Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TÊN ĐỀ TÀI:
“ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

1


HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN TRỌNG CHÍNH

HÀ NỘI - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH –

2


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN



NGUYỄN TRỌNG CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ HV: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ HỒNG
YẾN

HÀ NỘI - 2016

3


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tơi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa được cơng bố trong các cơng
trình nghiên cứu khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Trọng Chính

4


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Vũ Thị Hồng Yến
hướng dẫn tận tâm và nhiệt tình để tơi hồn thành


là người đã

luận văn này.

Tơi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô Khoa Sau đại học - Viện
Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và truyền thụ những kiến thức quý báu trong
suốt thời gian học làm nền tảng cho tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các tác giả của các cơng trình nghiên
cứu khoa học, các bài viết bổ ích làm nguồn tài liệu tham khảo mà tơi sử dụng trong
luận văn của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Trọng Chính

5


Mục lục
Danh mục

Trang

MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài và tính cấp thiết của việc nghiên cứu

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Phương pháp luận - phương pháp nghiên cứu

3

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3

5. Phạm vi nghiên cứu đề tài

4

6. Kết cấu của luận văn

4
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC
CỦA HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ HẬU
QUẢ PHÁP LÝ

6

1.1. Hợp đồng và những đặc thù của hợp đồng trong hoạt động kinh
doanh


6

1.1.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh hợp đồng bằng pháp
luật

6

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

12

1.2. Vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh

17

1.2.1. Nhận thức chung về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

17

1.2.2. Vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh

20

1.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong hoạt động kinh doanh

31


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

36

Chương 2

38

6


ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
theo pháp luật Việt Nam

38

2.1.1. Người tham gia giao kết hợp đồng có năng lực hành vi

38

2.1.2. Mục đích và nội dung của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
không trái pháp luật, đạo đức xã hội

48

2.1.3. Người tham gia giao kết hợp đồng hồn tồn tự nguyện


52

2.2. Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực trong trường hợp
pháp luật có quy định

54

2.3. Nhận xét đối với quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh và thực tiễn áp dụng

60

2.3.1. Một số nhận xét đối với quy định của pháp luật về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

60

2.3.2. Một số vấn đề từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doan cần
nghiên cứu giải quyết

65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

70
Chương 3

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỂ
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT

ĐỘNG KINH DOANH VI PHẠM CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

72

3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh vi phạm các điều kiện có hiệu lực
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

72

3.3. Những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

73

3.3.1. Hoàn thiện lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hoạt

73

7


động kinh doanh và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do không
tuân thủ quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
3.3.2. Những đề xuất cụ thể trong việc hoàn thiện pháp luật về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

76


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

84
KẾT LUẬN

85

Danh mục tài liệu tham khảo

88

8


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Hợp đồng là một chế định quan trọng trong pháp luật của bất kỳ một quốc
gia nào. Bởi vì dường như cuộc sống được cấu thành nên từ vơ vàn "hợp đồng", có
thể nói bất kỳ hành động nào của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày cũng đều tạo
ra các hợp đồng - mà trong đó phần lớn là các hợp đồng trong hoạt động kinh
doanh. Chính vì sự phổ biến của hợp đồng trong cuộc sống hàng ngày, để đảm bảo
cho sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của phần đông cộng đồng, Nhà
nước đã lập ra hành lang pháp lý để các "hợp đồng" có hiệu lực và đưa ra các biện
pháp cưỡng chế nhà nước nếu có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ của một bên trong
hợp đồng. Chính vì vậy, các quy định về điều kiện để hợp đồng có hiệu lực ra đời.
Nghiên cứu về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh không thể không
nghiên cứu đến các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh doanh. Đây
cũng là một yếu tố quan trọng mà các bên tham gia giao kết hợp đồng phải lưu tâm
vì một lẽ, nếu hợp đồng nào vi phạm vào một trong những nội dung theo quy định

của luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thì sẽ vơ
hiệu. Việc vơ hiệu này có thể vơ hiệu về hình thức, vơ hiệu về nội dung, vơ hiệu
tồn bộ hoặc vô hiệu một phần. Tuy nhiên, cho dù trong trường hợp vơ hiệu nào đi
chăng nữa thì ý chí mong muốn giao kết hoặc thực hiện hợp đồng giữa các bên sẽ bị
cản trở. Trong những trường hợp này quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ
hợp đồng sẽ không được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh là
một vấn đề lý luận quan trọng đối với bất kỳ ai khi nghiên cứu về hợp đồng. Trên
thực tế trong các giao dịch thương mại hiện nay vẫn tồn tại rất nhiều trường hợp
hợp đồng vô hiệu, không đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như ý chí
mong muốn của các bên khi tham giao kết hợp đồng. Như vậy, phải chăng giữa
cuộc sống và các quy định của pháp luật vẫn cịn một khoảng cách khơng phải là
nhỏ. Chính vì lẽ đó, cần nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm

9


rút ngắn khoảng cách thực tế và quy định pháp luật, nhằm làm giảm việc giao kết
hợp đồng vi phạm quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động
kinh doanh, dẫn đến vô hiệu hợp đồng trong thực tế, từ đó đảm bảo quyền lợi cho
các bên khi tham gia hợp đồng.
Vấn đề mà tác giả đề cập trong luận văn này cũng đã được nghiên cứu trong
một số cơng trình khoa học trước đây. Tuy nhiên, tác giả cũng mong đưa đến được
một cách tiếp cận mới đối với vấn đề "Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh - những vấn đề lý luận và thực tiễn" theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam là một trong những chế định hết sức quan
trọng nhằm điều chỉnh một sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên về nhiều lĩnh vực

khác nhau. Văn bản pháp luật được biết và sử dụng nhiều nhất trong việc điều chỉnh
quan hệ hợp đồng là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, tuy nhiên do sự thay đổi
của tình hình trước yêu cầu đổi mới và hội nhập văn bản pháp luật này đã bị hủy bỏ.
Thay vào đó quan hệ hợp đồng đã được điều chỉnh bằng văn bản luật có giá trị pháp
lý cao hơn là Bộ luật dân sự và một số văn bản pháp luật có liên quan như Luật
thương mại, Luật đầu tư... nhằm tạo ra một sự thống nhất trong việc điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự.
Hiện nay, Việt Nam đang trên đà hội nhập nền kinh tế tồn cầu, q trình hội
nhập mở ra nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng khơng ít thách
thức, địi hỏi phải có sự chặt chẽ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Trước những đòi hỏi khách quan của các
doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, những năm gần đây đã có một số cơng
trình khoa học và có rất nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề hợp đồng, cụ thể là:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Dạ Như Ngọc - Khoa Luật Trường Đại học
Cần Thơ về “Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại: Lý luận, pháp luật
và thực tiễn tài phán” năm 2009; Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Hải Hưng Trường Đại học Luật Hà Nội về “Đổi mới sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng

10


trong Bộ Luật Dân sự 2005” năm 2006; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Minh
Chiến - Trường Đại học Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong
kinh doanh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2003; bài viết “Đặc trưng
pháp lí của hợp đồng dân sự” của tác giả Đinh Văn Thanh - Tạp chí Luật học số 2
năm 1999; bài viết “Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự 2005 số
3(215)/2006 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; bài viết Hợp đồng - thuật ngữ và khái
niệm số 8 (2006) - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật …
Ở một số cơng trình cũng đề cập đến vấn đề có hiệu lực của hợp đồng như:
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Nhường về “Điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng dân sự” năm 2009. Các cơng trình nghiên cứu trên đã có nội dung

nghiên cứu về hợp đồng với những góc độ, khía cạnh khác nhau và là tài liệu vơ
cùng q báu giúp tác giả có thêm thơng tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên
cứu luận văn, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.
3. Phương pháp luận - phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, luận văn sẽ dựa trên phương pháp
luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin để nghiên cứu, tìm hiểu mối liên hệ của vấn đề nghiên cứu đối với các hiện
tượng xã hội khác nằm trong mối liên hệ biện chứng và lịch sử. Đồng thời tác giả
cũng sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: phân tích,
tổng hợp, logic, thống kê, so sánh để làm rõ bản chất cũng như thấy được sự phát
triển của chế định này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về hợp
đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thực tế áp
dụng quy định pháp luật về điều kiện có hiệu của hợp đồng trong hoạt động kinh
doanh. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật,
đảm bảo tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp, giảm "độ
chênh" giữa pháp luật và đời sống thực tiễn, làm cho pháp luật không chỉ đảm bảo

11


quyền lợi của các bên đương sự tham gia hợp đồng mà cịn thực sự là cơng cụ pháp
lý thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của kinh tế xã hội.
Với mục đích nêu trên, việc nghiên cứu, hồn thiện luận văn này nhằm hoàn
thành các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định riêng về hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật.
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở pháp luật và thực tiễn của hợp đồng

cũng như các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh
doanh.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế, tác giả
tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật (theo nghĩa hẹp) về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, (không nghiên cứu tổng thể
chung về hợp đồng) và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Từ đó làm sáng tỏ thêm
lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.
Qua nội dung của đề tài tác giả sẽ cố gắng đưa ra các kiến nghị nhằm hồn
thiện các quy định pháp luật cịn chưa đầy đủ hoặc còn vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của điều kiện có hiệu lực hợp đồng trong hoạt động
kinh doanh và hậu quả pháp lý.
Chương 2: Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các
tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và phương hướng hồn thiện.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC
CỦA HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ

1.1. Hợp đồng và những đặc thù của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
1.1.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh hợp đồng bằng pháp luật
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dầy lịch sử. Ngay từ
khi xã hội lồi người có sự phân cơng lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng
hóa, thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các
quan hệ tài sản. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp và có hiệu quả trong việc
bảo đảm sự vận động theo quy luật hàng hóa - tiền tệ. Ngày nay phần lớn các quan
hệ xã hội được điều chỉnh bằng các hợp đồng. Điều này xuất phát từ việc pháp luật
hiện đại thừa nhận quyền bình đẳng của con người trước pháp luật và quyền tự do
cá nhân. Vai trị và vị trí của chế định hợp đồng ngày càng được khẳng định trong
mọi hệ thống pháp luật. "Kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định
hợp đồng càng được coi trọng, càng được hoàn thiện" [24, tr. 34].
Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, pháp luật về hợp đồng trong Bộ
luật dân sự, Luật Thương mại giữ một vị trí vơ cùng quan trọng. Vai trị của chế
định hợp đồng là quy định làm căn cứ để giải thích rõ nội dung của các phần mà các
bên thể hiện chưa rõ, hay bổ sung những phần mà các bên chưa xác định trong hợp
đồng được các bên giao kết. Đồng thời các quy định về hợp đồng còn có chức năng
hướng dẫn cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng biết được quyền và nghĩa vụ
của mình trong quan hệ đó và những nội dung cơ bản mà các bên cần thỏa thuận
trong các hình thức hợp đồng cụ thể. Vai trò trung tâm của hợp đồng trong hệ thống
pháp luật không phải ngẫu nhiên, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi
dịch vụ, hàng hóa... phải được tự do chuyển dịch thì vai trò của chế định hợp đồng
được thể hiện lớn hơn, bởi lẽ trong các quan hệ hợp đồng thì ý chí của các bên
13


mang tính quyết định. Về ngun tắc, pháp luật tơn trọng ý chí của các bên và chỉ
can thiệp trong các trường hợp mà ở đó cần có sự giới hạn của pháp luật. Ở hầu hết
các hệ thống pháp luật trên thế giới, hợp đồng được thừa nhận về mặt pháp lý khi
đáp ứng các yêu cầu sau:

Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia
ký kết.
Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xã hội. Trong đời sống
xã hội để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt tiêu dùng hoặc trong sản xuất, kinh
doanh thì dường như mọi hoạt động của con người đều hướng tới việc ký kết hợp
đồng. Nói cách khác hợp đồng là cơng cụ pháp lý để các chủ thể có thể thỏa mãn
các nhu cầu chính đáng của mình trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt tiêu dùng.
Hợp đồng thể hiện sự bình đẳng giữa những người tham gia hợp đồng và thừa nhận
quyền tự do cam kết, thỏa thuận của họ.
Hợp đồng luôn gắn liền với sự tự do thể hiện ý chí của các chủ thể. Tự do ý
chí trong giao kết hợp đồng được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Pháp từ thế
kỷ XVIII. Lúc đầu nó được coi là ngun tắc độc tơn ý chí. Nguyên tắc này cho
phép các cá nhân được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng, khẳng định
quyền của mỗi cá nhân khi tham gia vào giao dịch và chỉ phụ thuộc vào chính họ
mà khơng phụ thuộc vào pháp luật. Ý chí của họ được thể hiện một cách độc lập và
xuất phát từ lợi ích cá nhân. Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng nếu các cá
nhân tự do giao kết thì sẽ đảm bảo được sự công bằng trong quan hệ hợp đồng.
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng đưa đến một hệ quả là hợp đồng khi được ký
kết thì có giá trị bắt buộc thực hiện. Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể thực
hiện bởi sự thỏa thuận của các chủ thể hợp đồng và không ai có quyền can thiệp vào
quan hệ của họ cũng như khơng có quyền làm thay đổi ý chí của họ.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển của hợp đồng cho thấy quan điểm tự do một
cách tuyệt đối như trên đã không tồn tại được lâu và càng ngày đã bộc lộ sự bất bình
đẳng trong giao kết hợp đồng. Trên thực tế, ý nghĩa của nguyên tắc này chỉ mang
tình hình thức mà thơi. Khi nói đến hợp đồng ta hiểu các chủ thể trong đó bình đẳng

14


về quyền và nghĩa vụ. Thế nhưng, thực tiễn cho thấy các bên ký kết hợp đồng

thường không ngang bằng nhau, mà có một bên mạnh hơn và một bên yếu hơn về
kinh tế. Do đó, trên thực tế khơng có sự tự do kí kết hợp đồng, mà thường là một
bên phải phụ thuộc vào ý chí của bên kia chứ khơng thể hiện ý chí chung của các
bên bằng việc thông qua hợp đồng đã được thảo sẵn của một bên mạnh hơn về kinh
tế. Như vậy, hợp đồng đã khơng cịn mang đúng ý nghĩa của nó mà là phương tiện
pháp lý để một bên mạnh hơn áp đặt bên yếu hơn về kinh tế. Có khơng ít trường
hợp trên thực tế hợp đồng khơng cịn thuần túy là kết quả của sự thể hiện ý chí
chung của các bên nữa mà trở thành hình thức biểu hiện của sự bất bình đẳng giữa
các bên với nhau. Chính vì lẽ đó địi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước đến các
quan hệ này. Công cụ can thiệp của Nhà nước sử dụng là pháp luật và chế định hợp
đồng vì thế giữ một vị trí rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng. Ở Việt Nam, sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn
trong quan hệ hợp đồng đã được thể hiện ngay ở Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950:
"Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của
hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vơ hiệu" (Điều 13 Sắc lệnh 97/SL).
Ngày nay để bảo vệ quyền lợi cho "bên yếu thế" khoản 8, Điều 409, Bộ luật dân sự
quy định về giải thích hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại như sau:
"Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng những nội dung bất lợi cho bên
yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế".
Để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn trong quan hệ hợp đồng, lý thuyết về
hợp đồng của một số nước đã đưa ra khái niệm lạm dụng, ngay tình và cơng bằng.
Điển hình là pháp luật của các nước Pháp, Đức, Nhật, Việt Nam... đã ghi nhận
nguyên tắc này trong Bộ luật dân sự của mình.
Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về quan điểm đề cao lợi ích cá nhân sang
lợi ích xã hội đã làm cho quan điểm về các nguyên tắc này thay đổi.
Nguyên tắc ngay tình được áp dụng nhằm làm giảm nhẹ hiệu lực bắt buộc của
hợp đồng. Thực ra rất khó để định nghĩa thế nào là ngay tình. Đầu tiên, người ta nhìn
nhận ngay tình như nghĩa vụ trung thực, nghĩa là người có nghĩa vụ bắt buộc phải thực

15



hiện hợp đồng một cách trung thực, còn đối với người có quyền thì khơng được cản trở
người có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Dần dần, qua thực tiễn người ta cho rằng nếu
chỉ hiểu ngay tình là trung thực thì chưa đủ và khái niệm ngay tình cịn được hiểu là
nghĩa vụ hợp tác giữa các bên. Nghĩa vụ hợp tác giữa các bên thể hiện ở việc các bên
phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho nhau để thực hiện hợp đồng. Ngun tắc ngay
tình khơng chỉ được áp dụng trong quá trình thực hiện hợp đồng mà cịn được áp dụng
trong cả q trình hình thành hợp đồng. Ngun tắc ngay tình khơng chỉ nhằm bảo vệ
bên yếu trong hợp đồng mà còn nhằm lập lại sự bình đẳng giữa các bên trong hợp
đồng.
Khái niệm lạm dụng được hình thành ở Pháp vào những năm 70. Xuất phát
từ sự mất cân đối trong hợp đồng có nguyên nhân từ việc một bên là những thương
gia đơn phương soạn thảo hợp đồng và đối tác thường là những người tiêu dùng
phải tham gia hợp đồng mà khơng có sự thể hiện ý chí chung hoặc thỏa thuận các
điều khoản cụ thể về nội dung. Lúc đó nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng và
hủy bỏ các điều khoản lạm dụng và nhằm bảo vệ bên yếu hơn trong hợp đồng mà
các nhà lập pháp đã đưa vào luật khái niệm lạm dụng. Có hai tiêu chí xác định có sự
lạm dụng là sự lạm dụng thế mạnh kinh tế để áp đặt các điều khoản của hợp đồng
và sự lạm dụng đem lại lợi ích thái quá cho một bên chủ thể. Dù bằng cách này hay
cách khác thì chế định hợp đồng ở mỗi quốc gia khác nhau đều hướng tới việc tạo
ra sự bình đẳng có thể có được giữa các bên giao kết hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng phải là sự tập hợp những cam kết được pháp luật thừa
nhận, ủng hộ và đứng ra bảo vệ.
Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết, song sự tự
do đó phải giới hạn trong khn khổ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ bảo vệ
các cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự công cộng. Xuất phát từ
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá
nhân và các chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật
của các nước quy định rằng các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng,

miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc hình thành các hạn chế của

16


nguyên tắc tự do trong kí kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm bảo vệ trật tự và lợi
ích cơng cộng. Vì vậy, pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của các bên kí kết hợp
đồng, song các quyền và lợi ích này khơng được xâm hại đến trật tự và lợi ích cơng
cộng.
Thứ ba, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết sức linh hoạt,
uyển chuyển. Điều này không dễ dàng đạt được nếu như các quy định pháp luật
không được xây dựng theo dạng "mềm", tức là xác định các nguyên tắc cơ bản và
coi các cam kết trong hợp đồng không đơn thuần là các chứng cứ. Vấn đề này, hiện
đang có hai xu hướng luật trái ngược nhau. Một là, xu hướng đơn giản hóa các quy
tắc, giảm bớt số lượng và sự phức tạp của những điều luật mang tính chung và có
kết cấu mạch lạc hơn, hợp lý hơn, dễ hiểu hơn. Hai là, xu hướng làm cho luật phong
phú hơn bằng nhiều chi tiết rõ ràng. Pháp luật về hợp đồng của các nước theo hệ
thống luật án lệ được xây dựng theo hướng hai. Do sử dụng án lệ nên luật pháp của
các nước này dễ dàng thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, nó mang
tính linh hoạt và cập nhật. Pháp luật về hợp đồng của các nước theo hệ thống pháp
luật văn bản tương đối ổn định và mang tính ràng buộc cao. Tuy nhiên, do thủ tục
ban hành luật rất phức tạp và đòi hỏi nhiều thời gian nên sự thay đổi chúng là rất
khó khăn. Theo hệ thống pháp luật này có một số quốc gia vẫn đồng thời áp dụng
án lệ, các học thuyết pháp lý, mà tiêu biểu là luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp.
Luật được coi là "phần cứng" tương đối ổn định, còn án lệ là "phần mềm" làm
nhiệm vụ bổ sung, cập nhật pháp luật. Vì lẽ đó luật về hợp đồng ở các nước này vừa
mang tính ràng buộc và vừa linh hoạt, uyển chuyển.
Pháp luật nước ta chưa thừa nhận án lệ như một nguồn luật của hợp đồng.
Chính vì vậy việc giải quyết các bất cập của pháp luật là rất khó thực hiện và cũng
vì thế mà việc sửa đổi và bổ sung luật là công việc thường xuyên được đặt ra đối

với nhà làm luật. Hiện nay để giải quyết vấn đề này thơng thường Tịa án tối cao có
các báo cáo chun đề, cơng văn hướng dẫn hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao ban hành các nghị quyết riêng về một vấn đề cụ thể nào đó. Song các
hướng dẫn này nhiều khi vẫn thiếu cụ thể và vì vậy việc đưa ra các phán quyết khác

17


nhau cho các vụ án có nội dung tương tự nhau là việc khơng thể tránh khỏi trong
q trình giải quyết các tranh chấp dân sự liên quan đến vấn để hiệu lực của hợp
đồng ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, thực tiễn luôn thay đổi và rất sinh động, trong khi đó luật lại
tương đối ổn định, vì vậy mâu thuẫn trong điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, đặc
biệt là mâu thuẫn giữa các nguyên tắc của luật hợp đồng truyền thống và thực tiễn
hợp đồng sinh động là không thể tránh khỏi.
Thực tiễn hợp đồng phát triển đưa đến sự phát triển của pháp luật về hợp
đồng theo các hướng:
Một là, phạm vi hiệu lực của hợp đồng được mở rộng do sự xuất hiện các
loại hợp đồng mới. Các loại hợp đồng mới được hình thành bởi nhiều nguyên nhân
khác nhau mà nguyên nhân cơ bản nhất đó là các loại hàng hóa mới, dịch vụ mới
xuất hiện, tự chúng đòi hỏi sự điều chỉnh đặc biệt về mặt pháp lý.
Ví dụ, do kết quả của cách mạng khoa học kĩ thuật mà các thông tin thương
mại có giá trị trở thành đối tượng của hợp đồng. Một nguyên nhân khác nữa đó là sự
xuất hiện các hợp đồng được cấu thành bởi nội dung của hai hay nhiều loại hợp
đồng khác nhau như hợp đồng leasing. Trong nội dung hợp đồng này có sự kết hợp
đặc điểm của hợp đồng thuê tài sản và hợp đồng mua bán. Bên cạnh đó, hợp đồng
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ngày càng hướng tới điều chỉnh các quan hệ
về tổ chức như hợp đồng thành lập các hiệp hội, liên hiệp, thỏa ước dưới mọi hình
thức.
Hai là, một số quan hệ hợp đồng trước kia chỉ do những quy phạm luật dân

sự điều chỉnh nhưng nay lại được điều chỉnh bởi các quy định của ngành luật khác.
Một số loại hợp đồng bị loại ra khỏi lĩnh vực hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại như các thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng thương mại.
Ba là, hợp đồng phải là những ưng thuận, thỏa thuận, cam kết phản ánh sự
thống nhất ý chí thực sự của các bên tham gia hợp đồng.
Đây là một trong những yếu tố cơ bản thiết lập nên hợp đồng của các bên
giao kết. Thiếu nó thì khơng thể coi là có hợp đồng. Nói cách khác, đó phải là sự thể

18


hiện sự ưng thuận, thống nhất ý chí đích thực của các bên có thể và cần phải dẫn
đến việc thừa nhận giá trị pháp lý và hiệu lực của hợp đồng. Nguyên tắc này tồn tại
trong pháp luật về hợp đồng của các nước. Ở Việt Nam, nguyên tắc này được quy
định rõ trong Bộ luật dân sự.
Nguyên tắc tơn trọng ý chí của các bên và xem đó là yếu tố quyết định để
hình thành hợp đồng. Tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực hoạt động, nhất là dịch vụ, ở
đó các giao dịch được thực hiện lặp đi lặp lại giữa một chủ thể (bên cung cấp dịch
vụ) với nhiều chủ thể khác nhau (bên nhận dịch vụ) với đối tượng phục vụ như
nhau. Trong những trường hợp này, hợp đồng thường được bên cung cấp dịch vụ
thảo sẵn (thường gọi là hợp đồng mẫu), bên nhận dịch vụ chỉ có quyền tự do trong
việc quyết định có tham gia vào quan hệ hợp đồng hay không mà khơng có quyền
cùng thảo luận để đưa ra các điều khoản của hợp đồng. Nếu bên được đề nghị giao
kết chấp nhận toàn bộ các điều khoản của hợp đồng theo mẫu và ký thì hợp đồng
được coi là hình thành và ngược lại. Khi tham gia vào quan hệ trên họ buộc phải
tuân theo các điều khoản của hợp đồng đã được bên dịch vụ đưa ra. Những hợp
đồng này được gọi là "hợp đồng gia nhập" hay "hợp đồng theo mẫu".
Ví dụ, hợp đồng vận chuyển hàng hóa giữa doanh nghiệp vận tải đường sắt
với khách hàng, hợp đồng cung cấp điện của các doanh nghiệp điện lực, hợp đồng
giữa ngân hàng và khách hàng trong việc cho vay tín dụng, mở tài khoản… Trong

những trường hợp này, chủ thể cung cấp dịch vụ soạn thảo sẵn hợp đồng gồm
những điều khoản về loại dịch vụ, giá cả, chất lượng, thời gian, địa điểm cung cấp
dịch vụ… còn bên nhận dịch vụ xem xét nếu chấp nhận những nội dung đó thì ký
kết hợp đồng. Như vậy, hợp đồng được ký kết mà không cần hai bên bàn bạc, thỏa
thuận. Một bên (thường là khách hàng) đã mất sự tự do thương thuyết, thỏa thuận là
đặc trưng cơ bản của hợp đồng và phải chấp nhận các điều khoản của đối phương
đưa ra, khơng có sự lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, xét về mặt biểu hiện khách quan
thì ý chí chung được thể hiện thơng qua việc cả hai bên mong muốn tham gia vào
quan hệ hợp đồng và đã chấp nhận giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này sự
thỏa thuận của các bên được hình thành khi một bên chủ thể chấp nhận và quyết

19


định tham gia vào các hợp đồng này với những điều kiện và điều khoản như vậy.
Loại hợp đồng này trên thực tế ngày càng phát triển và giữ một vị trí quan trọng,
song đặt ra các vấn đề là làm thế nào để đảm bảo sự bình đẳng thích hợp giữa các
bên. Trên thực tế, đã xảy ra không ít trường hợp mà ở đó bên gia nhập phải gánh
chịu những tổn thất từ các điều khoản của hợp đồng gia nhập. Để bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng trong trường hợp này khoản 2, Điều 407, Bộ luật dân sự đã quy
định: "Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản khơng rõ ràng thì bên
đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu sự bất lợi khi giải thích điều khoản đó".
Ở các nước, các vấn đề này đã có rất nhiều cuộc bàn cãi, tranh luận. Lúc
đầu người ta chủ yếu chú tâm vào việc làm thế nào để cơng nhận các hợp đồng loại
này có hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên. Xuất phát từ thực tiễn thực hiện các hợp
đồng này đã phát sinh lý luận nhằm làm mất hiệu lực của các điều khoản không phù
hợp. Các ý kiến đã lại tập trung vào ý nghĩa ban đầu của hợp đồng là các điều khoản
của hợp đồng có hiệu lực do ý chí của các bên hợp đồng. Vì vậy, khi người kí hợp
đồng khơng được cung cấp thơng tin nên khơng thể thỏa thuận được hoặc khi ý
nghĩa của các điều khoản hợp đồng vượt quá sự hiểu biết của họ thì hợp đồng khơng

có hiệu lực.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có bản chất của hợp đồng nói
chung, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ trong quan hệ thương mại. Luật Thương mại (2005) được hiểu là luật chuyên
ngành không đưa ra định nghĩa về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, song có
thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở
quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Do vậy, hợp đồng trong kinh doanh,
thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự.
Từ khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực, vấn đề về hợp đồng trong
kinh doanh, thương mại bởi điều chỉnh của pháp luật khơng có sự khác biệt với các
hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô
hiệu,… Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề

20


về hoạt động trong kinh doanh, thương mại được quy định trong pháp luật thương
mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống
về hợp đồng (như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải
quyết tranh chấp hợp đồng...). Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ thương
mại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có những đặc điểm nhất định để nhận
biết và phân biệt với các loại hợp đồng khác.
Về chủ thể: Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được thiết lập giữa các
chủ thể chủ yếu là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ
thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc
thương nhân nước ngồi. Có những quan hệ trong quan hệ hợp đồng trong kinh
doanh, thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (Hợp đồng đại diện cho

thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương
mại...); bên cạnh đó có những hợp đồng kinh doanh, thương mại chỉ cần ít nhất một
bên là thương nhân (hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá
hàng hố, hợp đồng mơi giới thương mại...).
Về hình thức: Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thể được thiết lập
dưới hình thức vàn bản, lời nói hoạc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp
đồng trong kinh doanh, thương mại bằng hình thức vàn bản (Hợp đồng mua bán
hàng hố quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mãi, quảng cáo, hội chợ, triển lãm
thương mại...). Luật Thương mại 2005 cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế
hình thức vàn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình
thức có giá tri tương đương văn bản gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu.
Về mục đích: Mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng kinh doanh,
thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng khơng nhằm mục đích lợi
nhuận, thì hợp đồng được áp dụng Luật Thương mại và khi các bên khơng nhằm
mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật dân sự.

21


Như vậy, thông qua hợp đồng quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể
phát sinh. Hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại là loại hợp đồng phổ
biến trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Thông thường hợp đồng có hai bên tham
gia trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể
(mua bán, cho thuê…) nhưng cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia (hợp
đồng hợp tác - Điều 111 Bộ luật dân sự). Mỗi bên trong hợp đồng (hai hay nhiều
bên) có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong hợp đồng ý chí của một bên
địi hỏi có sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó
mới hình thành được hợp đồng.
Do vậy, khác với hành vi pháp lý đơn phương là sự biểu lộ ý chí "đơn

phương" của một bên, hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại là sự thỏa
thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. "Thỏa thuận" vừa là nguyên tắc tối cao, vừa là đặc trưng của hợp
đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại và được thể hiện trong tất cả các giai
đoạn của quan hệ hợp đồng: từ giao kết đến thực hiện hoặc sửa đổi, chấm dứt hợp
đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Cao hơn nữa là sự thỏa thuận của các
bên còn là một ngoại lệ của nguyên tắc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng: "Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác" (Điều 405, Bộ luật dân sự). Theo quy định
của điều luật này thì nếu hợp đồng được giao kết trong đó có các bên thỏa thuận về
thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng hoặc pháp luật có quy định về điều kiện
phát sinh hiệu lực hợp đồng thì hợp đồng đó chỉ phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia khi sự kiện pháp lý do các bên dự liệu hoặc do quy định của pháp
luật phát sinh.
Ví dụ: Hợp đồng tặng cho có điều kiện, đối với hợp đồng này, nghĩa vụ của
bên này chỉ phát sinh khi bên kia thực hiện điều kiện được đưa ra.
Hình thức của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại rất đa dạng.
Hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại có thể được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản, hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp

22


đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại phải lập bằng văn bản và có cơng
chứng của cơ quan cơng chứng hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền (ví
dụ: hợp đồng mua bán nhà phải có chứng nhận của công chứng hoặc hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng thực của UBND xã hoặc cơng
chứng của cơ quan công chứng …), phải đăng ký hoặc xin phép (ví dụ: đăng ký hợp
đồng thuê nhà tại UBND xã, phường …) thì phải tuân theo các quy định đó. Ngày
nay trong xu thế phát triển của cơng nghệ thơng tin hiện đại, pháp luật cũng thừa

nhận hình thức giao dịch thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp
dữ liệu được coi là hợp đồng bằng văn bản (Điều 124, Bộ luật dân sự). Đối với hình
thức đặc biệt này cịn có văn bản pháp luật chuyên ngành riêng để điều chỉnh.
Khi tiến tiến hành giao dịch điện tử, các chủ thể cũng phải tuân thủ các
nguyên tắc chung của giao kết hợp đồng nhưng có những đặc thù riêng do hình thức
hợp đồng mang tính đặc biệt:
1. Tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch;
2. Tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch
điện tử;
3. Không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch
điện tử;
4. Bảo đảm sự bình đẳng và an tồn trong giao dịch điện tử;
5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích cơng cộng;
6. Giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc
quy định tại Điều 40 của Luật này (Điều 5 Luật giao dịch điện tử).
Hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại được hình thành khi có sự
thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, trong các trường hợp các bên giao kết hợp đồng
gián tiếp thì việc xác định thời điểm hợp đồng được hình thành là rất khó khăn.
Cách tiếp cận các vấn đề này khác nhau ở các nước khác nhau. Một số nước theo
thuyết "ý chí thực sự" trong đó Pháp là một ví dụ. Tuy nhiên, việc xác định ý chí
thực sự chỉ để áp dụng giải thích các điều khoản khơng rõ ràng. Cịn đối với các hợp

23


đồng đã rõ ràng thì các Thẩm phán phải áp dụng các điều khoản của hợp đồng mà
không được giải thích gì thêm. Cịn một số nước theo thuyết "tun bố" ví dụ như
Đức, theo đó thì bất luận ý chí thực sự của chủ thể tham gia hợp đồng là gì người ta
chỉ chú trọng đến ý chí đã tuyên bố trong hợp đồng được coi là căn cứ pháp lý để

xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy vậy, Bộ luật dân sự Đức vẫn quan tâm
tới việc tìm kiếm ý chí thực sự của người ký hợp đồng. Hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại có thể được ký kết trực tiếp hoặc gián tiếp. Pháp luật các
nước khác nhau cũng thừa nhận khác nhau về thời điểm xác định hợp đồng được
giao kết:
+ Các nước theo thuyết tuyên bố: hợp đồng được giao kết kể từ thời điểm
bên chấp nhận tuyên bố chấp nhận bằng thư hay điện tín;
+ Các nước theo thuyết tống phát: Hợp đồng được giao kết kể từ thời điểm
bức thư hay điện tín chấp nhận được gửi đi;
+ Các nước theo thuyết tiếp nhận: Hợp đồng được giao kết kể từ thời điểm
bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được thư hay điện tín chấp nhận;
+ Các nước theo thuyết tống đạt: Hợp đồng được giao kết kể từ thời điểm
khi bên đề nghị giao kết hợp đồng thực sự biết rõ sự chấp nhận ấy.
Như vậy, thời điểm hình thành hợp đồng sẽ khác nhau tùy theo pháp luật
hoặc các bên chấp nhận giải pháp nào theo các lý thuyết trên. Trong các lý thuyết
trên thì thuyết tống đạt ít được áp dụng vì nó địi hỏi bên đề nghị phải biết rõ sự
chấp nhận của bên đề nghị giao kết. Một số nước áp dụng lý thuyết tiếp nhận theo đó
bên đề nghị được coi là xem thư trả lời ngay khi nhận được thư và như vậy hợp đồng
được giao kết và không phụ thuộc vào ý chí của bên này. Lý thuyết này được áp dụng
ở các nước Bắc Âu và Cộng hòa liên bang Đức. Đối với các nước Anh, Mỹ, Nhật Bản
và Cộng hịa Pháp thì áp dụng thuyết tiếp nhận. Ở nước ta, thời điểm hình thành hợp
đồng được xác định tùy theo hình thức và nội dung mà các bên lựa chọn và cam kết.
Đối với các hình thức ký kết hợp đồng thông qua việc gửi văn bản qua lại cho nhau,
pháp luật nước ta chấp nhận lý thuyết tiếp nhận để xác định thời điểm giao kết hợp
đồng.

24


Hợp đồng kinh doanh - thương mại (thường gọi là hợp đồng kinh tế) là hợp

đồng được sử dụng phổ biến trong hoạt động giao dịch thương mại của các thương
nhân. Nội dung của hợp đồng đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng hành
lang pháp lý đảm bảo cho việc mua bán, cung cấp dịch vụ, việc giao thương giữa
thương nhân với nhau được thuận lợi và bền vững. Mục tiêu “tối đa lợi nhuận - tối
thiểu rủi ro” chỉ có thể đạt được khi các giao dịch kinh doanh - thương mại được ký
kết với những điều khoản chặt chẽ, đầy đủ, chính xác, phù hợp với quy định của
pháp luật và đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp. Vì vậy, việc soạn thảo để đảm bảo
tính pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh - thương mại là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, vì hầu hết các tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh là tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng. Do đó, hợp đồng kinh
doanh đóng vai trị là “hòn đá tảng” cho các hoạt động đầu tư và phần lớn các hoạt
động kinh doanh khác của công ty. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ sở tạo thành các yếu tố
liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa các đối tác như nhân lực,
khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách nhiệm.
1.2. Vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động
kinh doanh
1.2.1. Nhận thức chung về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Khi xây dựng pháp luật về hợp đồng, pháp luật các quốc gia đều quan tâm
đến quy định về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về hợp đồng vơ hiệu… để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên và ổn định trật tự lưu thông, ổn định
các quan hệ xã hội. Khi xuất hiện khái niệm hợp đồng thì cũng là lúc xuất hiện khái
niệm hợp đồng có hiệu lực và hợp đồng vơ hiệu. Pháp luật các nước nói chung đều
cơng nhận: "Các thỏa thuận được hình thành một cách hợp pháp là bắt buộc đối với
người làm nên nó" [31, tr. 5]. Chỉ những hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại nói riêng, hợp đồng nói chung mà hợp pháp mới làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu
lực bắt buộc với các bên và được pháp luật bảo hộ. Hợp đồng hợp pháp phải tuân
thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại

25



×