Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sự xuất hiện, phát triển và nhận thức về vai trò của Xã hội dân sự ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.82 KB, 14 trang )

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
Khoa xã hội học
Bài tiểu luận: XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI : XÃ HỘI HỌC DÂN SỰ
GVHD : Th.s Nguyễn Văn Đáng
Sinh viên :
Lớp : K53 Xã hội học
MSSV :
Hà Nội, 2010
1
Sự xuất hiện, phát triển và nhận thức về vai trò của Xã hội dân
sự ở Việt Nam
Bài làm
Xã hội dân sự đang là vấn đề được cả giới nghiên cứu khoa học lẫn các nhà hoạch
định chính sách quan tâm. Ngày nay, Xã hội dân sự có tính phổ biến, tính toàn cầu, dù rằng
các dân tộc tiến đến nó một cách nhanh chậm khác nhau. Xã hội dân sự là khái niệm khá
mới trong giới nghiên cứu lý luận ở nước ta. Sở dĩ được thảo luận nhiều vì trong vòng hai
thập kỷ vừu qua, các tổ chức xã hội( với chức năng dân sự) đột nhiên lại đóng vai trò chính
trị quan trọng, đặc biệt là các nước ở Đông Âu và các nước trong SNG( Cộng đồng các
quốc gia độc lập).
Trung tâm Xã hội dân sự của Trường đại học kinh tế London định nghĩa Xã hội
dân sự như sau: Xã hội dân sự đề cập tới một mảng các hoạt động tập thể tự nguyện xung
quanh các giá trị, mục tiêu, ý thích chung. Về lý thuyết, các hình thái tổ chức xã hội dân sự
khác biệt hẳn với các hình thái tổ chức nhà nước, gia đình và thị trường. Nhưng trong thực
tế thì, gianh giới giữa nhà nước, xã hội dân dự, gia đình và thị trường là khá lẫn lộn, mập
mờ và không rõ ràng. Xã hội dân sự thường bao gồm một sự đa dạng về phạm vi hoạt
động, các thành viên tham gia và các hình thái tổ chức, khác nhau về mức độ nghi lễ, tự do
và quyền lực. Xã hội dân sự thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ
thiện, các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các phòng trào xã hội, các hiệp hội
kinh doanh, các liên minh, và các đoàn luật sư.
Với mối quan tâm như vậy, việc tìm hiểu Sự xuất hiện, bản chất và chức năng của


Xã hội dân sự ở Việt Nam.. Giúp chúng ta có được cái nhìn sống động, dưới góc độ
2
tiếpcận của Xã hội học, như tìm hiểu được sự xuất hiện của Xã hội dân sự của Thế giới và
xuất hiện ở Việt Nam, tìm hiểu được bản chất và chức năng của Xã hội dân sự ở Việt Nam.
Bài viết này tập trung làm rõ:
-Sự xuất hiện của xã hội dân sự ở Việt Nam.
-Sự phát triển của Xã hội dân sự ở Việt Nam.
-Nhận thức về vai trò của Xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay.
- Những bất cập, vấn đề đáng quan tâm nhất.
1.Sự xuất hiện của Xã hội dân sự ở Việt Nam.
1.1Sự xuất hiện của Xã hội dân sự trên thế giới, và sự phát triển của nó trên
thế giới.
Thuật ngữ “xã hội dân sự” đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm và trở nên tương
đối thịnh hành vào thời Khai sáng. Một thời gian dài sau đó, nó ít được nhắc đến, hoặc có
chăng, chỉ được giới khoa học đề cập một cách tản mạn.
Có thể do vai trò của xã hội dân sự ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong thời kỳ
chuyển đổi của những năm cuối thập niên 80, những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX và
một vài lý do khác, nên ở nước ta, thuật ngữ xã hội dân sự ít được bàn luận vì nó thường
được cho là mang hàm ý tiêu cực. Cho đến gần đây, cụm từ này đôi lúc vẫn còn được xem
là nhạy cảm. Tuy nhiên, trong tiến trình dân chủ hóa ở nước ta hiện nay và trong xu thế hội
nhập, “ xã hội dân sự” là thuật ngữ thường được nhắc đến và được bàn luận khá cởi mở.
Xã hội dân sự ở phương Tây có nguồn gốc từ đời sống xã hội ở Hy Lạp cổ đại: các
polis Hy Lạp cổ và các đô thị La Mã cổ với những “công dân tự do ” xuất hiện lần đầu tiên
trong lịch sử. Thuật ngữ xã hội dân sự, theo tiếng Hy Lạp là koinonia politiké (tiếng Pháp:
société civile, tiếng Anh: civil society và trong tiếng Nga grazhdanskoe obchtsestvo, có khi
nó được dịch thành xã hội công dân để nhấn mạnh đến vị trí của các công dân trong xã
hội).
Nhưng ý thức xã hội dân sự thực sự có bước phát triển mạnh mẽ với những nội
dung sâu sắc hơn được thể hiện trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng xuất sắc ở thế kỷ
XVI như J. Rodin (Pháp), T. Hobbes (Anh), B. Spinoza (Hà Lan) v.v.. Họ bắt đầu đưa ra

sự phân biệt giữa xã hội và nhà nước, phản ảnh sự trỗi dậy của các cá nhân ở các đô thị vào
buổi đầu hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. J. Rodin, một học giả người Pháp
vào thời xảy ra các cuộc chiến tranh tôn giáo, đã đưa ra nguyên lý về tính tối thượng của
nhà nước. Theo ông, nhà nước có quyền tối thượng đối với tất cả các thành viên xã hội và
tất cả những gì thuộc về nó. Nhà nước chỉ hình thành khi những thành viên tản mạn của xã
hội thống nhất lại dưới một quyền lực thống nhất. T. Hobbes, người coi trạng thái tự nhiên
của xã hội là “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”], cho rằng nhà nước có sứ mệnh khắc
phục trạng thái đó bằng cách thiết lập một sự thỏa thuận giữa tất cả các thành viên của xã
hội. Xã hội dân sự nảy sinh trên cơ sở thỏa thuận ấy được coi là đồng nghĩa với nhà nước
và luật pháp do nhà nước đặt ra.
3
Đến thế kỷ XVIII, J. J. Rousseau, một trong những nhà Khai sáng xuất sắc nhất, đã
phát triển quan điểm của Hobbes. Đối với ông, con người vì mất đi sự tự do tự nhiên của
mình và cũng vì sợ mất đi cả các quyền tự nhiên của mình nên đã đi tới một khế ước xã
hội. Nhờ có sự liên hiệp này mà người ta thống nhất lại với nhau trên cơ sở phục tùng
những thể thức chung, nhưng mỗi người vẫn có tự do như trước đây.
T. Hobbes, J. Locke, J. J. Rousseau, Montesquieu đều có chung quan điểm là tự do cá
nhân của con người độc lập với nhà nước. Chẳng hạn, theo Locke, xã hội có trước nhà
nước, nó tồn tại một cách “tự nhiên”, còn nhà nước là một “vật mới”. Nếu nhà nước vì một
lý do nào đó bị xóa bỏ đi thì xã hội vẫn được duy trì bằng tất cả các luật và quyền tự nhiên
của nó. Người dân hợp thành xã hội, nó là tối thượng và khi thiết lập nhà nước, tuy tính tối
thượng chuyển sang nhà nước nhưng nhà nước không thể nuốt mất xã hội. Hơn thế nữa,
mục đích chủ yếu của nhà nước là bảo vệ xã hội. Do đó, nhà nước không thể thay thế được
xã hội, chính là nhờ có xã hội mà nhà nước có thể hoạt động được.
Cả Hobbes, Locke, Montesquieu và Rousseau đều cho rằng dân chủ chỉ có thể nảy
nở trên một sự thỏa thuận mang tính khế ước giữa công dân và nhà nước, về việc hạn chế
và phân chia quyền lực nhà nước để quyền lực ấy thực chất thuộc về nhân dân. Chừng nào,
sự thỏa thuận ấy bị phá vỡ, chừng ấy nhân dân có quyền xác lập một khế ước mới bằng
nhiều cách khác nhau, và đó cũng hoàn toàn là quyền tự nhiên của con người.
Mở đầu Khế ước xã hội, Rousseau đã phải thốt lên đau đớn rằng, “con người sinh ra là tự

do, vậy mà ở khắp nơi, con người lại bị cùm kẹp”. Do vậy, cách tốt nhất để lấy lại sự tự do
như là quyền tự nhiên của con người đó chính là việc cần phải tổ chức thiết chế xã hội sao
cho quyền tự nhiên ấy không bị xâm phạm và tước đi một cách tùy tiện từ phía nhà nước
và bộ máy công quyền.
Đối với Hobbes và Rousseau đó là sự thỏa thuận bằng khế ước xã hội, đối với
Locke và Montesquieu, đó là sự phân chia quyền lực nhà nước một cách độc lập và chế
ước lẫn nhau. Do đó, dân chủ gắn liền với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Nền
dân chủ không thể sản sinh trong một xã hội mà ở đó nguyên tắc cai trị do các cá nhân tùy
tiện và thao túng. Trái lại, dân chủ là kết quả trong một xã hội được tổ chức, thiết chế, và
vận hành trên nguyên tắc luật pháp và phân chia quyền lực, cũng như có sự tham gia mạnh
mẽ của các thiết chế phi chính trị và phi nhà nước đóng vai trò là lực lượng xã hội đối
trọng nhằm giám sát và cân bằng với thiết chế chính trị và nhà nước trong việc thực thi dân
chủ.
Hegel - Nhà triết học Đức vĩ đại đầu thế kỷ XIX - đã tiếp nhận và hệ thống hóa tư
tưởng xã hội - chính trị của Pháp, Anh, Mỹ và Đức trong vấn đề này. Tác phẩm Triết học
pháp quyền của ông đã chứng minh rằng xã hội dân sự là một giai đoạn phát triển lịch sử
mà đỉnh cao của nó là sự xuất hiện nhà nước hiện đại. Nói chính xác hơn, Hegel coi xã hội
dân sự là một giai đoạn đặc biệt trong sự vận động biện chứng từ gia đình đến nhà nước,
diễn ra trong quá trình biến đổi lịch sử phức tạp và lâu dài từ Trung Cổ đến Cận đại. Theo
ông, đời sống xã hội hoàn toàn khác với đời sống đạo đức của gia đình và cũng khác với
đời sống công cộng của nhà nước. Nó là một yếu tố cần thiết trong toàn bộ cộng đồng
chính trị được tổ chức một cách hợp lý. Theo Hegel, kinh tế thị trường, các giai cấp xã hội,
các nghiệp đoàn, các định chế có nhiệm vụ bảo đảm sức sống của xã hội và thực hiện các
quyền công dân. Như vậy, xã hội dân sự là tập hợp của những tư nhân, tầng lớp, những
4
nhóm và những định chế mà sự tác động qua lại của chúng được điều chỉnh bằng qui tắc
của dân luật và với tư cách đó, nó không phụ thuộc trực tiếp vào nhà nước chính trị.
K. Marx, trong các tác phẩm đầu tay, đặc biệt trong Hệ tư tưởng ÐĐức và vấn đề
Do Thái, đã bàn nhiều về xã hội dân sự. Một mặt, kế thừa những luận điểm “hợp lý” của
Hegel; mặt khác, ông phê phán Hegel một cách quyết liệt. Cũng như Hegel, ông từng coi

xã hội dân sự là một hiện tượng lịch sử, là kết quả của sự phát triển lịch sử mà không phải
là “vật ban tặng” của tự nhiên. Và cũng như Hegel, ông coi xã hội dân sự có tính chất tạm
thời. Sự khác nhau cơ bản giữa Marx và Hegel là điểm xuất phát khi phân tích về bản chất
của xã hội dân sự và nhà nước, về những quan hệ giữa xã hội dân sự với nhà nước. Trong
khi Hegel lấy “tinh thần phổ biến” và “ý niệm tuyệt đối ” làm điểm xuất phát thì Marx lấy
đời sống hiện thực, trước hết là phương thức sản xuất của xã hội, làm điểm xuất phát. “Sự
giải phóng chính trị là đưa con người, một mặt, trở thành thành viên của xã hội thành cá
nhân vị kỷ và độc lập, và mặt khác, trở thành công dân, thành cá nhân đạo đức”. Ông cho
rằng chỉ khi nào sức mạnh con người được tổ chức thành sức mạnh xã hội và chính trị, khi
đó sự giải phóng con người mới hoàn thành.
Sau một giai đoạn dường như bị “chìm” đi, hoặc có chăng, cũng chỉ là sự nghiên
cứu mang tính tản mạn của các nhà khoa học, thời gian gần đây, khái niệm xã hội dân sự
như được “hồi sinh” và là một phương cách trung tâm để lý giải các quá trình chính trị - xã
hội diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, kể cả các nước phương Tây cũng như các nước
phương Đông.
Quá trình dân chủ hóa ở các nước phát triển phương Tây đã đi tới một giai đoạn
mới: chế độ dân chủ đại diện đang mất đi sức sống và những tiền đề cho một chế độ dân
chủ trực tiếp, dân chủ tham gia đang dần dần xuất hiện. Khách quan mà nói, dân chủ đại
diện là một thành quả rất lớn của dân chủ, của sự phát triển xã hội về mặt chính trị và bản
thân chế độ dân chủ đại diện cũng chính là một trong nhũng thành quả to lớn của xã hội
dân sự, nhưng đến giai đoạn này, do nhiều lý do khác nhau, nó bắt đầu xơ cứng, kém hiệu
lực. Ở một mức độ nào đó, trở thành kém dân chủ, thậm chí trở thành tấm “bình phong” và
là công cụ của các nhà tư bản. Sự quan liêu trong bộ máy nhà nước không những không
giảm mà còn có xu hướng tăng lên. Mặt khác, đời sống chính trị - xã hội càng phức tạp,
nhà nước tư sản càng phải đặt ra nhiều qui định vi phạm quyền tự do dân chủ. Đặc biệt
trong thời gian gần đây, với danh nghĩa chống bạo loạn, khủng bố, nhiều nhà nuớc tư sản
ban hành các qui định, có thể nói là vi phạm nghiêm trọng các quyền con người, quyền
công dân.
1.2.Xã hội dân sự xuất hiện ở Việt Nam.
Việt Nam có Xã hội dân sự chưa?

Xã hội dân sự là xã hội của tổ chức. Phải chăng trên một ý nghĩa như vậy ở Việt
Nam đã có Xã hội dân sự rồi. Thời Bác hồ đã có quy định về lập hội. Nhà nước của dân…
là thừa nhận đã có Xã hội dân sự rồi. Nếu hiểu Xã hội dân sự theo nghĩa đầy đủ, thì chúng
ta mới có ở mức sơ khai, còn khi nào có nhà nước pháp quyền thật sự thì Xã hội dân sự
mới phát triển. Không có nhà nước pháp quyền mạnh không có Xã hội dân sự mạnh và
ngược lại. Cũng nên hiểu như giữa Xã hội dân sự và kinh tế thị trường.
5

×