Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRẦN HÀ LINH

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRẦN HÀ LINH

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƢỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60380104



Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Mai

HÀ NỘI - NĂM 2016


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

NBC

Người bào chữa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1

:

Số vụ án có người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự

Biểu đồ 3.1 :

Số phiên tòa xét xử sở thẩm có sự tham gia của người bào
chữa giai đoạn 2011 – 2015

Biểu đồ 3.2 :

Tỷ lệ số vụ án xét xử sở thẩm có sự tham gia của người bào
chữa giai đoạn 2011 – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
1.1.
Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự
1.2. Ý nghĩa quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự
CHƢƠNG 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
2.1.
Khái quát quy định của pháp luật quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự trước khi có
BLTTHS năm 2003
2.2.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về quyền bào chữa của

người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
CHƢƠNG 3: Thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và một số giải pháp nhằm bảo đảm
thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự
3.1.
Thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự
3.2.
Một số giải pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
9
9
26

31
31

35
52

52
73
87



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của
con người, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc
tế. Ở Việt Nam, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), với việc đặt
con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới không chỉ tác
động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế
bảo đảm quyền con người ở nước ta. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những
giá trị bất biến về quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
và những quy định về quyền công dân trong các bản Hiến pháp trước đây,
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã thể hiện
sự phát triển về quyền con người và quyền công dân trong cả nội dung và kỹ
thuật lập pháp.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nơi mà các cơ quan tiến hành tố tụng
đại diện cho quyền lực nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng, hạn chế một số quyền cơ bản của con người nhằm đấu tranh phòng ngừa
tội phạm, làm rõ sự thật khách quan của vụ án thì quyền con người, đặc biệt là
quyền của người bị buộc tội rất dễ bị xâm phạm. Theo tinh thần của khoản 4
Điều 31 Hiến pháp năm 2013, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử (gọi chung là người bị buộc tội) có quyền tự bào chữa và
nhờ người khác bào chữa, đây là quyền đặc thù của người bị buộc tội, giúp họ
có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Trước đó, ngày 2/1/2002,
Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, xác định nhiệm vụ xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi
công tác tư pháp phải có những chuyển biến mạnh mẽ, phấn đấu thực hiện tốt
mục tiêu nghiêm minh, công bằng, dân chủ, trong đó đưa ra những quan điểm

chung và chủ trương, giải pháp cụ thể đối với việc cải cách, đổi mới từng cơ


2

quan tư pháp. Đối với công tác bào chữa, Nghị quyết 08 đã đặc biệt quan tâm
đến vấn đề bảo đảm quyền bào chữa, thông qua việc nhấn mạnh vai trò của
luật sư và đặt nhiệm vụ cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
một cách tốt nhất quyền bào chữa. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo. Trên cơ sở đó,
BLTTHS năm 2003 đã cụ thể hóa quyền bào chữa của người bị buộc tội (bao
gồm quyền tự bào chữa, quyền mời người khác bào chữa), đảm bảo quyền
bào chữa của người bị buộc tội, vai trò của luật sư, người bào chữa, đẩy mạnh
tranh tụng tại phiên tòa…Để củng cố những thành quả do việc triển khai Nghị
quyết 08 và thúc đẩy công cuộc cải cách tư pháp, Bộ chính trị ban hành nghị
quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (ngày
2/6/2005). Một trong những nhiệm vụ được đề cập trong Nghị quyết 49 là đổi
mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; nâng cao chất lượng tranh
tụng, từ đó bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và người
bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự nói riêng được thực hiện một
cách tốt nhất1.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự những năm qua cho
thấy, vẫn còn tồn tại tình trạng oan sai, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cụ thể là người bị buộc tội trong vụ án hình sự. Theo Báo
cáo kết quả giám sát về tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình
sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thấy, nguyên nhân
chính dẫn đến các trường hợp oan sai “chủ yếu thuộc về lỗi chủ quan của một

số người tiến hành tố tụng (trình độ, năng lực yếu kém, trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp hạn chế)…”. Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác không
kém phần quan trọng được báo cáo nêu ra, đó là: “không cử người bào chữa
1

UNDP (2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam, Hà Nội, tr 34


3

cho bị can chưa thành niên; vi phạm quy định bảo đảm quyền bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… gần 80% vụ án hình sự hiện nay chưa có
Luật sư tham gia nên chưa bảo đảm tranh tụng để tránh oan, sai. Sự tham gia
tố tụng của người bào chữa có trường hợp khó khăn do người tiến hành tố
tụng thực hiện không đúng quy định về cấp Giấy chứng nhận bào chữa”2. Bên
cạnh đó, một nguyên nhân không thể không nhắc đến là các quy định pháp
luật chưa thực sự thống nhất, còn chống chéo, mâu thuẫn. Mặc dù BLTTHS
Việt Nam đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên mới chỉ phần nào
khắc phục được những bất cập còn tồn tại. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội, trong đó có người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử
vẫn chưa được bảo đảm trọn vẹn, thậm chí còn bị vi phạm khá nhiều trên thực
tế. Thực trạng trên cho thấy, có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của
người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử nói riêng phải được lý giải một cách đầy đủ, toàn diện. Pháp
luật cần quy định chặt chẽ, tránh chồng chéo, theo hướng mở rộng quyền cho
người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, đồng thời có các quy
định nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội khi tham
gia tố tụng, hạn chế tối đa việc lạm dụng quyền lực của những người tiến
hành tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội.
Trong thời gian qua, có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến địa

vị pháp lý của người bị buộc tội, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, vai trò của luật sư bào chữa trong việc bảo đảm quyền của bị cáo.... Có
thể thấy, đây là một vấn đề được giới khoa học pháp lý hết sức quan tâm, tập
trung nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào thật sự đi sâu nghiên
cứu trực tiếp quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự. Trên cơ sở những nhận thức đó, để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện

2

Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo kết quả giám sát về tình hình oan, sai trong việc áp dụng
pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự, Hà Nội, ngày 20/5/2015


4

hơn về quyền bào chữa của người bị buộc tội, cụ thể là trong giai đoạn xét xử,
người viết đã chọn đề tài: “Quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Việc
nghiên cứu đề tài này nhằm đáp ứng với yêu cầu về chiến lược cải cách tư
pháp của Đảng, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với định
hướng, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 cũng như yêu cầu hội nhập quốc
tế của đất nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, trong đó phần lớn
hướng đến vấn đề đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo; địa vị pháp lý
của bị can, bị cáo; vai trò của luật sư bào chữa trong việc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo v.v… Có thể chia các công trình
nghiên cứu liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc tội, mà cụ thể là

bị can, bị cáo thành các nhóm sau:
- Những nghiên cứu có tính lý luận chung có liên quan như: GS.TSKH
Nguyễn Cảm (2004) với bài viết “Một số vấn đề lý luận chung về các giai
đoạn tố tụng” đăng trên Tạp chí kiểm sát số 2/2004; “Bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật” đăng trên
Tạp chí luật học số 1/2011 của tác giả Hồ Sỹ Sơn; TS. Nguyễn Văn Tuân
(2015) với cuốn sách “Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam”;
PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (2016) với cuốn sách “Những nội dung mới trong
BLTTHS năm 2015”; Bài tham luận của TS. Nguyễn Văn Tuân (2016) tại
Hội thảo Những điểm mới của BLTTHS năm 2015 do Đại học Luật Hà Nội tổ
chức tháng 06/2016 với tiêu đề “Những nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS
2015” v.v… Đây điều là những nghiên cứu có tính lý luận, bao quát một cách
khá toàn diện các vấn đề cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam, có giá trị tham
khảo cao trong quá trình nghiên cứu Luận văn của tác giả.
- Những nghiên cứu có liên quan đến quyền bào chữa, địa vị pháp lý
của người bị buộc tội có thể kể đến như: “Quyền của bị cáo trong tố tụng hình


5

sự Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thanh Thúy (2013);
“Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị
cáo” – Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Sơn Hà (2015); TS. Lương Thị Mỹ
Quỳnh (2013) với cuốn sách “Quyền có người bào chữa trong Tố tụng hình
sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ”… Ngoài ra, còn có các bài viết trên các tạp chí
khoa học về vấn đề này, như: “Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hoài (Tạp chí kiểm
sát, số 6/2007); “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình
sự” của tác giả Nguyễn Thái Phúc (Tạp chí Khoa học pháp lý số 4(41/2007));
“Hoạt động bào chữa trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Thị

Thanh Mai (Tạp chí luật học, số 7/2015)… Các công trình nghiên cứu nêu
trên đã đi sâu phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quyền bào
chữa, địa vị pháp lý của người bị buộc tội, từ đó chỉ ra thực trạng thực hiện
các quy định này, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực
hiện quyền của người bị buộc tội, bao gồm cả quyền bào chữa trên thực tế.
- Những nghiên cứu trực tiếp về quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử, cụ thể là bị can, bị cáo có thể kể tới như: “Bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội” của tác giả Phạm Hồng Hải, NXB.
Công an nhân dân năm 1999; “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự”, Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng Thị Sơn
(2003)… Đây là những công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến quyền bào
chữa của bị can, bị cáo song do thời gian nghiên cứu đã lâu, phần nào không
còn đáp ứng được yêu cầu thực tiễn pháp luật về quyền bào chữa của bị can,
bị cáo. “Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” – Luận văn thạc sĩ của
tác giả Nguyễn Huy Cường (2013) là một công trình nghiên cứu gần đây song
chỉ dừng ở quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Một
số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học có thể kể tới như: “Quyền bào chữa
và việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của
tác giả Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí dân chủ và pháp luật số 12/2009); Bài


6

tham luận của tác giả Trương Hồ Hải, Lê Thị Oanh (2014) về “Kiến nghị sửa
đổi, bổ sung một số điều luật trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và bị hại tại phiên tòa hình sự theo tinh
thần Hiến pháp 2013” tại Hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng
hình sự ở Việt Nam”, An Giang 30/5/2014; Tác giả Tôn Thiện Phương (2015)
với bài viết “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong BLTTHS 2015”

đăng trên Tạp chí kiểm sát số 10 (tháng 5/2015), v.v… Các bài viết kể trên đã
đề cập phần nào đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Song để có một cái
nhìn đầy đủ và toàn diện nhất thì các bài viết nêu trên là chưa đủ, bởi với
dung lượng bài viết đăng trong tạp chí khoa học, các tác giả chỉ có thể truyền
đạt một cách khái quát nhất về quyền bào chữa của bị can, bị cáo hoặc chi tiết
một trong rất nhiều vấn đề liên quan đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự.
Có thể nói, đây đều là công trình nghiên cứu có giá trị cao về cả lý luận
lẫn thực tiễn, đã đề cập phần nào đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo song
chưa một công trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn
diện và hệ thống quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự. Đặt trong bối cảnh Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua
với nhiều nội dung mới, quyền con người ngày càng được chú trọng, bảo
đảm, việc nghiên cứu đề tài Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự là hết sức cần thiết, phù hợp với chiến lược cải cách
tư pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự và thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu:


7

Luận văn tập trung làm rõ khái niệm khoa học về quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa

chính trị và ý nghĩa pháp lý của quyền bào chữa của người bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh việc đi sâu phân tích các quy định
của BLTTHS năm 2003, có so sánh, nhận xét, đối chiếu với các quy định mới
của BLTTHS năm 2015, Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự trên phạm
toàn quốc trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến hết năm 2015.
4. Mục tiêu nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, mục tiêu
nghiên cứu của luận văn là nhằm bảo đảm thực hiện tốt các quy định của pháp
luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự.
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi
nghiên cứu sau:
- Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội của người bị buộc
tội trong giai đoạn xét xử là gì ?
- Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử có ý
nghĩa gì?
- Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành quy định về quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử như thế nào?
- Có đánh giá, nhận xét gì các quy định về quyền bào chữa của người
bị buộc tội trong giai đoạn xét xử ?
- Thực tiễn thực hiện các quy định về quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự như thế nào? Có những hạn chế,
vướng mắc nào? Nguyên nhân của những hạn chế đó là gì?
- Nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự trên thực tế, cần có những giải pháp nào?


8


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan
điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước về chính sách hình sự, cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và
hoàn thiện pháp luật đến năm 2020. Tác giả đã sử dụng các phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp phân loại và hệ thống hóa… để nghiên cứu quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về quyền bào chữa
của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, làm rõ các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người bị
buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, chỉ ra những hạn chế, bất cập
của BLTTHS năm 2003 và những điểm mới của BLTTHS năm 2015, làm rõ
thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc
tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa
của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Chương 3: Thực trạng thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và một số giải pháp bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử.



9

CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của ngƣời
bị buộc tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự
Lịch sử tố tụng chứng minh, sự hình thành và phát triển của quyền bào
chữa thể hiện sự đòi hỏi khách quan của nhu cầu được bảo vệ quyền lợi chính
đáng của cá nhân người bị buộc tội trước sự cáo buộc của Nhà nước. Suy cho
cùng, một bản án công minh, đúng người, đúng tội là kết quả mong chờ nhất
của các bên tham gia vụ án. Tất nhiên, đây phải là kết quả của một quá trình
tố tụng công bằng, nơi mà quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ án
được xem xét một cách khách quan và chính xác3. Chính vì vậy, việc ghi nhận
quyền bào chữa trong hầu hết các Điều ước quốc tế về quyền con người
không nằm ngoài mong muốn bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội. Tinh thần chung của các điều ước quốc về quyền con người
liên quan đến đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội thể hiện ở hai
bình diện: một là, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và người
bào chữa của họ; hai là, nhấn mạnh trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm cho người bị buộc tội những điều kiện cần thiết để thực hiện quyền của
mình. Tố tụng hình sự là một dạng hoạt động đặc thù của Nhà nước nhằm giải
quyết vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, trong đó có những người bị buộc tội4. Tuy nhiên, trong tố
tụng hình sự, sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người bị
buộc tội có thể tước bỏ hay hạn chế một số quyền tự do thân thể hay các
quyền khác của họ. Ở khía cạnh bảo vệ quyền con người, những người bị
buộc tội phải có quyền chứng minh là mình vô tội cũng như có quyền đưa ra
những chứng cứ và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quyền này gọi
3


Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), Quyền có người bào chữa trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ,
NXB. Chính trị Quốc Gia – Sự thật, Hà Nội, tr34
4
Phạm Hồng Hải (2010), Vai trò của Luật sư – Người bào chữa – Thực trạng và những giải pháp nhằm
nâng cao tranh tụng trong tố tụng hình sự, 12 – 2010


10

là quyền bào chữa, trường hợp họ không thể tự mình thực hiện quyền bào
chữa thì họ có thể nhờ người khác bào chữa cho mình. Đây là những định
hướng cơ bản mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ và tôn trọng. Trong
pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội là một trong những điều kiện đảm bảo công bằng trong tố
tụng hình sự. Cho dù cách thức tìm kiếm sự thật vụ án là khác nhau giữa các
mô hình tố tụng nhưng mục đích chung nhất của tố tụng hình sự không chỉ là
trừng phạt người phạm tội mà là tìm ra đúng người thực hiện tội phạm.
Quyền bào chữa - một trong những quyền quan trọng nhất của người bị
buộc tội, cũng là quyền Hiến định rất quan trọng, được quy định tại tất cả các
bản Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định quyền tự bào
chữa tại Điều 67: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư”.
Sau đó, những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định nội dung này. Cụ thể, tại
Hiến pháp năm 1959 quy định tại Điều 101 như sau: “Quyền bào chữa của
người bị cáo được bảo đảm”. Tiếp đến, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 tiếp
tục khẳng định quyền bào chữa được bảo đảm (Điều 133 - Hiến pháp 1980 và
Điều 132 - Hiến pháp 1992). Như vậy, từ Hiến pháp năm 1946 đến 1992 đều
chỉ ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo – người bị tình nghi phạm tội. Sự tình
nghi phạm tội này đã được cơ quan điều tra chứng minh xong, hồ sơ điều tra

đã chuyển sang Viện Kiểm sát và Viện Kiểm sát đã đồng tình với kết quả điều
tra và truy tố người này bằng bản cáo trạng5. Kế thừa các bản Hiến pháp
trước, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn về quyền bào chữa, về nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đương sự được bảo đảm, cụ thể tại các Điều 31 và Điều 103.
5

Trương Hồ Hải, Lê Thị Oanh (2014), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều luật trong Bộ luật tố tụng
hình sụ 2003 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và bị hại tại phiên tòa hình sự theo tinh thần
Hiến pháp 2013, tr 85-95, Kỷ yếu Hội thảo Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam,
An Giang 30/5/2014


11

Quyền bào chữa hình thành cùng lịch sử tố tụng hình sự, ở đâu có hoạt
động buộc tội thì ở đó phát sinh quyền gỡ tội – Quyền bào chữa. Ở một góc
độ nào đó, quyền bào chữa là phương tiện cho nhu cầu minh oan của con
người6. Trong Tuyên ngôn về Nhân quyền của Liên hợp quốc đã ghi nhận:
“Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho
đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử
công khai, nơi người đó được đảm bảo những điều kiện cần thiết để bào chữa
cho mình”7. Điều 14 Khoản 3 Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chính trị
năm 1966 quy định: “Trong quá trình xét xử một tội hình sự, mọi người đều
có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo
đảm tối thiểu sau đây: …. Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa
hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông
báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp
pháp lý theo chỉ định trong những trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và
không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả”. Văn

bản pháp lý quốc tế là như vậy nhưng khi nội luật hóa, pháp luật thực định
mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau. Vì thế, xung quanh khái niệm quyền bào chữa, giới khoa học pháp lý
trong và ngoài nước hiện nay vẫn có nhiều quan điểm về vấn đề này.
Các học giả nước ngoài có ý kiến: “Quyền bào chữa là tổng hòa các
hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi
hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can”8. “Bào chữa trong
tố tụng hình sự không chỉ là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới việc bác
bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm mà còn là tổng hòa các mối quan
hệ tố tụng nhằm tới mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc tội tốt hơn
6

Hoàng Văn Dũng (2016), Mối quan hệ giữa quyền bào chữa và cơ chế minh oan truy cập ngày 14/6/2016
7
Điều 11.1 Tuyển ngôn Nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948
8
M.X Xtrôgôvích: “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Vô Viết”, tập 1, Nxb Khoa học, M-1968, tr, 196 (trích từ
Phạm Hồng Hải, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, NXB. Công an Nhân dân, tr14)


12

và bảo đảm các quyền và lợi ích của người đó trong vụ án”9. Cũng theo xu
hướng này, có ý kiến cho rằng: “Trong tố tụng hình sự, bị can, người bị tình
nghi cũng như những công dân khác, trong đó có cả người bị hại đều cần có
sự bảo vệ các lợi ích thể bị xâm phạm”10. Điều 47 BLTTHS Liên Bang Nga
quy định: “Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi nhận được quyết
định khởi tố bị can, trong trường hợp người bị tình nghi thực hiện tội phạm bị
tạm giữ hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trước khi khởi tố bị can

thì từ khi nhận được biên bản về việc bắt hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam”11. Còn theo BLTTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về
người bị tình nghi hoặc bị cáo, theo đó: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể
lựa chọn luật sư bất kì lúc nào”12.
Ở Việt Nam, quá trình phát triển của giới khoa học pháp lý những năm
vừa qua cho thấy, đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà khoa học
pháp lý cũng như những cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật. Có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền bào chữa là là tổng hòa các
hành vi tố tụng đối với việc bác bỏ và xác định bị can không có lỗi hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm của bị can13.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền bào chữa được hiểu rộng hơn,
nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có
lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả
việc bảo đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi

9

Ph.N.Phatkulin: “Buộc tội và bào chữa trong vụ án hình sự” Nxb Đại học tổng hợp Cadan, C-1976, tr 110
(trích từ Phạm Hồng Hải, tlđd chú thích 13, tr16)
10
Ph.N.Phatkulin: “Buộc tội và bào chữa trong vụ án hình sự” Nxb Đại học tổng hợp Cadan, C-1976, tr 111
(trích từ Phạm Hồng Hải, tlđd chú thích 13, tr16)
11
Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga, truy cập
ngày 10/2/2016
12
Mô hình tố tụng hình sự Nhật Bản truy cập 10/2/2016
13
Phạm Hồng Hải (1999), Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,

tr14


13

chúng không trực tiếp liên quan đến việc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can
trong vụ án14.
Hiểu quyền bào chữa theo hai quan điểm trên là chưa đầy đủ, bởi nếu
cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can thì quá hẹp. Khái niệm bị can chỉ
tồn tại từ khi có quyết đinh khởi tố bị can đến thời điểm Tòa án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, họ tham gia tố
tụng với tư cách bị cáo. Nói cách khác, theo theo hai quan điểm trên thì từ khi
tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, người bị buộc tội sẽ không còn quyền bào
chữa. Thực tiễn xét xử chứng minh, ở giai đoạn này, quyền bào chữa mới
được thể hiện một cách rõ nét nhất, vì họ được bình đẳng, công khai đưa ra
những lý lẽ, chứng cứ, được tham gia tranh luận tại phiên tòa… để thanh
minh và bác bỏ lời buộc tội đối với mình. Bên cạnh đó, các bản Hiến pháp
của nước ta từ trước tới nay đều ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo, do đó
nếu chỉ bó hẹp phạm vi chủ thể của quyền bào chữa thuộc về bị can là trái với
các quy định của Hiến pháp cũng như các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
tổng thể các quyền mà pháp luật quy định, cho phép bị can, bị cáo có thể sử
dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự

(15)

. Chưa nói đến nội dung của quan điểm thứ ba, theo ý kiến


của người viết, phạm vi chủ thể nếu chỉ đề cập đến bị can, bị cáo là chưa đầy
đủ. Bởi lẽ, ngoài bị can, bị cáo là những người đang bị buộc tội bởi các quyết
định pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những đối tượng khác như
người bị tạm giữ, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt do
phạm tội quả tang... vẫn cần được bảo vệ, cụ thể là quy định cho họ có quyền
bào chữa, bởi dù ít hay nhiều, những đối tượng này vẫn bị giới hạn một phần

14

Phạm Hồng Hải, tlđd chú thích 13, tr18
Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr14
15


14

các quyền tự do cơ bản của con người, thậm chí trong nhiều trường hợp,
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi một bộ phận cán bộ đại diện cho
quyền lực nhà nước.
- Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền bào chữa là tất cả các quyền mà
pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Một cách cụ thể hơn, quyền bào chữa được quy định nhằm bảo đảm cho
người bị buộc tội trình bày quan điểm của mình đối với việc buộc tội, đưa ra
các chứng cứ cần thiết, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình tiết
minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định pháp
luật16. Người viết đồng tình với quan điểm thứ tư, bởi lẽ quyền bào chữa là
quyền tố tụng xuất hiện trên cơ sở thực hiện một trong những chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự, chỉ thuộc về người bị buộc tội. Bào chữa cần gắn liền
với buộc tội, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa17, bởi vì “có buộc tội mà

không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết
buộc chứ không phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận
là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào
chữa…18”. Dù ở bất kì mô hình tố tụng nào, hoạt động tố tụng hình sự về cơ
bản đều là tổng hợp các hoạt động thực hiện ba chức năng cơ bản của tố tụng
hình sự: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Ba
chức năng này có mối quan hệ gắn bó với nhau không thể tách rời và tố tụng
hình sự chỉ được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội có đối trọng là
chức năng bào chữa và sự đối trọng đó phải được bảo đảm. Sự đối trọng của
chức năng bào chữa đối với hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng buộc
tội chính là yếu tố hạn chế sai lầm, hạn chế làm oan người vô tội, góp phần
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự
được dân chủ, khách quan. Suy cho cùng, mục tiêu quan trọng nhất mà bào
16

Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB.Công an nhân dân, tr48
Nguyễn Văn Tuân (2015), Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, tr 37
18
Tôn Thiện Phương, “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong BLTTHS 2015”, Tạp chí kiểm sát số 10
(tháng 5/2015), tr 43
17


15

chữa hướng đến là nhằm chống lại sự buộc tội, minh oan hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong
tố tụng hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Quyền bào chữa là tổng thể
các quyền của người bị buộc tội được pháp luật ghi nhận vào bảo đảm thực

hiện thông qua việc sử dụng các lý lẽ, chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh sự
vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Về khái niệm người bị buộc tội, theo quy định tại Điều 6 Công ước
Châu Âu về quyền con người (European Convention on Human Rights –
ECHR), sự buộc tội chỉ xuất hiện khi một người bị cáo buộc là anh ta đã thực
hiện một hành vi mà bộ luật hình sự coi là tội. Qua thực tiễn xét xử của các
Thẩm phán Châu Âu, sự buộc tội được coi là hiện hữu từ thời điểm một người
được thông báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về những chứng cứ rõ
ràng cho rằng (nghi vấn) anh ta đã thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: lệnh bắt,
lệnh khám xét nhà…). Kể từ thời điểm đó, một người bị coi là người bị buộc
tội trong vụ án hình sự. Sự buộc tội sẽ tồn tại và kéo dài trong suốt quá trình
tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo buộc là có tội hay không có
tội19. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều
14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm
1966 đều có quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán
là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình
tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự
bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. Điều đó có nghĩa một
người sẽ không bị coi là có tội nếu không bị kết án bởi một Tòa án hợp pháp.
Tức là, một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án

19

Lương Thị Mỹ Quỳnh, Bảo đảm quyền của người bị buộc tội theo Điều 6 Công ước Châu Âu về quyền con
người, truy cập
ngày 15/4/2016


16


đã có hiệu lực pháp luật. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ người phạm tội
(tội phạm) và người bị buộc tội không giống nhau. Người phạm tội dùng để
chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành
vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ người phạm tội chỉ một
thực tế khách quan là một người đã thực hiện tội phạm chứ không phải tùy
thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan áp dụng pháp luật. Còn người
bị buộc tội mới chỉ là người bị tình nghi về việc thực hiện những hành vi có
dấu hiệu của tội phạm. Trách nhiệm hình sự chỉ bắt đầu khi bản án kết tội bị
cáo có hiệu lực pháp luật chứ không phải từ thời điểm có quyết định tạm giữ.
Người bị buộc tội không phải là người phạm tội và đây là tình trạng pháp lý
khách quan của họ, do vậy đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, xã hội và
mọi người phải nhìn nhận và đối xử với họ như là người không phạm tội. Đây
là nghĩa vụ pháp lý, trừ một số hạn chế nhất định mà pháp luật cho phép áp
dụng với những người này như các biện pháp ngăn chặn, còn các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của họ vẫn phải được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Pháp
luật nghiêm cấm đối xử với người bị buộc tội như là người phạm tội khi mà
chưa có bản án của tòa án kết tội người đó đã có hiệu lực pháp luật. Tình
trạng này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố
tụng và không cản trở hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Các cơ quan
tiến hành tố tụng có quyền có chính kiến của mình về lỗi của người bị buộc
tội, nhưng phải thể hiện chính kiến của mình trong nguyên tắc suy đoán vô
tội. Suy đoán vô được thừa nhận cho đến khi có bản án kết tội của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, chỉ có tòa án mới có quyền tuyên bố
một người là người có phạm tội. Đây là một trong những bảo đảm quan trọng
đối với quyền con người của người bị buộc tội. Bởi lẽ, Tòa án thực hiện chức
năng xét xử với những nguyên tắc dân chủ, công khai tại phiên tòa theo trình
tự tố tụng chặt chẽ được pháp luật quy định. Việc truy cứu trách nhiệm hình
sự và kết tội người nào đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong đó

bao hàm cả những bảo đảm pháp lý để sao cho trách nhiệm hình sự được áp


17

dụng với người phạm tội đích thực và phù hợp với mức độ lỗi của người đó.
Suy đoán vô tội có nghĩa là lỗi của người bị buộc tội phải được chứng minh
một cách thuyết phục tại phiên tòa. Việc nghi ngờ người phạm tội là chưa đủ,
việc khởi tố hình sự với người đó cũng chưa đủ. Chừng nào những chứng cứ
buộc tội đối với người bị buộc tội chưa được chứng minh trước phiên tòa và
chưa được hội đồng xét xử thừa nhận thì chừng đó, người bị buộc tội vẫn là
người không phạm tội. Trong giới khoa học pháp lý Việt Nam, theo quan
điểm của TS. Nguyễn Quang Hiền, người bị buộc tội “chưa” phải là người có
tội những cũng không phải là không phạm tội, họ mới chỉ là người bị tình
nghi về việc thực hiện những hành vi có dấu hiệu của tội phạm, trách nhiệm
hình sự chỉ bắt đầu khi bản án kết tội bị cáo có hiệu lực pháp luật chứ không
phải từ thời điểm có quyết định tạm giữ20. Dưới góc độ bảo vệ quyền con
người, căn cứ vào địa vị pháp lý đặc thù của những người bị buộc tội là người
tham gia tố tụng hình sự “yếu thế” hơn cả, bị mất đi một số quyền mà pháp
luật quy định, họ cũng có thể bị áp dụng một số biện pháp cưỡng chế và hoàn
toàn khó có khả năng bình đẳng với các bên buộc tội. Vì vậy, những người bị
buộc tội là những người có khả năng bị tổn thương các quyền con người trong
tố tụng hình sự nhất khi tham gia tố tụng hình sự. Như vậy, có thể hiểu, về
bản chất, người bị buộc tội là những người bị tình nghi thực hiện tội phạm và
bị áp dụng các biện pháp tố tụng, kể cả những biện pháp có tính chất hạn chế
quyền và tự do để xác minh tội phạm và người phạm tội21. Ở mỗi quốc gia,
tên gọi và phạm vi những chủ thể được coi là người bị buộc tội không giống
nhau. Tại Liên Bang Nga, người bị buộc tội bao gồm bị can và người bị tình
nghi phạm tội, điều này được thể hiện rõ tại Điều 14 BLTTHS Liên Bang Nga
năm 2001. Còn theo pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung

20

Nguyễn Quang Hiền, Quy định nguyên tắc suy đoán không phạm tội để bảo vệ quyền con người của người
bị buộc tội, Nguồn Tạp chí nghiên cứu lập pháp, truy cập ngày
15/4/2016
21
Hồ Sỹ Sơn, “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật”,
Tạp chí luật học số 1/2011, tr.42


18

Hoa, người bị buộc tội bao gồm nghi can và bị cáo (Điều 43 BLTTHS năm
1979, sửa đổi bổ sung năm 1996)22. Ở Việt Nam, BLTTHS năm 1988 quy
định chủ thể của quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo. Đến BLTTHS
năm 2003 chủ thể của quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà
còn thuộc về người bị tạm giữ. Người bị tạm giữ tuy chưa bị buộc tội bằng
một văn bản có tính chất pháp lý nhưng họ đã bị nghi ngờ là phạm tội và đối
với họ đã có quyết định tạm giữ, đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng là
tạm giữ (bị hạn chế quyền tự do về thân thể). Đến Hiến pháp 2013, phạm vi
chủ thể của quyền bào chữa một lần nữa lại được mở rộng tại khoản 4 Điều
31. Theo đó, quyền bào chữa thuộc về người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (gọi chung là người bị buộc tội). Đến
BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo (điểm đ, khoản 1 Điều 4)23. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp
2013 và BLTHHS năm 2015, ngay từ khi bị bắt, người bị buộc tội đã có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho mình.
Người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa trong các giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong đó, việc thực hiện quyền bào chữa ở giai

đoạn xét xử vụ án hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng. Tại phiên tòa, trên cơ
sở những chứng cứ đã được kiểm tra công khai, tòa án ra bản án xác định bị
cáo có tội hay không có tội. Nếu bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội
thì đó là tội gì, được quy định tại điều khoản nào của BLHS. Ngoài việc ra
bản án, Tòa án còn có quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm giải quyết
vụ án. Theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án và quyết định
của Tòa án sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật. Trong thời hạn luật định, nếu bản án, quyết định không bị kháng cáo,
22

Lê Văn Sua, Nguyên tắc suy đoán vô tội và vấn đề bảo đảm thực thi trong hoạt động tố tụng hình sự,
truy cập ngày 12/5/2016
23
BLTTHS năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/11/2015
nhưng chưa có hiệu lực thi hành


19

kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì
vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Việc quy định hai cấp xét xử tạo điều kiện
để Viện kiểm sát, người bị buộc tội, những người tham gia tố tụng có điều
kiện thể hiện rõ thái độ không nhất trí của mình đối với việc xét xử của Tòa
án, đảm bảo vụ án được xét xử đúng đắn và chính xác hơn, nâng cao chất
lượng xét xử của Tòa án, đảm bảo lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng,
đồng thời tránh tình trạng vụ án được xét xử quá nhiều cấp, kéo dài quá trình
tố tụng và đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ do Viện kiểm sát
chuyển sang cho đến khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Đây là giai
đoạn mà tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn

điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thông qua
việc xét hỏi và tranh luận, làm cơ sở để Tòa án đưa ra những phán quyết
khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Trong giai đoạn này, Tòa án
thực hiện chức năng xét xử, áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự
sang Tòa án, nhằm loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm
hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó
(khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án24. Đây là giai đoạn
tố tụng có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Theo đó, Tòa án xem xét và giải
quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm. Trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành giải

24

GS.TSKH Nguyễn Cảm, Mốt số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng
/>8006&article_details=1 truy cập ngày 3/4/2016


20

quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án, quyết định việc bị cáo có phạm tội
hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác căn cứ vào
những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng. Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra
xét xử theo trình tự sơ thẩm, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ theo quy định của pháp

luật. Hoạt động xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa giúp cho
Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của
vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng.
Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai đoạn
xét xử góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn
trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác25. Trong giai đoạn
này, chủ thể xét xử là Tòa án, thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bên
cạnh Tòa án, tham gia giai đoạn xét xử còn có Kiểm sát viên giữ vai trò thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, quyết định truy tố
người phạm tội trước Tòa án và những người tiến hành tố tụng (bị cáo, người
bào chữa, người làm chứng, người đại diện hợp pháp v.v…). Giai đoạn xét xử
cũng là giai đoạn có đầy đủ cả ba hoạt động tố tụng: buộc tội, gỡ tội (bào
chữa), xét xử, được điều chỉnh bởi nhiều nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự. Bên cạnh những nguyên tắc bao trùm xuyên suốt các giai đoạn tố
tụng như nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…, giai đoạn
xét xử cũng chịu chi phối của một số nguyên tắc mang tính đặc thù. Trước
hết, có thể kể tới nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
25

Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, tr346


×