Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản theo quy định của luật bảo hiểm xã hội năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.47 KB, 84 trang )

LƯU THỊ TÂM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM ỐM ĐAU, THAI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
NĂM 2014
2014 - 2016
LƯU THỊ TÂM

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM ỐM ĐAU, THAI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
NĂM 2014

LƯU THỊ TÂM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ:60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐÀO THỊ HẰNG

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các nội dung được
sử dụng trong các nghiên cứu khác đã được trích dẫn đầy đủ và trung thực.
Tác giả luận văn

Lưu Thị Tâm


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đào Thị Hằng đã tận tình
hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các thầy, cô giáo, gia đình và bạn bè đã tạo
điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tác giả luận văn

Lưu Thị Tâm


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản

5

và sự điều chỉnh của pháp luật
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của bảo hiểm ốm đau

5

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm ốm đau

6

1.1.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm ốm đau

8

1.2. Khái niệm, ý nghĩa của bảo hiểm thai sản

10

1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thai sản

10

1.2.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm thai sản

12


1.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với bảo hiểm ốm đau, thai sản

14

1.3.1. Đối tượng hưởng

14

1.3.2. Điều kiện hưởng

18

1.3.3. Thời gian hưởng

21

1.3.4. Mức hưởng

24

Kết luận Chương 1

27

Chương 2: Quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về chế độ

28

bảo hiểm ốm đau, thai sản và thực tiễn thực hiện
2.1. Quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về chế độ bảo hiểm ốm


28

đau và thực tiễn thực hiện
2.1.1. Đối tượng hưởng bảo hiểm ốm đau

28

2.1.2. Chế độ bảo hiểm đối với người lao động bị ốm đau, tai nạn rủi ro

30

2.1.2.1. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau

30

2.1.2.2. Thời gian hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau

32

2.1.2.3. Mức hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau

34

2.1.2.4. Chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe

36

2.1.3. Chế độ bảo hiểm đối với người lao động khi con ốm đau


38

2.2. Quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về chế độ bảo hiểm thai

40

sản và thực tiễn thực hiện
2.2.1. Đối tượng hưởng bảo hiểm thai sản

40


2.2.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản

43

2.2.3. Thời gian hưởng bảo hiểm thai sản

46

2.2.4. Mức trợ cấp thai sản

54

2.2.5. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe

57

Kết luận Chương 2


59

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

60

thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm ốm đau, thai sản
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm ốm

60

đau, thai sản
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật ốm đau, thai sản và

63

nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ ốm đau, thai sản
3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chế độ

63

ốm đau, thai sản
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm

68

ốm đau, thai sản
Kết luận Chương 3

72


KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH:

An sinh xã hội

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BLLĐ:

Bộ luật lao động

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế


NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò là trụ cột chính trong hệ thống pháp luật ASXH, pháp luật
BHXH Việt Nam đã không ngừng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng
mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng, bổ sung các chế độ trợ cấp, đảm bảo mức
trợ cấp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Từ khi ra
đời và chính thức áp dụng rộng rãi bằng Điều lệ tạm thời về BHXH ban hành
kèm theo Nghị định số 218-CP ngày 27/12/1961 của Chính phủ cho đến nay,
chúng ta đã thiết lập được hệ thống văn bản pháp luật tương đối đầy đủ, có giá trị
pháp lý cao điều chỉnh các quan hệ BHXH. Điểm mốc quan trọng đánh dấu sự
phát triển của pháp luật BHXH là sự ra đời của Luật BHXH năm 2006 có hiệu
lực ngày 01/7/2006. Luật BHXH năm 2006 cùng các văn bản hướng dẫn đã tạo
một môi trường pháp lý về BHXH tương đối đầy đủ, minh bạch, thông thoáng,
góp phần to lớn vào việc bảo vệ thu nhập, đời sống cho NLĐ. Tuy nhiên, qua 8
năm thực hiện Luật BHXH năm 2006 đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập.
Trong bối cảnh đó, với định hướng sửa đổi, bổ sung toàn diện chế độ
BHXH đồng thời thể chế hóa được các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
chính sách BHXH, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên
quan, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ
8, ngày 20/11/2014 đã thông qua Luật BHXH năm 2014. Luật chính thức có hiệu

lực thi hành từ ngày 01/01/2016 (quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 2
của Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018). Theo đó, Luật BHXH năm
2014 với 9 Chương, 125 Điều đã khắc phục cơ bản những hạn chế, bất cập về
chính sách, chế độ BHXH thực thi trong thời gian qua; tiếp cận một cách đầy đủ
hơn BHXH của khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế; đáp ứng tốt
hơn quyền được tham gia và quyền được thụ hưởng BHXH của người dân vì
mục tiêu ASXH của mọi công dân.

1


Chế độ bảo hiểm ốm đau và bảo hiểm thai sản - hai chế độ cơ bản của
BHXH cũng đã được Luật BHXH năm 2014 quy định tương đối hoàn thiện và
phù hợp, khắc phục được những hạn chế cơ bản của Luật BHXH năm 2006.
Nhằm góp phần nâng cao nhận thức về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản, việc
phân tích làm rõ các quy định, đặc biệt là các điểm mới của Luật BHXH năm
2014 về chế độ ốm đau, thai sản là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, phân tích các
quy định này cũng sẽ giúp nhận diện một số điểm hạn chế, vướng mắc có thể nảy
sinh trong quá trình áp dụng Luật BHXH năm 2014 về chế độ ốm đau, thai sản
để tiếp tục đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản là việc làm có ý nghĩa thiết
thực.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Chế độ bảo hiểm ốm đau, thai
sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tổng quan nghiên cứu
Luật BHXH được Quốc hội thông qua năm 2014 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/01/2016 (một số nội dung có hiệu lực từ 01/01/2018). Chính vì vậy, cho
đến hiện nay các nghiên cứu Luật BHXH 2014 nói chung, về chế độ ốm đau, thai
sản chưa nhiều, đặc biệt là các nghiên cứu, đánh giá về tình hình thực hiện quy
định pháp luật bảo hiểm ốm đau, thai sản. Có thể kể đến một số công trình liên

quan đến việc giới thiệu, phân tích các quy định của Luật BHXH năm 2014 như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: “Bình luận khoa học một số quy
định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014” của Trường Đại học Luật Hà Nội thực
hiện năm 2015. Trong Đề tài này nhóm tác giả đã giới thiệu và bình luận một
cách hệ thống toàn bộ các quy định của Luật BHXH năm 2016. Tuy nhiên, trong
phạm vi Đề tài, nhóm tác giả chỉ tập trung bình luận các quy định của Luật và chỉ
ra điểm mới của Luật BHXH năm 2014 mà không làm rõ những vấn đề cần tiếp
tục hoàn thiện cũng như đánh giá, dự báo vấn đề thực hiện các quy định này.

2


- Luận văn thạc sĩ luật học: “Những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội
sửa đổi năm 2014” của tác giả Chu Hà Mi năm 2015. Trong luận văn này, tác giả
cũng đề cập những điểm mới của Luật BHXH năm 2014 trên cơ sở so sánh với
các quy định của Luật BHXH năm 2006 mà không làm rõ vấn đề thực tiễn thực
hiện cũng như đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật. Bên cạnh đó, vì phạm
vi đề tài khá rộng nên chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản cũng chưa được làm rõ.
Bên cạnh đó có một số bài viết liên quan đến Luật BHXH năm 2014 cũng
như chế độ ASXH như: “Điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội” của tác giả Đỗ
Phương Đông đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng, số 4/2016; “Tiếp tục đổi mới
nhận thức về bảo hiểm xã hội, góp phần hoàn thiện chiến lược an sinh xã hội”
của tác giả Tôn Thị Thanh Huyền đăng trên Tạp chí cộng sản, số 11/2012.
Như vậy, điểm chung của các công trình trên là đề cập toàn bộ các quy
định của Luật BHXH năm 2014 mà chưa chỉ ra những điểm còn hạn chế, khiếm
khuyết cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cũng như những đánh giá ban đầu về
việc thực thi các quy định này. Chính vì vậy, đề tài: “Chế độ bảo hiểm ốm đau,
thai sản theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014” với việc phân tích
một cách tập trung, có hệ thống về chế độ ốm đau, thai sản (các vấn đề lý luận,
quy định pháp luật và những vấn đề cần hoàn thiện) sẽ có những giá trị và đóng

góp nhất định cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm rõ các quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ
bảo hiểm ốm đau, thai sản, đưa ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực hiện chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản. Từ đó, đề tài có những
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Giới thiệu một số vấn đề chung về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản (khái
niệm, ý nghĩa) và nội dung điều chỉnh của pháp luật về hai chế độ này;
- Phân tích nội dung quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ bảo
hiểm ốm đau, thai sản và đánh giá việc thực hiện các quy định này; trong đó, so
3


sánh, đối chiếu với quy định của Luật BHXH năm 2006 để làm nổi bật các điểm
mới của Luật BHXH năm 2014 về vấn đề này;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm ốm đau, thai sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của Luật BHXH năm 2014
và một số văn bản có liên quan về chế độ ốm đau, thai sản. Luận văn cũng so sánh
với một số quy định trong Luật BHXH năm 2006 để làm rõ những điểm mới cũng
như những vấn đề chưa được khắc phục của Luật BHXH năm 2014 đồng thời chỉ
ra được một số tồn tại trong thực hiện các quy định của Luật BHXH năm 2014.
Đồng thời để làm sâu sắc hơn đề tài, tác giả cũng khảo cứu quy định của ILO,
pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về chế độ ốm đau, thai sản.
Về vấn đề thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về chế độ bảo hiểm ốm
đau, thai sản, do Luật BHXH năm 2014 mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/2016 (một số nội dung chưa có hiệu lực) nên số liệu thực tế không nhiều,
do vậy luận văn chủ yếu đề cập vấn đề thực tiễn thông qua việc đánh giá, dự báo
tác động của Luật hoặc tham khảo những số liệu của thời gian trước đây.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của triết học Mác-Lênin, của lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo...
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài: “Chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản theo quy định của Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2014” có những đóng góp mới sau:

4


- Tập trung làm rõ các quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ bảo
hiểm ốm đau, thai sản và đánh giá bước đầu về việc thực thi các quy định pháp
luật về hai chế độ bảo hiểm này;
- Đưa ra được một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 03 chương với tên gọi và kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản
Chương 2: Quy định của Luật BHXH năm 2014 về chế độ bảo hiểm ốm
đau, thai sản và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện quy định pháp luật về bảo hiểm ốm đau, thai sản

5


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
ỐM ĐAU, THAI SẢN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của bảo hiểm ốm đau
Để hiểu được khái niệm về bảo hiểm ốm đau, thai sản, chúng ta cần tìm
hiểu những khái niệm có nội hàm rộng hơn là ASXH và BHXH.
Thuật ngữ ASXH được ILO sử dụng chính thức trong Công ước số 102
năm 1952 quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Đây là công ước quan trọng nhất
về an toàn, ASXH. Theo Công ước này thì ASXH được hiểu là: “Sự bảo vệ mà
xã hội được thực hiện đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các
biện pháp công cộng để chống lại sự cùng quẫn về kinh tế và xã hội dẫn đến sự
chấm dứt hay giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già hoặc cái chết; những dịch vụ về chăm sóc y tế
và những quy định về hỗ trợ đối với những gia đình đông con”.
Dựa trên khái niệm này, Công ước số 102 đã quy định 9 nhánh của hệ thống
ASXH đó là chăm sóc y tế, ốm đau, thất nghiệp, tuổi già, tai nạn lao động, trợ
cấp gia đình, thai sản, mất sức lao động và tuất. Những quốc gia phê chuẩn Công
ước này phải áp dụng các điều khoản của Công ước vào hệ thống pháp luật của
nước mình và sẽ hình thành một hệ thống tối thiểu.
BHXH là một bộ phận cấu thành cơ bản và quan trọng nhất của ASXH [9,
tr.309]. Theo Từ điển tiếng Việt, BHXH là sự “Bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, già
yếu, bị tai nạn lao động…” [13, tr.36]. Giáo trình ASXH của Trường Đại học
Kinh tế quốc dân đưa ra định nghĩa: “BHXH là sự bảo đảm, thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro, biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm dẫn đến mất thu nhập trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ và
gia đình họ, góp phần bảo đảm ASXH” [12, tr.25]. Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH
6



định nghĩa: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.
Như vậy, có thể hiểu BHXH là khoản chi trả giúp NLĐ giữ thăng bằng phần thu
nhập bị giảm sút hoặc bị mất hoặc giúp họ trang trải phần chi tiêu cao đột xuất do
gặp sự kiện bảo hiểm trên cơ sở cam kết góp của NLĐ và NSDLĐ cho một bên
thứ ba (cơ quan bảo hiểm) trước khi xảy ra những biến cố đó.
Theo pháp luật Việt Nam, BHXH bao gồm bảo hiểm bắt buộc và bảo
hiểm tự nguyện. BHXH bắt buộc bao gồm 5 chế độ là: ốm đau; thai sản; hưu trí;
tử tuất; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. BHXH tự nguyện gồm hai chế độ là:
hưu trí và tử tuất.
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm ốm đau
Trên thế giới có một số chế độ BHXH mà quốc gia nào cũng quy định, đó
là trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Trong đó, bảo hiểm ốm đau là một
trong những chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển
của BHXH [10, tr.113]. Ở Đức, quốc gia đầu tiên đã thiết lập được hệ thống
BHXH bắt buộc vào những năm 1883 – 1889 nhưng ngay từ thập niên 50 của
Thế kỷ XIX, một số bang của Đức đã hỗ trợ Chính phủ thiết lập quỹ ốm đau cho
những công dân tham gia đóng bắt buộc. Những chế độ khác cũng được thiết kế
sau đó như bảo hiểm tai nạn lao động năm 1884, bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm
cho người tàn tật năm 1889. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp được giới thiệu lần đầu
tiên ở Pháp vào năm 1906. Trợ cấp thai sản sau đó được đưa vào và trở thành
một trong những chế độ chính của BHXH [4, tr.52]. Ở Việt Nam, chế độ trợ cấp
ốm đau cũng được quan tâm ngay sau khi thành lập Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Qua từng thời kỳ, pháp luật bảo hiểm ốm đau của
Việt Nam ngày càng được xây dựng theo hướng hoàn thiện hơn. Hiện nay, chế
độ bảo hiểm ốm đau của nước ta còn áp dụng trong trường hợp NLĐ nghỉ việc
chăm con ốm.

7



Câu hỏi đặt ra là vì sao cần có chế độ bảo hiểm ốm đau và vì sao chế độ bảo
hiểm ốm đau lại sớm được ghi nhận như vậy? Có thể khẳng định, ốm đau là điều
mà hầu như con người không thể tránh khỏi trong suốt cuộc đời. Những lúc như
vậy, nhu cầu của con người thay đổi một cách cơ bản, kèm theo là sự tăng lên
đáng kể về chi phí. Đối với NLĐ, sự kiện này được coi là một loại rủi ro trong
lao động mà họ gặp phải. Biểu hiện ở chỗ NLĐ bị mất thu nhập (tạm thời) từ lao
động. Do vậy, cần có một chính sách nhằm bù đắp thu nhập cho NLĐ trong
trường hợp này.
Trong xã hội nguyên thủy, sự san sẻ - giúp đỡ lẫn nhau giữa cộng đồng loài
người đã xuất hiện nhưng nó chỉ mới ở mức độ mang tính tự phát, ngẫu nhiên là
chính. Đến khi có sự phân công lao động, NLĐ nhận thấy việc bản thân họ trong
quá trình làm việc vấn đề gặp rủi ro luôn có thể xảy ra. Trong khi đó, NLĐ luôn
chịu gánh nặng lớn trong việc nuôi sống chính bản thân và gia đình. Chính bởi
vậy, đến giữa thế kỷ XIX, ở những nước có nền công nghiệp phát triển đã nổ ra
cuộc đấu tranh của công nhân, đòi giới chủ phải tăng lương giảm giờ làm và thực
hiện trợ cấp ốm đau, tai nạn cho công nhân khi họ bị ốm đau, tai nạn. Nhiều cuộc
đấu tranh xảy ra gay gắt, dẫn tới những ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, trật
tự, an toàn xã hội nên giới chủ và một số Chính phủ đã phải tiến hành xây dựng
và thực hiện trợ cấp ốm đau cho NLĐ [8, tr.4]. BHXH ra đời sớm nhất ở Đức từ
những năm 1850, sau đó nhiều nước châu Âu cũng cho ra đời các đạo luật có quy
định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỉ XX, bảo hiểm ốm đau được mở
rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ Latin, Hoa Kỳ, Canada
[14, tr.8].
Về mặt pháp lý, ngoài Công ước 102 quy định các tiêu chuẩn tối thiểu
chung về ASXH, ILO đã ban hành một số công ước về chế độ ốm đau với những
tiêu chuẩn cao hơn như: Công ước số 130 về chế độ ốm đau và chăm sóc y tế
(1969); Khuyến nghị số 134 về chế độ ốm đau và chăm sóc y tế (1969). Trên cơ
sở các quy định của ILO, các quốc gia xây dựng chế độ ốm đau tùy thuộc vào

điều kiện của quốc gia mình. Phạm vi, cách thức và quan niệm về bảo hiểm ốm
8


đau cũng có sự khác nhau ở các quốc gia. Một số quốc gia duy trì chế độ trợ cấp
thai sản riêng biệt với chế độ ốm đau (Phần Lan, Thụy Điển…); một số quốc gia
khác, trợ cấp thai sản lại được thực hiện như một phần của chế độ ốm đau (Đức,
Anh, Đan Mạch...) [16].
Ở Việt Nam, bảo hiểm ốm đau là một trong những chế độ BHXH bắt buộc,
tức NLĐ tham gia BHXH bắt buộc sẽ tham gia chế độ bảo hiểm ốm đau. Tuy
nhiên, không có nghĩa mọi NLĐ tham gia BHXH bắt buộc đều được hưởng chế độ
BHXH ốm đau. Để được hưởng chế độ BHXH ốm đau, NLĐ sẽ phải đảm bảo
những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Chế độ này nhằm mục đích
đảm bảo thu nhập cho NLĐ tham gia quan hệ lao động bị ốm đau phải nghỉ việc.
ILO định nghĩa thuật ngữ “Bảo hiểm ốm đau” là “sự đảm bảo hoặc thay
thế thu nhập cho NLĐ và gia đình họ khi gặp phải những sự cố về ốm đau, bệnh
tật nhưng không phải do tính chất của công việc gây ra, làm mất khả năng làm
việc dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập một khoảng thời gian theo quy định của
pháp luật quốc gia”. Theo khái niệm này, “ốm đau” được giới hạn trong phạm vi
không phải do tính chất công việc gây ra và NLĐ ốm đau phải mất khả năng làm
việc trong khoảng thời gian nhất định.
Theo giáo trình ASXH của Trường Đại học luật Hà Nội, bảo hiểm ốm đau
được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm ốm đau là chế độ bảo hiểm nhằm đảm bảo
thu nhập cho NLĐ (tham gia BHXH) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì
ốm đau, tai nạn, chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật” [10, tr.134].
Nhìn chung khái niệm này cũng tương đồng như khái niệm do ILO đưa ra nhưng
bổ sung trường hợp “chăm sóc con ốm”. Đây cũng là điểm mở rộng của pháp
luật Việt Nam so với quy định của ILO cũng như pháp luật một số quốc gia khác.
1.1.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm ốm đau
Bảo hiểm ốm đau là một trong năm chế độ BHXH bắt buộc, có tác dụng to

lớn không những đối với NLĐ và gia đình họ mà còn đối với NSDLĐ, Nhà nước
và toàn xã hội.

9


Thứ nhất, đối với bản thân và gia đình NLĐ:
Đối với NLĐ, việc làm và thu nhập là mối quan tâm đầu tiên và cơ bản nhất
khi tham gia vào quan hệ lao động. Khi ốm đau, NLĐ phải ngừng việc, kéo theo
đó là tạm thời bị mất thu nhập trong khoảng thời gian nghỉ ốm đau, cùng với đó
là sự phát sinh các chi phí về điều trị, dưỡng sức. Khi tham gia BHXH, NLĐ sẽ
được chi trả bảo hiểm ốm đau trong khoảng thời gian này. Khoản hỗ trợ này thực
chất là một phần giá trị sức lao động của NLĐ đã được trích nộp vào quỹ BHXH
trước đó. Khoản chi trả này trước hết hỗ trợ một phần kinh phí chữa trị bệnh tật,
duy trì cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình NLĐ, giúp NLĐ nhanh
chóng quay trở lại làm việc, ổn định thu nhập, ổn định đời sống.
Bên cạnh đó chế độ bảo hiểm ốm đau cũng tạo tâm lý yên tâm cho NLĐ
trong quá trình làm việc, giúp họ phát huy tinh thần sáng tạo, tăng năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm... Có thể thấy bảo hiểm ốm đau có ý nghĩa trực tiếp
nhất đối với NLĐ – đối tượng được hưởng chế độ.
Thứ hai, đối với NSDLĐ:
Trách nhiệm đóng bảo hiểm ốm đau thuộc về NSDLĐ song không vì thế
mà chế độ này chỉ đơn thuần là trách nhiệm đối với NSDLĐ mà nhìn nhận ở góc
độ nhất định, bảo hiểm ốm đau cũng có ý nghĩa quan trọng đối với NSDLĐ.
Trước hết, bảo hiểm ốm đau là một trong những biện pháp gắn kết trách nhiệm
của NSDLĐ đối với NLĐ khi sử dụng lao động, làm cho quan hệ lao động có
tính nhân văn hơn [5, tr.12]. Việc bảo đảm thu nhập, đời sống và ổn định tâm lý
cho NLĐ sẽ giúp NSDLĐ ổn định sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng trưởng
kinh tế, hạn chế tốn kém và phiền hà khi rủi ro xảy ra đối với NLĐ… Từ góc độ
này suy cho cùng thì việc bảo đảm các quyền, lợi ích và chăm lo đời sống cho

NLĐ cũng nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất cho NSDLĐ.
Thứ ba, đối với Nhà nước:
Cũng như các quan hệ xã hội khác, trong quan hệ lao động, Nhà nước cũng
đóng vai trò là chủ thể mang quyền lực công, thực hiện chức năng quản lý và
10


điều tiết các quan hệ xã hội. Việc thực hiện chế độ ốm đau là một phần của chính
sách ASXH của quốc gia. Sự phát triển của hệ thống ASXH của mỗi quốc gia thể
hiện được sự chăm lo của Nhà nước đối với người dân nói chung, NLĐ nói riêng,
thể hiện trình độ phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, thực
hiện bảo hiểm ốm đau nói riêng, BHXH nói chung còn hướng đến mục tiêu bình
đẳng xã hội, củng cố và nâng cao truyền thống đoàn kết, giúp đỡ, tương thân
tương ái giữa các thành viên trong xã hội.
Tại Việt Nam, chăm lo tốt nhất cho đời sống cho người dân nói chung và
NLĐ nói riêng là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta hướng đến. Ngay từ năm
1986, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa với phương châm tất cả vì con người, do con người. Tại Đại hội
IX của Đảng năm 2001, vấn đề ASXH càng được nhấn mạnh: “… Thực hiện các
chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng,
bao gồm BHXH đối với NLĐ thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những
người gặp rủi ro, bất hạnh…”.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của bảo hiểm thai sản
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thai sản
Như đã nói ở trên, bảo hiểm thai sản cũng là một trong những chế độ bảo
hiểm được ghi nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. ILO đã ban hành nhiều
Công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm, bảo vệ sức khỏe cũng như quyền
lợi của người phụ nữ như: Công ước số 102 quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,
Công ước số 103 bảo vệ thai sản (sửa đổi năm 1952); Khuyến nghị số 95 về bảo
vệ thai sản (sửa đổi năm 1952)… Ngoài ra, Liên hợp quốc cũng có một số công

ước đề cập vấn đề này, đó là: Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
năm 1966; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm
1979… Mục đích của các công ước và khuyến nghị này là nhằm đảm bảo cho lao
động nữ, trẻ sơ sinh được chăm sóc cần thiết, được bảo vệ mức sống trong thời
kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc, đồng thời bảo vệ lao động nữ trong thời
gian sinh con không bị mất việc làm và sau thời gian nghỉ vẫn được làm đúng
11


công việc cũ với mức lương giữ nguyên [11, tr.148]. Theo đó, các Công ước này
đã ấn định chế độ chăm sóc y tế, thời gian nghỉ cũng như các khoản trợ cấp đối
với lao động nữ trong thời gian mang thai và sinh con.
Dựa trên các tiêu chuẩn tối thiểu và khuyến nghị của ILO, chính sách thai
sản được pháp luật các quốc gia quy định khác nhau phụ thuộc vào điều kiện và
quan điểm của từng quốc gia. Ví dụ ở Thái Lan, chế độ thai sản chỉ áp dụng đối
với trường hợp sinh con, số lần được hưởng chế độ này chỉ giới hạn hai con… [6,
tr.71]. Ở Việt Nam, các sự kiện thai sản được quy định rộng bao gồm cả mang
thai, sinh con, thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số… Có quốc gia quy
định đối tượng hưởng thai sản chỉ áp dụng đối với phụ nữ, có quốc gia quy định
đối tượng hưởng là cả nam giới trong trường hợp vợ sinh con, nhận nuôi con
nuôi hoặc trong tất cả các sự kiện thai sản… Mặc dù vậy, điểm chung ở đây là
khi tham gia vào loại hình BHXH này, NLĐ nói chung sẽ được một khoản trợ
cấp nhằm bù đắp thu nhập của NLĐ khi có sự kiện thai sản xảy ra dẫn tới họ phải
nghỉ việc. Chính vì vậy, cùng với chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm thai sản
cũng được xếp vào nhóm chế độ bảo hiểm ngắn hạn.
Câu hỏi cũng được đặt ra là vì sao cần có chế độ thai sản? Có thể thấy do
đặc thù về giới, lao động nữ phải thực hiện thiên chức làm mẹ. Trong thời gian
sinh con, lao động nữ phải tạm thời nghỉ việc, kéo theo đó là tạm thời bị mất thu
nhập, thậm chí họ có thể bị mất việc làm vì nghỉ sinh con. Cùng với đó là sức
khỏe suy giảm, họ cần có một thời gian nhất định để phục hồi sức khỏe và chăm

sóc con nhỏ. Không những vậy, thời kỳ này lao động nữ còn tăng chi phí sinh
hoạt, phát sinh chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc con nhỏ. Đó là những khó khăn
không nhỏ đến lao động nữ và gia đình họ. Vì vậy, cần có chính sách bảo hiểm
thai sản nhằm bù đắp cho lao động nữ khoản thu nhập để sinh con và chăm sóc
con nhỏ và cho họ được nghỉ trong khoảng thời gian nhất định để phục hồi sức
khỏe. Cùng với các chính sách xã hội khác, chính sách thai sản góp phần bảo vệ
lao động nữ và trẻ sơ sinh, thúc đẩy bình đẳng giới. Theo đó, bảo hiểm thai sản
vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, vừa tạo điều
12


kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội, thực hiện quyền làm việc của
mình. Trong các quy định riêng về BHXH đối với lao động nữ, bảo hiểm thai sản
cũng được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù và được xuất hiện từ sớm.
Bên cạnh lao động nữ là đối tượng chủ yếu của chế độ thai sản, lao động
nam cũng là đối tượng hưởng thai sản trong một số trường hợp như: khi người vợ
sinh con, nhận nuôi con nuôi sơ sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai. Thậm
chí, có quốc gia quy định lao động nam cũng được hưởng các chế độ thai sản như
lao động nữ như: Thụy Điển, Bulgaria [10, tr.149]. Việc quy định cho lao động
nam được hưởng chế độ thai sản là phù hợp nhằm tạo điều kiện cho lao động
nam chia sẻ, giúp đỡ vợ khi vợ sinh con, nuôi con nhỏ và trong một số trường
hợp, chính bản thân lao động nam cũng cần được hỗ trợ như lao động nữ khi
nhận nuôi con sơ sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai.
Theo giáo trình ASXH của trường đại học Luật Hà Nội thì: “Chế độ bảo
hiểm thai sản là một trong các chế độ BHXH bắt buộc, bao gồm tổng hợp các
quy định của Nhà nước nhằm bảo hiểm thu nhập và đảm bảo sức khỏe cho lao
động nữ nói riêng khi mang thai, sinh con và cho NLĐ nói chung khi nuôi con sơ
sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai và một số trường hợp khác theo quy
định của pháp luật” [10, tr.149]. Như vậy, có thể hiểu bảo hiểm thai sản là chế
độ bảo hiểm nhằm bảo hiểm thu nhập và bảo hiểm sức khỏe cho NLĐ khi có các

sự kiện thai sản.
1.2.2. Ý nghĩa của chế độ bảo hiểm thai sản
Cũng như chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm thai sản có ý nghĩa đặc biệt
đối với NLĐ, đặc biệt là lao động nữ và gia đình họ, đối với NSDLĐ và Nhà nước.
Thứ nhất, đối với NLĐ và gia đình NLĐ:
Như đã nói ở trên, trong thời gian sinh con và nuôi con nhỏ, lao động nữ
phải tạm thời nghỉ việc, thu nhập giảm sút kèm theo đó là sự gia tăng các chi phí.
Bảo hiểm thai sản bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ nữ, góp phần ổn định
cuộc sống NLĐ và gia đình họ khi trong thời gian họ nghỉ sinh đẻ, không thể
13


tham gia lao động. Khi sinh con và nuôi con nhỏ, tâm lý người phụ nữ cũng bị
ảnh hưởng khi không thể lao động, không tạo ra thu nhập, chế độ bảo hiểm thai
sản giúp cho tâm lý của NLĐ ổn định, đặc biệt là NLĐ khi họ có nhu cầu có con,
xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái, bảo vệ sức khoẻ của cả mẹ
và con, không lo lắng về chi phí trong thời gian không tham gia lao động. Bên
cạnh đó, chế độ thai sản còn thể hiện sự quan tâm của những NLĐ với nhau, đặc
biệt là lao động nam đối với lao động nữ vì thường chế độ này chỉ thể hiện đối
với lao động nữ. Đối với lao động nam, chế độ thai sản cũng tạo điều kiện cho họ
có cơ hội được san sẻ trách nhiệm, có thời gian chăm sóc vợ khi sinh con và nhận
nuôi con nuôi.
Thứ hai, đối với NSDLĐ:
Cũng như bảo hiểm ốm đau, trách nhiệm đóng bảo hiểm thai sản thuộc về
NSDLĐ. Thực hiện tốt chế độ thai sản, doanh nghiệp sẽ thu hút được một lực
lượng lớn NLĐ nữ - đối tượng chủ yếu hưởng chế độ thai sản. Thực tế hiện nay
cho thấy, lao động nữ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động của xã hội, họ có
tay nghề và trình độ ngày càng cao trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất hàng
hoá và dịch vụ, đặc biệt, đối với một số ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động nữ
như: may mặc, giầy da… Thực hiện tốt chính sách thai sản với lao động nữ sẽ

giúp NLĐ yên tâm làm việc lâu dài, ổn định, từ đó bảo đảm hoạt động của doanh
nghiệp và mang lại hiệu quả kinh tế cho NSDLĐ.
Thứ ba, đối với Nhà nước
Thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản nói chung, chính sách ASXH nói
chung không những là chức năng của Nhà nước mà còn thể hiện mức độ quan
tâm đến NLĐ của Nhà nước. Đặc biệt hơn, thực hiện tốt chế độ thai sản không
chỉ góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ, đảm bảo thực hiện chính sách xã
hội của mỗi quốc gia mà xa hơn là thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững về
dân số, tạo điều kiện cho các thế hệ tương lai của đất nước được chăm sóc,
phát triển tốt nhất.

14


1.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với bảo hiểm ốm đau, thai sản
Các chế độ BHXH nói chung, chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản nói riêng
được tạo thành bởi các yếu tố:
- Đối tượng được hưởng bảo hiểm;
- Điều kiện hưởng bảo hiểm;
- Thời gian hưởng bảo hiểm;
- Mức hưởng bảo hiểm.
Theo đó, để xác định một người có được hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau,
thai sản hay không cần xác định họ có thuộc đối tượng được hưởng không? có
đủ các điều kiện hưởng không? Từ đó, xác định mức hưởng trong khoảng thời
gian nhất định. Các nội dung này cần được pháp luật quy định rõ ràng và chặt
chẽ, làm cơ sở NLĐ biết được quyền lợi của mình cũng như để cơ quan có
thẩm quyền giải quyết chế độ cho NLĐ. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu từng
nội dung:
1.3.1. Đối tượng hưởng
Có thể hiểu đơn giản, đối tượng được hưởng bảo hiểm là người được chi trả

chế độ bảo hiểm. Theo quy định của pháp luật, đối tượng được hưởng là cá nhân
hoặc thân nhân của NLĐ khi có đủ các điều kiện hưởng bảo hiểm theo quy định.
Đối tượng hưởng được quy định tùy thuộc vào chính sách kinh tế-xã hội nói
chung, chính sách BHXH nói riêng của quốc gia và phạm vi chế độ được hưởng
rộng hay hẹp cũng thể hiện mức độ bảo vệ, mức ASXH của mỗi quốc gia.
1.3.1.1. Đối tượng hưởng chế độ ốm đau
Có thể nhận thấy, ốm đau là sự kiện rủi ro không thể tránh khỏi với mọi đối
tượng lao động, không phân biệt giới tính, ngành nghề, thành phần kinh tế… Khi
sự kiện ốm đau xảy ra, mọi NLĐ đều bị tạm thời mất thu nhập do phải ngừng
việc để chữa trị, phục hồi sức khỏe. Chính vì vậy, về nguyên tắc, bảo hiểm ốm

15


đau phải được áp dụng đối với mọi đối tượng lao động nhằm bảo vệ mọi NLĐ
khi họ gặp sự kiện ốm đau.
Theo điều 15 Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội năm
1952 của ILO, đối tượng được hưởng trợ cấp ốm đau bao gồm: “Những người
làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những
người làm công ăn lương, hoặc những loại được quy định trong dân số hoạt
động kinh tế, tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người thường trú; hoặc
mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy
ra không vượt quá giới hạn quy định theo điều 67…”. Qua đó có thể thấy nguyên
tắc chung của ILO là phải đối xử bình đẳng giữa mọi thành viên trong xã hội, kể
cả người nước ngoài sinh sống và làm việc trên lãnh thổ quốc gia.
Đến năm 1969, trong nội dung Công ước 130 về chăm sóc y tế và chế độ
trợ cấp ốm đau của ILO, đối tượng bảo vệ đã được mở cho mọi NLĐ, kể cả thực
tập sinh; hoặc các tầng lớp dân cư có hoạt động kinh tế với số lượng tham gia tối
thiểu là 75% tổng số dân hoạt động kinh tế; hoặc mọi người dân có mức chi phí
trong khoảng thời gian hưởng không vượt quá mức hạn chế luật định. Đối với mỗi

quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và trình độ quản lý ở
từng thời kỳ mà có quy định khác nhau về đối tượng hưởng bảo hiểm ốm đau.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện theo tinh thần mở rộng
đối tượng ốm đau để đáp ứng nhu cầu tham gia BHXH của người dân trong xã hội.
Ở Đức, do sự tồn tại và cạnh tranh giữa bảo hiểm tư nhân và bảo hiểm ốm
đau theo pháp luật, nên những người không tham gia bảo hiểm ốm đau bắt buộc
có quyền được hưởng chế độ ốm đau tự nguyện. Theo đó, pháp luật BHXH ở
nước Đức chia đối tượng hưởng chế độ ốm đau làm 3 nhóm: những người thuộc
bảo hiểm theo pháp luật; những người bảo hiểm tự nguyện bên cạnh bảo hiểm
theo pháp luật; những người không gia nhập bảo hiểm theo pháp luật. Nhìn
chung, đối tượng được hưởng chế độ ốm đau ở nước Đức khá rộng, không chỉ
bao gồm những người làm công ăn lương, mà còn cả những người học nghề được
trả công, sinh viên, những người làm một số nghề độc lập (như nông dân, nghệ
16


sĩ, nhà quảng cáo), trẻ em, con của những người có thu nhập quá lớn, những
người làm công ăn lương trở về sau một thời gian dài ở nước ngoài…. [8, tr.16].
Ở Hoa Kỳ, đối tượng hưởng chế độ trợ cấp ốm đau là NLĐ trong các ngành
công nghiệp và thương mại (ở các bang Rhode Island, California, New Jersey,
New York, Hawai và Puerto Rico), một số đối tượng nông dân (Califonia, New
Jersey, Hawai và Puerto Rico), ngoài ra còn có 1 chế độ đặc biệt cấp Liên bang
áp dụng đối với NLĐ làm việc trong ngành đường sắt. Đối tượng hưởng, điều
kiện thụ hưởng, mức đóng và các mức trợ cấp được hưởng cũng do từng tiểu
bang quy định [4, tr.84].
Như vậy, có thể thấy đối tượng hưởng chế độ ốm đau được các quốc gia
xác định với nhiều phạm vi: NLĐ làm việc theo hợp đồng; nông dân; NLĐ tham
gia BHXH bắt buộc; NLĐ tham gia bảo hiểm tự nguyện, thậm chí NLĐ không
tham gia bảo hiểm… Ở Việt Nam, pháp luật quy định đối tượng được hưởng chế
độ ốm đau trước hết phải là các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

1.3.1.2. Đối tượng hưởng chế độ thai sản
Chế độ thai sản là chế độ khá đặc thù vì các sự kiện thai sản chủ yếu xảy ra
với lao động nữ do gắn liền với thiên chức làm mẹ của nhóm lao động này. Tuy
nhiên, nhiều quốc gia cũng áp dụng chế độ thai sản với lao động nam. Ngay đối
với lao động nữ, phạm vi áp dụng chế độ ở các quốc gia cũng có sự khác nhau.
Hầu hết các công ước của ILO về đảm bảo cho NLĐ nữ điều liên quan đến
các vấn đề thai sản của họ, trực tiếp bảo vệ cho lao động nữ trong thời kỳ thai sản
có Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 103 năm 1952, Công ước số 103 năm
1952 (sửa đổi). Mục đích của các Công ước này là nhằm đảm bảo cho NLĐ nữ,
trẻ sơ sinh được chăm sóc cần thiết và được bảo vệ mức sống đủ cho mẹ con
trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc. Theo đó các công ước này đã ấn
định thời gian nghỉ sinh con, khoản trợ cấp, chế độ chăm sóc y tế. Có thể coi
Công ước 103 là Công ước tiêu biểu nhất về vấn đề bảo vệ phụ nữ trong thời kỳ
thai sản. Đến Công ước 156 thông qua ngày 23/6/1994 tại Geneve, đối tượng bảo

17


vệ không chỉ là lao động nữ mà cả lao động nam và nữ, những người có trách
nhiệm trong gia đình: “Bình đẳng cơ may và đối xử với lao động nam và nữ:
những NLĐ có trách nhiệm gia đình”.
Ở Nga, trợ cấp thai sản được chi cho phụ nữ trong suốt thời gian nghỉ việc
vì mang thai và sinh con và phụ nữ nuôi con nuôi dưới 3 tháng tuổi. Đối tượng
được hưởng chế độ này bao gồm: Phụ nữ là đối tượng hưởng trợ cấp thai sản
theo chế độ BHXH bắt buộc; phụ nữ bị mất việc làm do tổ chức, cơ quan, đơn vị
của họ chấm dứt hoạt động trong thời gian 12 tháng trước ngày họ được công
nhận là người thất nghiệp theo quy định của pháp luật; phụ nữ đang làm việc
trong quân đội theo hợp đồng trên lãnh thổ Liên bang Nga hoặc quốc gia khác;
phụ nữ tạm ngưng làm việc để đi học nghề [4, tr.173]. Có thể thấy pháp luật Liên
bang Nga quy định đối tượng nữ hưởng chế độ thai sản khá rộng, đặc biệt còn

bảo vệ chế độ thai sản đối với lao động nữ đã chấm dứt quan hệ lao động.
Ở Việt Nam, trước đây BHXH nói chung chỉ được thực hiện đối với công
nhân, viên chức và lực lượng vũ trang. Đến nay, do điều kiện kinh tế-xã hội thay
đổi, Nhà nước đã mở rộng chính sách BHXH nói chung, bảo hiểm ốm đau, thai
sản đến mọi NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế không phụ thuộc vào quy mô và
hình thức sử dụng lao động. Việc mở rộng đối tượng hưởng thể hiện sự quan tâm
đến đời sống của NLĐ, tạo sự bình đẳng và điều kiện tốt nhất bảo vệ, chăm lo
cho NLĐ, từ đó NLĐ yên tâm làm việc, thúc đẩy sự ổn định chung của xã hội.
Cụ thể, đối với chế độ thai sản, ngoài lao động nữ, lao động nam cũng được
hưởng chế độ thai sản khi có một số sự kiện thai sản (vợ sinh con, lao động nam
nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi, lao động nam thực hiện biện pháp kế
hoạch hóa dân số).
1.3.2. Điều kiện hưởng
Điều kiện hưởng là tập hợp các quy định pháp luật làm cơ sở pháp lý để các
đối tượng hưởng được hưởng chế độ. Nói như vậy cũng có nghĩa rằng, để được
hưởng chế độ các đối tượng đã được xác định phải đáp ứng đủ các điều kiện luật
định. Việc đặt ra các điều kiện hưởng là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo sự phù
18


×