1).
Đến Nghị định số 31/CP ngày 19 tháng 05 năm 1996 của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, công chứng nhà nước được xác
định: “Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và
giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi
chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà
nước chứng nhận hoặc y ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá
trị chứng cứ, trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu” (Điều1).
10
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính
phủ về công chứng, chứng thực, khái niệm công chứng mới được tách bạch
khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được
xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về
công chứng. Theo Nghị định này, “công chứng là việc phòng công chứng
chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác
được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy
định của Nghị định này” (khoản 1 Điều 2). Cùng với việc xác định khái niệm
công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm
chứng thực “là việc y ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ,
hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc
thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (khoản 2
Điều 2).
Tại Điều 2 Luật Công chứng 2006, luật công chứng đầu tiên của nước
ta, các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm: “Công chứng là việc công chứng
viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công
chứng.”
Khái niệm công chứng lại tiếp tục được thay đổi khi Luật Công chứng
2014 được ban hành, Khoản 1 – Điều 2 quy định: “Công chứng là việc công
chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực,
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là
hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”.
11
1.2
Các hệ thống công chứng trên thế giới
Trên thế giới hiện nay tồn tại 3 hệ thống công chứng: hệ thống công
chứng La Tinh, hệ thống công chứng Anglo – sacxon và hệ thống công chứng
nhà nước bao cấp (Collectiviste).
1.2.1 Hệ thống công chứng La Tinh
Hệ thống công chứng La Tinh chịu ảnh hưởng của Luật La Mã và pháp
luật của Châu Âu lục địa. Tập hợp các quốc gia nằm trong hệ thống này có
tên là Liên Đoàn công chứng La Tinh quốc tế, bao gồm các nước ở Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á, hệ thống này tồn tại ở tất cả các nước thuộc
Cộng đồng Châu Âu ngoại trừ Đan Mạch và Vương quốc Anh.
Ở các nước theo hệ La tinh, công chứng viên được Nhà nước ủy thác
một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên công chứng viên
đó. Với tư cách là ủy viên công quyền, công chứng viên có nhiệm vụ cung
cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ
trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của các
cá nhân và an toàn pháp lý của các quan hệ hợp đồng. Nhà nước ủy quyền cho
công chứng viên – một nhà chuyên nghiệp do chính Nhà nước bổ nhiệm và
giám sát để thực hiện chức năng công vụ đó.3
Tùy theo mỗi quốc gia mà công chứng viên hoạt động theo các quy chế
khác nhau nhưng hầu hết họ là những người hành nghề tự do, được cơ quan
có thẩm quyền bổ nhiệm và không được chuyển nhượng hay thừa kế văn
phòng của mình (ngoại trừ ở Pháp và Bỉ), họ được tự do trả tiền công tính
theo lao động và chịu trách nhiệm cá nhân khi gây thiệt hại do văn bản công
chứng gây ra.
Để gia nhập vào nghề này, cần phải theo học luật từ 3 đến 5 năm (bằng
cao học luật hoặc bằng cấp tương đương, ở Italia phải có bằng tiến sỹ), thời
3
Lê Thu Hà (chủ biên,2011), Giáo trình kỹ năng công chứng, Nhà xuất bản tư pháp, Học viện Tư Pháp, Hà
Nội, tr10,11.
12
gian thực tập nghề tối thiểu là từ 2 đến 3 năm. Ở một số nước, phải qua một
kỳ thi (Tây Ban Nha, Italia, Hy Lạp, Bồ Đào Nha). Ở các nước đều có tổ chức
nghề nghiệp được cấu trúc với các Hội đồng tự quản là một cơ quan cấp quốc
gia do Pháp luật quy định (Italia). Các công chứng viên có thể liên kết với
nhau như ở Pháp, Italia, Hà Lan và cả ở Tây Ban Nha dưới hình thức công ty
dân sự nghề nghiệp.4
Ở các quốc gia trong hệ thống công chứng La Tinh, công chứng viên là
chức danh rất gần gũi với cuộc sống. Công chứng viên là những người có
trách nhiệm giúp mọi người lựa chọn và định đoạt tài sản của mình, tư vấn
cho các bên giao kết hợp đồng một cách khách quan, trung thực nhất đồng
thời cũng nêu ra các hệ quả, rủi ro có thể xảy ra của việc ký kết hợp đồng
nhằm bảo vệ lợi ích cho tất cả các bên tham gia hợp đồng. Công chứng viên
vừa làm nhiệm vụ ký vào hợp đồng, xác nhận ý chí của các bên, vừa giúp các
bên thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình qua các thể thức ký kết hợp đồng
sao cho phù hợp với mục đích giao kết cũng như phù hợp với các quy định
của pháp luật. Hơn thế, công chứng viên còn là người dung hòa các bất đồng
về quan điểm của các bên, giải thích cho các bên hiểu được quyền và lợi ích
của mình nhằm đảm bảo sự công bằng, tôn trọng quyền và lợi ích của các bên
tham gia giao kết. Với nhiệm vụ này, công chứng viên giúp các bên đạt được
sự thống nhất ý chí khi ký kết, tránh xảy ra tranh chấp về sau.
Văn bản công chứng viên lập ra là văn bản công, là tài sản quốc gia.
Công chứng viên có nhiệm vụ phải bảo quản các văn bản công chứng, cấp
bản sao từ bản gốc các văn bản công chứng đó.
Có thể gọi công chứng viên ở các quốc gia trong hệ thống công chứng
La tinh là các thẩm phán phòng ngừa. Văn bản công chứng có giá trị chứng
cứ hiển nhiên và giá trị cưỡng chế thi hành, đem lại an toàn pháp lý cho các
4
Lê Thu Hà (chủ biên,2011), Giáo trình kỹ năng công chứng, Nhà xuất bản tư pháp, Học viện Tư Pháp, Hà
Nội, tr10.
13
giao dịch, đảm bảo tính hợp pháp, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp
luật, lành mạnh hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại. Tính chất phòng
ngừa tranh chấp này là một trong những ưu điểm lớn của hệ thống công
chứng La tinh.
Để đảm bảo được các yêu cầu trên, công chứng viên trong hệ thống
công chứng La tinh không chỉ là người có kiến thức pháp luật sâu rộng, kinh
nghiệm sống dồi dào mà họ còn phải là những người có đạo đức tốt, luôn phải
trung thực, công bằng, tôn trọng các quyền và lợi ích của tất cả các bên giao
dịch, tôn trọng và giữ bí mật các thông tin của khách hàng, có trách nhiệm đối
với văn bản công chứng do mình ký cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do văn bản công chứng của mình gây ra.
Hệ thống công chứng La tinh là hệ thống công chứng có nhiều ưu điểm.
Tính quyền lực công thể hiện rõ qua việc công chứng viên là chức danh do
Nhà nước bổ nhiệm, công chứng viên là người nắm giữ quyền lực công
nhưng thực hiện chức năng của mình một cách khách quan và độc lập ngoài
hệ thống thứ bậc hành chính của cơ quan Nhà nước. Thêm đó, con dấu mà
công chứng viên sử dụng mang hình quốc huy, thể hiện quyền lực của Nhà
nước. Mặc dù mang tính quyền lực công, nhưng công chứng viên ở hệ thống
công chứng La tinh lại hoạt động theo cơ chế tự chủ về tài chính. Nguồn tài
chính để thành lập, duy trì và hoạt động của các phòng công chứng được huy
động từ nguồn cá nhân, giúp tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước một khoản chi
phí lớn. Đồng thời, tăng được nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ các
khoản thuế thu được như những doanh nghiệp tư nhân. Công chứng ở Cộng
hòa Pháp là một điển hình của công chứng hệ La Tinh. “Công chứng chiếm vị
trí hàng đầu trong số các nghề luật ở Pháp, doanh thu của ngành Công chứng
đạt 27 tỷ FF mỗi năm, chiếm khoảng 45% tổng số doanh thu của các nghề
luật (luật sư, tư vấn, thừa phát lại, bán đấu giá…)”5 . Bởi cơ chế tự chủ về tài
5
Lê Thu Hà (chủ biên,2011), Giáo trình kỹ năng công chứng, Nhà xuất bản tư pháp, Học viện Tư Pháp, Hà
Nội, tr25.
14
chính, trách nhiệm mua bảo hiểm nghề nghiệp cũng thuộc về phòng công
chứng, công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân cho những thiệt hại do
văn bản công chứng của mình gây ra, do đó làm tăng trách nhiệm với nghề
nghiệp hơn cho công chứng viên.
Công chứng viên phải tuân thủ theo một mức phí bắt buộc. Lệ phí công
chứng là do Nhà nước quy định giúp người dân dễ tiếp cận với dịch vụ công
chứng hơn, tạo sự bình đẳng giữa mọi tầng lớp trong xã hội về việc sử dụng
dịch vụ công.
Văn bản công chứng mang tính kỹ thuật cao. Yêu cầu đối với công
chứng viên của hệ công chứng La Tinh khi lập ra các văn bản công chứng
phải chặt chẽ, viện dẫn các điều luật được áp dụng đối với từng chi tiết. Để
đảm bảo tính xác thực cho hợp đồng, công chứng viên phải kiểm tra thật kĩ
các thông tin, giấy tờ nhân thân của khách hàng, thậm chí cả hiện trạng pháp
lý của tài sản trên thực tế và ghi nhận trong văn bản công chứng. Tính xác
thực của văn bản công chứng đem lại trước hết là sự chính xác về ngày,
tháng, năm, địa điểm. Bởi vậy, văn bản công chứng có giá trị pháp lý và giá
trị chứng cứ viết cao.
Công chứng viên trong hệ thống công chứng La Tinh luôn được yêu
cầu là những người có trình độ hiểu biết pháp lý sâu sắc, kinh nghiệm sống và
tư duy nhạy cảm với nghề nghiệp để đảm bảo và thống nhất ý chí, quyền và
lợi ích hợp pháp ở mức độ cao nhất cho khách hàng, tránh được những tranh
chấp, rủi ro về sau.
Tuy nhiên, chính bởi yêu cầu đòi hỏi văn bản công chứng phải có tính
kỹ thuật cao, các quy định về thể thức chặt chẽ nên công chứng viên cần có
nhiều thời gian và nhân lực thực hiện các tác nghiệp dẫn đến các yêu cầu công
chứng không thể được đáp ứng một cách nhanh chóng. Đặc biệt đối với các
hợp đồng, giao dịch mà khách hàng là các doanh nhân, những người luôn cần
sự nhanh chóng thuận tiện để không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh.
15
1.2.2 Hệ thống công chứng Anglo – sacxon
Hệ thống công chứng Anglo – sacxon gắn liền với hệ thống pháp luật
Anglo-Sacxon (Common Law). Tại các quốc gia trong hệ thống công chứng
Anglo – sacxon, thể chế công chứng không được thiết lập. Nhà nước không
thừa nhận một thể chế công chứng, không bổ nhiệm một chức danh hoạt động
công chứng chuyên nghiệp và chuyên biệt. Các nước trong hệ thống công
chứng này gồm: Vương quốc Anh, các nước trong Liên Hiệp Anh, Hoa kỳ
(trừ bang Louisane), Đan Mạch, Canada (trừ bang Quebec), Ấn Độ, Thái Lan,
Đài Loan….Tại các nước này, chức năng công chứng được thực hiện theo
hình thức kiêm nhiệm. Thực hiện chức năng công chứng là các luật sư, hộ
tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ. Điều kiện để kiêm nhiệm thêm
chức năng công chứng là những người này cần phải là những luật sư có thâm
niên hoạt động trong Hiệp hội luật sư hay có thâm niên là hộ tịch viên hay cố
vấn pháp lý của Giáo hội.
Khi thực hiện công chứng, các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý
của Giáo hội chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện
đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại
sự kiện pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên hoặc ý chí của người yêu cầu
công chứng, không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối
tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận có trái pháp luật, đạo đức xã hội
hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng
bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba.6
Không hề giống với hệ thống công chứng La tinh, người thực hiện công
chứng không có nghĩa vụ tư vấn hay giải thích nội dung, dung hòa, thống nhất
ý chí giữa các bên. Ngược lại, luật sư còn có thể tư vấn riêng cho một bên
tham gia giao kết. Đối với những nước có nền tư pháp mạnh, đội ngũ luật sư
phát triển thì việc sử dụng mô hình công chứng này có tính ưu việt, bảo đảm
6
Lê Thu Hà (chủ biên,2011), Giáo trình kỹ năng công chứng, Nhà xuất bản tư pháp, Học viện Tư Pháp, Hà
Nội, tr19,20.
16
trách nhiệm thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch. Thủ tục công
chứng đơn giản, thời gian giải quyết yêu cầu công chứng nhanh chóng giúp
cho các hợp đồng giao dịch dễ dàng được thực hiện. Ngược lại, đối với những
nước có nền tư pháp không mạnh, đội ngũ luật sư phát triển chưa cao thì dễ bị
lợi dụng để vi phạm pháp luật và thường xuyên bị tranh chấp... Tính an toàn
pháp lý của các văn bản công chứng trong hệ thống này rất thấp, các bên khi
tham gia giao kết có thể thuê cố vấn cho riêng mình, đưa ra các điều khoản có
lợi cho mình mà không cần quan tâm đến sự cân bằng lợi ích giữa các bên hay
những thiệt hại mà phía bên kia phải chịu. Do đó, khi xảy ra tranh chấp, văn
bản công chứng do những người thực hiện công chứng kiêm nhiệm này chỉ
được coi là nguồn chứng cứ và cần phải điều tra, xác minh.
Mặc dù tạo được tính linh hoạt, mềm dẻo cho từng nhu cầu công chứng
của các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt đối với khách hàng là các doanh nhân
luôn cần sự nhanh chóng để chớp cơ hội trong kinh doanh bởi trình tự thủ tục
đơn giản, nhanh gọn nhưng cũng bởi vậy mà hệ thống công chứng này còn vô
vàn nhược điểm. Có thể thấy, việc quản lý của Nhà nước đối với vấn đề công
chứng còn mờ nhạt, công chứng viên ở các quốc gia trong hệ thống này được
toàn quyền thỏa thuận mức lệ phí công chứng với khách hàng, có thể từ chối
công chứng nếu như công chứng viên thấy mức thù lao không thỏa đáng. Nhà
nước cũng không hề có chế độ kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động công
chứng này. Trong hệ thống này, công chứng thực sự là một dịch vụ pháp lý,
thù lao công chứng do các bên thỏa thuận, nhà nước không quy định mức thù
lao cụ thể, do đó dễ dàng tạo ra sự bất bình đẳng giữa quyền được hưởng dịch
vụ công của người dân. Đặc biệt, văn bản công chứng mang giá trị an toàn
pháp lý thấp, văn bản công chứng chỉ chú trọng tới hình thức mà không quan
tâm tới nội dung. Người công chứng chỉ ghi nhận đúng khách hàng, chính bản
thân đương sự tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch đã xuất hiện trước mặt
công chứng viên, trong trạng thái tinh thần minh mẫn, không chịu bất kỳ một
sức ép nào, đã ký vào văn bản c tiết. Khoản 6 Luật công chứng 2014 nêu rõ “Trong trường hợp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công
chứng phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công
chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ
khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính
chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ
công chứng”. Như vậy, không phải ai cũng được quyền tiếp cận và cung cấp
các thông tin liên quan đến hồ sơ công chứng, việc cung cấp này phải được
62
tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định và phải là cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trường hợp cung cấp bản sao của văn bản công chứng, pháp luật cũng
quy định chặt chẽ về đối tượng được cấp bản sao đó là : theo yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền trong các trường hợp được quy định trên và theo yêu cầu
của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, người có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng.
Có thể thấy rõ việc lưu trữ hồ sơ công chứng được quy định chặt chẽ và
nghiêm ngặt càng cho thấy phần giá trị chứng cứ lớn của văn bản công chứng.
Đây là nguồn chứng cứ phong phú và đáng tin cậy nhằm phục vụ cho công
tác xét xử của các cơ quan tài phán, Tòa án cũng như các cơ quan tiến hành tố
tụng khác.
63
CHƢƠNG III
THỰC TIẾN HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG
3.1 Thực tiễn của hoạt động công chứng ở Việt Nam hiện nay
Công chứng nước ta đã có gần 30 năm hoạt động. Ban đầu, mỗi tỉnh
thành chỉ có 1 phòng công chứng với nhiều chức năng khác nhau, trong đó
chứng nhận bản sao và bản dịch chiếm tới hơn 90% khối lượng công việc.
Công chứng hợp đồng giao dịch chỉ chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ, mảng việc này phần
lớn do UBND các cấp quận huyện và phường xã kiêm nhiệm. Cho đến nay,
với chủ trương xã hội hóa công chứng, một mạng lưới các tổ chức hành nghề
công chứng đã được hình thành và triển khai hoạt động ở khắp toàn quốc, đáp
ứng tốt phần lớn các yêu cầu chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá
nhân, tổ chức. Theo Báo cáo số 12/BC-BTP Tổng kết công tác tư pháp năm
2015, nhiệm kỳ 2011-2015; Định hướng nhiệm kỳ 2016-2020 và nhiệm vụ
giải pháp chủ yếu công tác năm 2016 của Bộ Tư Pháp ngày 20/11/2016 thì
tính đến hết năm 2015, cả nước có 895 tổ chức hành nghề công chứng (tăng
49 tổ chức so với năm 2014 và tăng gần 78% so với năm 2011), trong đó có
145 Phòng Công chứng và 750 Văn phòng công chứng, với tổng số công
chứng viên là 2.063 (tăng 293 so với năm 2014 và tăng gần 2,2 lần so với
năm 2011) .Bên cạnh đó, đến nay đã thành lập được 13 Hội công chứng ở địa
phương. Năm 2015, các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng
được 4.497.971 hợp đồng, giao dịch (tăng khoảng 30% so với năm 2014),
đóng góp cho Ngân sách nhà nước hoặc nộp thuế gần 478 tỷ đồng (tăng gần
178 tỷ đồng so với năm 2014). Hoạt động công chứng đang từng bước được
chuyên nghiệp hoá, việc tiếp cận dịch vụ công chứng ngày càng thuận tiện,
nhanh chóng. Công chứng đã khẳng định được vai trò không thể thiếu trong
việc chứng nhận và đảm bảo an toàn pháp lý đối với các giao dịch dân sự.
Công chứng đã trở thành địa chỉ tin cậy của người dân và các tổ chức tham
gia giao dịch dân sự. Lợi ích mà ngành công chứng đã đem lại cho xã hội
64
trong những năm qua là rất to lớn. Những thành tựu có được là nhờ vào sự nỗ
lực tự thân ngành nghề và nhờ có được những điều kiện thuận lợi do hệ thống
pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật đem lại.
Bên cạnh mặt thuận lợi, hoạt động công chứng còn có một số khó khăn,
vướng mắc nhất định. Có một số vướng mắc thì liên quan đến các quy định
của pháp luật do chưa theo kịp và phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Còn một
số khác thì liên quan đến thực tiễn hoạt động. Các phương tiện thông tin đại
chúng trong thời gian gần đây đã bắt đầu đề cập nhiều đến các hoạt động công
chứng, khen ngợi cũng có và bày tỏ sự băn khoăn lo lắng cũng có. Dư luận
bày tỏ băn khoăn lo lắng về việc một số hợp đồng đã công chứng nhưng phát
sinh tranh chấp hoặc bị kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tài sản. Rủi ro tranh
chấp phát sinh trong giao dịch dân sự là điều khó tránh khỏi ngay cả đối với
những nước có lịch sử hoạt động công chứng từ hàng trăm năm nay, sự an
toàn pháp lý tuyệt đối là điều khó có thể có mà chỉ là điều ước muốn. Nhưng
nếu tranh chấp diễn ra với tỷ lệ cao thì có thể có vấn đề cần phải xem xét lại.
Vi phạm trong công chứng hiện nay diễn ra với chiều hướng ngày càng
phức tạp, công chứng viên vẫn còn sai sót trong quá trình tác nghiệp, gây hậu
quả, thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, đã có trường hợp Công chứng viên bị truy tố.
Hành vi công chứng viên chứng nhận đối tượng hợp đồng là không có
thật trên thực tế đã xảy ra. Ví dụ:
Trường hợp Văn phòng Công chứng Thành Đông (Hải Dương) đã công
chứng “sai luật” là: chị Thân Thanh Thương và chồng là anh Bùi Trung
Thanh. Năm 2009, vợ chồng anh Thanh, chị Thương mua thửa đất số 45.186,
tờ bản đồ số QH - 05 ở khu đô thị phía tây TP Hải Dương, được UBND thành
phố cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh chị. Sau đó, anh
chị xây ngôi nhà 5 tầng trên thửa đất này. Năm 2011, đề phòng làm ăn thua
lỗ, bị thu nhà đất nên vợ chồng chị bàn bạc làm thủ tục tặng nhà đất cho ông
Bùi Trung Quân (là bố đẻ anh Thanh). Sau khi làm thủ tục tặng cho và ông
Quân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì anh