Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng thực tiễn tại tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 82 trang )

PHẠM VĂN GIANG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TỪ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

PHẠM VĂN GIANG

2014 - 2016


HÀ NỘI - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TỪ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

PHẠM VĂN GIANG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh


HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu trong các bản biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình. Viện Đại học Mở Hà Nội không liên quan đến những vi
phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Văn Giang


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô đã trực tiếp
giảng dạy, tư vấn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh đã tận tình chỉ

bảo, giúp đỡ, định hướng và trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình hình thành và hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa sau Đại học, các khoa và các phòng ban của Viện
Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi được hoàn thành khóa học và hoàn thành
luận văn này.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, dù đã có rất nhiều cố gắng
nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quí thầy, quí cô
cùng các anh, chị và bạn bè quan tâm góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Văn Giang


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu viết tắt

Nội dung cụ thể

1

BVNTD

Bảo vệ người tiêu dùng

2


NTD

Người tiêu dùng

3

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………….………………………..…1
2. Tình hình nghiên cứu………………………………………………………….......2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………….……...3
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................4
6. Kết cấu của luận văn................................................................................................4
CHƯƠNG 1: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH................................................................................................ ........................5

1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và các thiết chế bảo vệ
người tiêu dùng ở Việt Nam ..................................................................................5
1.1.1. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam.......................5
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng..................................................................5
1.1.1.2. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam...............6
1.1.2. Khái quát các thiết chế bảo vệ người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam...13

1.1.2.1. Khái niệm thiết chế bảo vệ người tiêu dùng.....................................13
1.1.2.2. Các thiết chế bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam............................15
1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng…....................................................................19


1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu
dùng.....................................................................................................................................19

1.2.2. Nội dung cơ bản của địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ người tiêu dùng............................................................................................................20
1.2.2.1. Chức năng và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
người tiêu dùng ở Trung ương trong việc bảo vệ người tiêu dùng................................20
1.2.2.2. Chức năng và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
người tiêu dùng ở địa phương trong việc bảo vệ người tiêu dùng............................25
1.3. Kinh nghiệm bảo vệ người tiêu dùng của cơ quan nhà nước ở một số nước
trên thế giới..............................................................................................................29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG...........................35
2.1. Đặc thù trong việc bảo vệ người tiêu dùng ở tỉnh Hải Dương………..........35
2.2. Chức năng và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người
tiêu dùng ở tỉnh Hải Dương trong việc bảo vệ người tiêu dùng............................36
2.2.1. Trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương...............36
2.2.2. Trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở Hải Dương..39
2.2.3. Trách nhiệm, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở Hải Dương........40
2.3. Đánh giá thực tiễn hoạt động của cơ quan nhà nước về bảo vệ người tiêu
dùng tại tỉnh Hải Dương.........................................................................................41
2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh
Hải Dương...............................................................................................................41
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh

Hải Dương...............................................................................................................48
2.3.3. Những thuận lợi, khó khăn trong công tác bảo vệ người tiêu dùng...........53
2.3.3.1. Thuận lợi...........................................................................................53


2.3.3.2. Khó khăn...........................................................................................54
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM VÀ Ở TỈNH HẢI DƯƠNG...........................56
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng.............................................................................56
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về
bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam và ở tỉnh Hải Dương...................................58
3.2.1. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam...........................................................58
3.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng ở tỉnh Hải Dương................................................60
3.2.3. Kiến nghị và đề xuất.......................................................................................64
3.2.3.1. Với Chính phủ và bộ, ngành Trung ương.........................................64
3.2.3.2. Với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương................................66
KẾT LUẬN..............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................71



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và mở cửa thị
trường, vì vậy người tiêu dùng (NTD) ngày càng có thêm nhiều cơ hội lựa chọn
hàng hóa và dịch vụ nhưng đồng thời cũng đối mặt với nhiều rủi ro từ nguy cơ sử

dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu an toàn, không đạt tiêu chuẩn, đặc biệt là thực phẩm,
mỹ phẩm, dược phẩm. Ngày càng có thêm nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng bị phát hiện. Hiện trạng đó cho thấy, quyền lợi của người tiêu dùng Việt
Nam nói chung và người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng đang bị
xâm phạm nghiêm trọng. Tuy vậy, nhiều người tiêu dùng hiện nay chưa biết đến các
quyền và nghĩa vụ của mình nên khi quyền lợi bị xâm phạm họ không biết cách để
tự bảo vệ mình. Đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa dịch vụ, trong
nhiều trường họp đã vì mục tiêu lợi nhuận mà bỏ qua nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và
trách nhiệm xã hội của mình.
Trong bối cảnh đó, sự hiện diện của chính sách pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng nói chung và hệ thống các quy định của pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng nói riêng, với ý nghĩa là rào chắn an toàn cho những thỏa thuận
không công bằng hoặc sự áp đảo của một bên là vô cùng quan trọng và cần thiết, về
lâu dài, việc thực thi những quy định pháp luật nói trên không chỉ mang lại lợi ích
cho cộng đồng người tiêu dùng, tức là toàn thể nhân dân Việt Nam, mà còn góp
phần thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế, hướng
tới xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ NTD được Đảng, Nhà nước coi là một trong
những vấn đề quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền
vững của đất nước. Chính vì vậy, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo vệ người tiêu dùng được đánh giá là nhanh
và đồng bộ so với nhiều hệ thống văn bản pháp luật khác, góp phần tạo một hành
lang pháp lý vững chắc cho hoạt động bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam.

1


Mặt khác, để đảm bảo hệ thống các quy định pháp luật nêu trên được thực
thi nghiêm chỉnh và thống nhất trên thực tế, Việt Nam cũng đã thừa nhận sự hiện
diện của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, trong đó có hệ

thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng từ Trung ương đến
địa phương, giữ chức năng thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng.
Các phân tích trên cũng chính là lý do để tôi lựa chọn đề tài "Địa vị pháp lý
của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng từ thực tiễn tại tỉnh Hải
Dương" cho Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành mới ra
đời và có hiệu lực trong một thời gian ngắn, vì vậy việc nghiên cứu vai trò của cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam nói chung và Hải
Dương nói riêng chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Quá trình tìm hiểu tình
hình nghiên cứu của đề tài "Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
người tiêu dùng từ thực tiễn tại tỉnh Hải Dương", qua tìm hiểu và nghiên cứu, tôi
nhận thấy đến nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan, đó là:
- "Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam, đề tài khoa học cấp bộ như Bộ Tư pháp, Viện Khoa
học pháp lý do Đinh Thị Mai Phương làm chủ nhiệm đề tài năm 2008.

- "Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam”, đề tài khoa học cấp bộ của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp do PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm đề tài năm 2014.

- "Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ
quan nhà nước tại Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn
Hoàng Mỹ Linh, do TS. Phan Chí Hiếu hướng dẫn năm 2014.

- "Trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, bài
viết trên Tạp chí Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội, số 12/2008 của tác giả
Nguyễn Đức Minh.

2



Có thể thấy, các bài viết nêu trên đã nghiên cứu một số khía cạnh liên quan
về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về địa vị pháp
lý trong thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương. Vì
vậy, có thể khẳng định, đề tài này là một đề tài có tính mới, mang tính thực tiễn cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản pháp luật hiện hành quy định về
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng và thực trạng pháp luật về vai trò
của cơ quan này trong việc bảo vệ người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài trong giới hạn một đề tài luận văn thạc sĩ luật
học, đề tài không có tham vọng nghiên cứu tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế
ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
mà chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam nói chung và tại Hải Dương
nói riêng cũng như thực tiễn việc thực thi các nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng của
các cơ quan này tại tỉnh Hải Dương.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo
vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương, qua đó góp phần đẩy mạnh công tác bảo vệ
người tiêu dùng tại địa phương. Để đạt được mục tiêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam.
+ Nghiên cứu những quy định của pháp luật về trách nhiệm, quyền hạn của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương.
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương trong việc bảo vệ người tiêu dùng.
+ Đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động của cơ


3


quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng, qua đó nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu, trong khi
thực hiện đề tài, em đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu khoa học như
phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng để khái
quát các quy định của pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
bảo vệ người tiêu dùng.
- Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê để tổng
hợp các số liệu liên quan để Luận văn có sức thuyết phục, mang lại ý nghĩa cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Luận văn tiến hành phỏng vấn một số
người tiêu dùng và cán bộ thuộc các cơ quan có liên quan đến hoạt động bảo vệ
người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Hải Dương để đánh giá thực trạng hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương1: Địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
người tiêu dùng tại tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam và ở tỉnh Hải Dương.


4


CHƯƠNG 1

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
1.1. Khái quát về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và các thiết chế bảo vệ
người tiêu dùng ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Dưới góc độ kinh tế, người tiêu dùng là một khái niệm chỉ những chủ thể tiêu
thụ của cải được tạo ra bởi nền kinh tế. NTD là người mua nhưng khác với việc
mua nguyên liệu hoặc mua hàng để bán lại, họ là những người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cuối cùng và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua việc sử dụng đó. Dưới
giác độ này, khái niệm NTD khác xa so với khái niệm người mua hàng. Khái niệm
người mua hàng rộng hơn so với khái niệm NTD, người mua hàng là bất cứ ai mua
hàng hóa, dịch vụ nhằm bất cứ mục đích gì. Dưới giác độ kinh tế, NTD là mọi chủ
thể (cá nhân, tổ chức) tiêu thụ hàng hóa cho mục đích tiêu dùng không phải cho
mục đích kinh doanh kiếm lời.
Dưới giác độ pháp lý, việc xác định chủ thể nào là NTD rất quan trọng vì đó là
đối tượng được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD. Khái niệm NTD chỉ xuất hiện
với tư cách là chủ thể pháp luật từ khi lĩnh vực pháp luật về bảo vệ NTD ra đời.
Theo pháp luật bảo vệ NTD, NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với chủ thể
luật dân sự khác trong các giao dịch với thương nhân bán hàng hóa, dịch vụ. Sở dĩ,
NTD được ưu tiên so với thương nhân trong quan hệ tiêu dùng bởi họ có nhiều yếu
thế hơn như thiếu thông tin về hàng hóa, dịch vụ, yếu về khả năng đàm phán khi
giao kết hợp đồng, yếu về khả năng chịu rủi ro phát sinh trong quá trình tiêu dùng.

Bởi vậy, dưới giác độ pháp lý việc xác định chủ thể nào là NTD và là đối tượng
được bảo vệ của pháp luật bảo vệ NTD có vai trò vô cùng quan trọng.

5


Luật pháp của đa số các nước trên thế giới quy định, NTD chỉ là các cá nhân
và không coi tổ chức là NTD. Các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức
tham gia mặc dù đối tượng của giao dịch là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng sẽ được bảo
vệ theo pháp luật hợp đồng chứ không được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD.
Ở Việt Nam, khái niệm NTD được thừa nhận trong Pháp lệnh bảo vệ quyền
lợi NTD năm 1999 và tiếp tục ghi nhận trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm
2010. Hai văn bản pháp luật này đều quy định: “NTD là người mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Như vậy có thể thấy, so với pháp luật của nhiều nước trên thế giới thì đối
tượng được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam có sự mở rộng hơn.
Ngoài đối tượng là các cá nhân được pháp luật bảo vệ như thông lệ quốc tế, pháp
luật Việt Nam còn coi các tổ chức cũng là NTD khi tổ chức đó mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng.
1.1.1.2. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam
Pháp luật bảo vệ NTD là một bộ phận cấu thành của chính sách bảo vệ quyền lợi
NTD, được kết hợp đồng thời với các biện pháp tổ chức như tuyên truyền, giáo dục
nhằm nâng cao hiểu biết và khả năng tự bảo vệ của NTD cũng như nâng cao trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Tuy vậy, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD với nội
dung là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa NTD và các thương nhân khi
NTD mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng. So với các công cụ
khác trong chính sách bảo vệ quyền lợi NTD thì pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD luôn
đóng vai trò chủ đạo trong chính sách bảo vệ NTD, bởi chỉ có pháp luật mới là chỗ dựa
vững chắc và ổn định cho đối tượng được bảo vệ. Các biện pháp không mang tính pháp
lý như giáo dục, tư vấn hay khuyến khích thường bị chi phối bởi địa vị xã hội và điều

kiện kinh tế của các nhóm lợi ích khác nhau mà trong trường hợp này là NTD và các
doanh nghiệp, sự hợp tác và cạnh tranh giữa họ sẽ thường xuyên bất bình đẳng. Khi đó,
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là rào chắn an toàn cho những thỏa thuận không công
bằng hoặc sự áp đảo của một bên.
Ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1986, hầu như không có văn bản pháp lý
nào liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD. Bởi lẽ, hoàn cảnh đất nước vừa trải qua

6


những cuộc chiến tranh khốc liệt và một thời kì phục hồi sau chiến tranh, trong bối
cảnh đó mọi nguồn lực đều tập trung cho sự nghiệp giành độc lập, bảo vệ Tổ Quốc
và xây dựng đất nước nên nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm ở mức tối thiểu, họ
không quan tâm đến việc phải bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, thời kì này cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung được duy trì, Nhà nước kiểm soát toàn bộ các
yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như
phân phối sản phẩm nên NTD yên tâm về chất lượng hàng hóa và không có nhiều
sự lựa chọn.
Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Kết quả của bước chuyển mình này là hàng
hóa, dịch vụ được sản xuất ở Việt Nam đã trở nên phong phú hơn thời kì trước năm
1986, NTD bước đầu có quyền được lựa chọn những sản phẩm phù hợp nhất với nhu
cầu và túi tiền của mình thay vì buộc phải mua tem phiếu như trước kia, nhưng đồng
thời cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro từ việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ
thiếu an toàn, chất lượng kém do mặt trái của kinh tế thị trường đem lại.
Vào những năm 90 của thế kỉ 20, khi Việt Nam bắt đầu chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được áp dụng đã khuyến
khích các thành phần kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh do đó người tiêu

dùng có điều kiện tốt hơn trong việc lựa chọn và sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinh tế thị trường đem lại, bản thân nó
cũng làm nẩy sinh không ít những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng cũng như gây bất ổn cho nền kinh tế và cho xã hội.
Hàng giả, hàng nhái hiện diện khá nhiều, hiện tượng thương nhân cân, đo sai tương
đối phổ biến… Do đó, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm, chú ý tới công tác bảo vệ
quyền lợi NTD và được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
NTD được Ủy ban thường vụ quốc hội thông qua ngày 27/4/1999. Có thể nói, ở
nước ta công tác bảo vệ NTD chỉ được biết đến từ khi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
NTD được ban hành. Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh bảo vệ NTD, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 69/2001/ND-CP của Chính phủ ngày 2/10/2001 quy định chi

7


tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD và sau đó Nghị định này được thay
thế bởi Nghị định 55/2008/ND-CP ngày 24/4/2008.
Các quy định trong hai văn bản pháp luật nói trên đã trực tiếp bảo vệ quyền
lợi NTD ở các khía cạnh như: Đưa ra định nghĩa về NTD; Quy định các quyền và
trách nhiệm của NTD; Quy định hệ thống các nghĩa vụ của nhà sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ; Quy định cơ chế khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng
khi bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp; Quy định các biện pháp xử lí vi phạm
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD; Quy định trách nhiệm quản lí nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ
người tiêu dùng; Quy định về các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD trong đó
ghi nhận vai trò của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NTD .
Trước khi, Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010) được ban hành, bên cạnh Pháp
lệnh bảo vệ quyền lợi NTD và Nghị định số 55/2008/ND-CP quy định trực tiếp việc
bảo vệ quyền lợi NTD, pháp luật Việt Nam giai đoạn đó cũng đã có nhiều văn bản

chứa đựng quy phạm gián tiếp liên quan đến hoạt động bảo vệ NTD. Các văn bản
pháp luật trong nhóm này quy định những vấn đề sau: Ghi nhận các nguyên tắc
chung về bảo vệ quyền lợi NTD được thể hiện trong Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự
2005; quy định chung về kiểm soát sự gia nhập thị trường và điều tiết hoạt động
trên thị trường của các thương nhân trong Luật doanh nghiệp 2005; Luật đầu tư
2005; Luật thương mại 2005; Luật cạnh tranh 2004; Pháp lệnh giá; Pháp lệnh quảng
cáo 2003; Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kĩ thuật 2006; Luật chất lượng sản phẩm,
hàng hóa 2007; Pháp lệnh đo lường 1999; các quy định về nhãn hàng hóa; các quy
định điều tiết ngành, kiểm soát sự gia nhập thị trường và hoạt động trên thị trường
của thương nhân trong từng chuyên ngành (như y tế, thực phẩm, giao thông, xây
dựng, du lịch, ngân hàng, chứng khoán, bưu chính viễn thông) được quy định trong
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989; Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân 2003;
Luật dược 2005; Luật kinh doanh bảo hiểm 2000; Luật các tổ chức tín dụng 1997;
Luật điện lực 2004; Pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2000 (được thay thế bằng luật
bưu chính…); Luật chứng khoán 2006; Luật du lịch 2005, Luật Viễn thông 2009.

8


Sau hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD và các văn bản
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này đã cơ bản đi vào cuộc sống; tạo lập hành lang
pháp lý để NTD tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nâng cao trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; tạo cơ sở pháp lý để
các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của NTD. Tuy nhiên,
trong quá trình thi hành, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản
có liên quan đến công tác bảo vệ NTD đã bộc lộ một số hạn chế như: Các quy định
về quyền, trách nhiệm của người tiêu dùng cũng như trách nhiệm của thương nhân
còn chung chung, chưa cụ thể rõ ràng khó thực thi trong thực tế; chưa có quy định
nhằm khôi phục lợi ích cho NTD cũng như chưa có quy định thừa nhận yêu cầu bảo
vệ đặc biệt đối với NTD; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

trong công tác bảo vệ NTD còn hạn chế; chưa tạo ra cơ chế hữu hiệu giúp các tổ
chức bảo vệ NTD hoạt động có hiệu quả; hệ thống chế tài áp dụng đối với các hành
vi vi phạm quyền lợi NTD còn bất hợp lý…
Để công tác bảo vệ người tiêu dùng thực sự có hiệu quả khắc phục tình trạng
thương nhân xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng ngày càng tăng cả về số
lượng, quy mô, phạm vi lẫn mức độ vi phạm, Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12
ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội đã đưa việc xây dựng Luật Bảo vệ quyền
lợi NTD vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009. Ngày 07 tháng 01
năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 25/QD-TTg phân công, Bộ
Công Thương là cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Luật bảo vệ quyền lợi NTD quy định những vấn đề nhằm trực tiếp bảo vệ
NTD mà chưa được quy định trong các văn bản pháp luật khác còn hiệu lực.
Ngày 17/11/2010, Luật bảo vệ quyền lợi NTD với 6 chương và 51 điều đã
được Quốc hội khóa 12 kì họp thứ 8 thông qua và có hiệu lực từ 1/7/2011. Kể từ
ngày này, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999 hết hiệu lực thi hành.
Để hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những văn bản sau:
- Nghị định 99/2011/ ND-CP ngày 27/10/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi NTD.

9


- Nghị định 19/2012/ND-CP ngày 16/3/2012 quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD (nay được thay thế bởi Nghị định
185/2013/NĐ-CP).
- Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/11/2013 quy định xử
phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng
cấm và bảo vệ quyền lợi NTD.
- Nghị định số 124/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/11/2015 sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/11/2013 quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD.
- Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 về việc ban hành Danh
mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng kí hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung.
- Quyết định số 35/2015/QĐ-TTG ngày 20/08/2015 của Thủ tướng Chính phủ
về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 về việc
ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng kí hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung.
- Quyết định số 1035/QĐ-TTg ngày 10/7/2015 của Thủ tướng chính phủ về
Ngày Quyền của NTD Việt Nam.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
này đã quy định những vấn đề chủ yếu sau:
- Điều 1 Luật bảo vệ quyền lợi NTD tiếp tục kế thừa định nghĩa về người tiêu
dùng quy định trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999. Theo đó, NTD được
xác định là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của mình.
- Luật đã quy định rõ các hành vi bị cấm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi
NTD. Cụ thể là: Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không được thực
hiện các hành vi sau: Lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho NTD thông qua hoạt động
quảng cáo hoặc che dấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch không chính xác

10


về hàng hóa, dịch vụ, về uy tín khả năng kinh doanh của mình; quấy rối NTD thông
qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng hoặc có hành vi
gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt bình thường của NTD; ép buộc
NTD giao dịch với mình khi NTD gặp hoàn cảnh khó khăn hoặc dùng vũ lực, đe

dọa dùng vũ lực gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của NTD; yêu cầu
NTD thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không thỏa thuận trước với
NTD; cung cấp hàng hóa không đảm bảo chất lượng khi NTD gặp khó khăn hoặc
gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD. Ngoài ra, Luật cũng cấm
người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi NTD, tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi của NTD để xâm
phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
- Quy định hệ thống trách nhiệm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đối với NTD, bao gồm: Trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin về hàng
hóa, dịch vụ cho NTD của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và của
bên thứ ba; trách nhiệm đối với hợp đồng giao kết giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh
với NTD (đặc biệt là đối với hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung);
trách nhiệm sau các giao dịch với NTD như: Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện; trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật; trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra.
- Quy định cơ chế giải quyết tranh chấp giữa NTD và tổ chức kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ khi người tiêu dùng bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp. Theo
đó, phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh giữa NTD và tổ chức cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ có thể gồm: Thương lượng; hòa giải; trọng tài và tòa án.
So với các văn bản pháp luật trước đây về bảo vệ quyền lợi NTD, Luật bảo vệ
quyền lợi NTD đã bổ sung một số quy định mới. Cụ thể là: Luật bổ sung thêm
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; khiếu kiện của người tiêu dùng
đưa đến tòa có thể áp dụng thủ tục đơn giản; NTD khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền lợi của mình không phải nộp tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí tòa án.
- Quy định các biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD. Chế
tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD được

11



quy định tại Điều 11 của Luật bảo vệ quyền lợi NTD. Theo đó, cá nhân kinh doanh
có thể bị xử lý chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự. Tổ chức kinh
doanh có thể bị xử lý chế tài hành chính, chế tài dân sư. Cá nhân lợi dụng chức vụ
quyền hạn vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD thì tùy theo tính chất và mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực bảo vệ NTD, chế tài
hành chính được áp dụng phổ biến nhất. Hiện nay, các biện pháp xử lý hành chính
đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD được quy định chủ yếu tại Nghị định
19/2012/ND-CP của Chính phủ.
- Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD. Theo đó,
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD, Bộ Công thương
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
NTD, Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền
lợi NTD, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD tại địa phương.

- Quy định vai trò, vị trí của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD đã xác định các tổ chức xã hội đều có trách nhiệm tham
gia vào công tác bảo vệ NTD chứ không phải chỉ có tổ chức bảo vệ NTD nói riêng
mới là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD như quy định tại Nghị định
55/2008/ND-CP. Theo đó, vai trò của tổ chức xã hội nói chung và vai trò của Hội
bảo vệ NTD nói riêng trong việc bảo vệ NTD đã được nâng cao hơn trước.
Như vậy, một trong những nội dung quan trọng của pháp luật bảo vệ NTD là
đã xác định các thiết chế quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD. Các cơ quan,
tổ chức này sẽ là chủ thể tham gia vào quá trình đưa pháp luật bảo vệ NTD vào thực
tiễn, để quyền lợi của NTD thực sự được đảm bảo.

12



1.1.2. Khái quát các thiết chế bảo vệ người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm thiết chế bảo vệ người tiêu dùng
Quan hệ giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là
một loại quan hệ dân sự phổ biến trong đời sống xã hội. Như vậy có nghĩa chúng
phải được thiết lập, thực hiện và bảo vệ theo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự như: Tự do thỏa thuận; bình đẳng; thiện chí và trung thực; tôn trọng đạo đức
tốt đẹp; tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác... Tuy nhiên, giữa các chủ thể này thường không tồn tại sự bình
đằng một cách tuyệt đối trên thực tế, trong đó NTD sẽ ở vào vị trí “yếu thế” hơn, do
sự hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng
cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Bởi vậy, sự hiện diện của pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD nói chung và những cơ quan, tổ chức đóng vai trò bảo vệ quyền lợi
NTD nói riêng là góp phần tạo lập và giữ gìn sự bình đẳng, hỗ trợ NTD khắc phục
tính “yếu thế” này trong quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Hiện nay, giới
nghiên cứu về pháp luật bảo vệ NTD ở Việt Nam vẫn sử dụng nhiều thuật ngữ khác
nhau để gọi những cơ quan, tổ chức đảm nhiệm vai trò bảo vệ quyền lợi NTD. Có
nhà nghiên cứu gọi những tổ chức này là “thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền
lợi NTD”, có nhà nghiên cứu lại gọi những tổ chức này “thiết chế thực thi pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng” hay “ thiết chế bảo vệ người tiêu dùng”. Tuy nhiên, dù có
sử dụng thuật ngữ nào thì vẫn không thể phủ nhận rằng, Luật bảo vệ quyền lợi NTD
2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã ghi nhận sự hiện diện của các
cơ quan, tổ chức đảm nhiệm vai trò bảo vệ quyền lợi NTD, bao gồm 3 nhóm cơ
quan là: Các cơ quan quản lý nhà nước (như Bộ Công thương; các Bộ, cơ quan
ngang Bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp); các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp
giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh và tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền
lợi NTD.
Như vậy, từ thực tiễn pháp luật hiện hành ở Việt Nam, có thể đưa ra khái

13



niệm thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD như sau: “Thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD là
các cơ quan, tổ chức có chức năng giải quyết hoặc trực tiếp hỗ trợ giải quyết các
yêu cầu bảo vệ quyền lợi của NTD” [26].
Ở Việt Nam, hệ thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD cũng đã hình thành và
có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD. Cụ thể là:
Thứ nhất, bảo đảm cho các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
được tuân thủ.
Các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD là rào chắn an toàn cho
những thỏa thuận không công bằng hoặc sự áp đảo của một bên, vì vậy là bộ phận
quan trọng, giữ vai trò trung tâm, chủ đạo trong chính sách bảo vệ quyền lợi NTD
của cả quốc gia. Tuy vậy, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD của các
chủ thể tham gia thị trường trên thực tế, bao gồm cả các chủ thể sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ và NTD không phải lúc nào cũng đúng, mặc dù những chủ
thể này có thể biết hoặc không biết. Vì vậy, sự hiện diện của các thiết chế bảo vệ
NTD sẽ đóng vai trò thực thi những quy định, quy tắc ấy.
Thứ hai, là địa chỉ mà khi NTD cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm hại có thể
đến để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ và tìm kiếm sự bảo vệ quyền lợi của mình.
Vụ việc con ruồi trong chai nước ngọt của công ty Tân Hiệp Phát thời gian
qua là minh chứng rõ nhất cho vai trò của thiết chế thực bảo vệ quyền lợi NTD. Nếu
NTD trong trường hợp này có được sự tư vấn, hỗ trợ giải quyết yêu cầu bảo vệ
quyền lợi hợp pháp từ các tổ chức xã hội tham gia BVNTD thì có lẽ không phải
chịu mức án 7 năm tù giam vì hành vi “Cưỡng đoạt tài sản”. Khi quyền và lợi ích
của NTD bị nhà sản xuất, kinh doanh xâm hại một cách trái pháp luật, NTD có thể
tiếp cận với Tòa án (khởi kiện trước Tòa án) hoặc tiếp cận với các hội bảo vệ NTD,
với Cục quản lý cạnh tranh và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác để
được tư vấn, hỗ trợ và tìm kiếm sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình [20].
Thứ ba, là thiết chế giám sát sự vận hành của thị trường, giám sát cách ứng
xử của các nhà sản xuất, kinh doanh.

Các thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD tại Việt Nam thường xuyên tiến hành

14


các hoạt động mang tính chất giám sát hành vi của thương nhân khi cung ứng hàng
hóa, dịch vụ cho NTD, kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh chống các hành vi vi phạm
pháp luật trên thị trường nội địa (như sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng, hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng...), thông qua đó nhằm theo
dõi việc thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, phát hiện những hành vi vi
phạm, những bất cập trong hệ thống chính sách và pháp luật để có các biện pháp
ngăn chặn, giải quyết, kiến nghị sửa đổi và bổ sung, đáp ứng kịp thời những yêu
cầu, đòi hỏi của đời sống tiêu dùng hàng ngày.
1.1.2.2. Các thiết chế bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam
Theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi NTD và các văn bản pháp luật có
liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD, các thiết chế bảo vệ NTD quan trọng nhất
đang tồn tại ở Việt Nam là: Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD, các tổ chức
xã hội (đặc biệt là hội bảo vệ quyền lợi NTD) và hệ thống tòa án.
* Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dung
Các cơ quan quản lý nhà nước là chủ thể giữ vai trò chủ đạo trong cả hệ
thống thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD, bởi lẽ chủ thể này là đơn vị có trách nhiệm
xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách của nhà nước, trong đó có chính sách
bảo vệ quyền lợi NTD, chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan khác tiến hành các
hoạt động trong phạm vi quyền hạn của mình nhằm bảo đảm cho quyền lợi NTD
được thực thi trên thực tế. Hơn nữa, trong bối cảnh ở Việt Nam, hoạt động của các
tổ chức xã hội bảo vệ NTD còn rất mờ nhạt, nhận thức của xã hội về vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD vẫn hạn chế, thì vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo
vệ quyền lợi NTD lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Hiện nay ở Việt Nam, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo
vệ quyền lợi NTD được ghi nhận trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010, thông qua

quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD. Cụ thể, Điều
47 Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo
vệ quyền lợi NTD được phân công và phân cấp cho nhiều cơ quan nhà nước cùng
tham gia:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.

15


- Bộ Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
- Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Công thương về bảo vệ quyền lợi NTD.
- UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD tại địa phương.
Có thể nói, mô hình hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
NTD như thiết kế của Luật bảo vệ quyền lợi NTD là mô hình phi tập trung (trách
nhiệm không bị quy tụ duy nhất vào một cơ quan hoặc một hệ thống cơ quan có tính
khép kín) nhưng không phân tán. Mô hình này được xây dựng trên nhận thức rằng
việc bảo vệ quyền lợi NTD là công việc rộng lớn, phức tạp mà không một cơ quan
nào tự mình có thể đủ sức đảm nhiệm. Mô hình này có ưu điểm nổi bật là độ “phủ
sóng” lớn, khả năng huy động lực lượng để thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi
NTD cao. Tuy nhiên, mô hình phi tập trung bao giờ cũng nó khuyết tật nội tại của
nó. Khuyết tật ấy thể hiện rõ nhất là khả năng xảy ra sự chồng lấn về thẩm quyền
hoặc khả năng đùn đẩy trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ chung. Đây là
đặc điểm quan trọng của mô hình phi tập trung trong việc bảo vệ NTD mà khi cụ
thể hóa mô hình cũng như khi vận hành, thực hiện các chủ thể có liên quan cần hết
sức lưu ý để khắc phục.
* Hệ thống tòa án
Bên cạnh các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD như đã

trình bày ở trên, Tòa án cũng tham gia vào quá trình thực thi pháp luật về bảo vệ
quyền lợi NTD tại Việt Nam, với chức năng là áp dụng các quy định của pháp luật
hợp đồng và pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm phục hồi những
lợi ích mà NTD đáng lẽ ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ quyền lợi NTD. Các cơ quan quản lý nhà nước không có chức năng này.
Ở nước ta không có Tòa án chuyên trách về bảo vệ NTD, các vụ kiện đòi bồi
thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi NTD được xếp vào loại vụ kiện
dân sự và Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc nếu có đơn khởi kiện của NTD. Trình
tự, thủ tục khởi kiện bảo vệ quyền lợi NTD được áp dụng theo trình tự chung mà Bộ

16


×