Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử của toà án nhân dân huyện mai sơn, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 92 trang )

TRẦN VĂN HÙNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
TRẦN VĂN HÙNG

2014 - 2016
HÀ NỘI - 2016

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

TRẦN VĂN HÙNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN

HÀ NỘI - 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Tác giả Luận văn

Trần Văn Hùng

3


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS.TS Nguyễn Trung Tín, người đã nhiệt tình trực tiếp chỉ dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn, hướng dẫn tôi xác định được hướng đi, khắc phục
được những hạn chế, và giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn để hoàn thành luận

văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô trong viện đại học mở, đặc
biệt là các thầy cô trong Khoa Đào tạo Sau Đại học đã cho tôi những kiến thức
bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua, cũng như giúp tôi có kiến
thức để thực hiện luận văn của mình.
Cuối cùng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện
đề tài luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả Luận văn

Trần Văn Hùng

4


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ..................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................................... 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................... 5
6. Những đóng góp mới của đề tài .............................................................. 6
7. Kết cấu Luận văn .................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN ............................ 8
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại ..................................................................... 8
1.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng
phương thức Tòa án .................................................................................. 20
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................ 34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN,
TỈNH SƠN LA ........................................................................................... 37
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ........... 37
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án
nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La..................................................... 43
5


2.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La .. 46
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La................. 46
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La ................................................................................................................ 55
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................ 59
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,

THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH
SƠN LA ...................................................................................................... 60
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án ................................................. 60
3.2. Một số kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật trong giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La ................................................................................ 71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................ 78
KẾT LUẬN ................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 81

6


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Ý nghĩa

1

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

2

HĐXX


Hội đồng xét xử

3

KDTM

Kinh doanh, thương mại

4

LTM

Luật Thương mại

5

TAND

Tòa án nhân dân

6

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7

VKS


Viện kiểm sát

8

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

9

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vấn đề nâng
cao hiệu quả xét xử của Tòa án luôn được Đảng và Nhà nước Tòa án quan
tâm. Chủ trương này được thể hiện rất rõ ràng trong Nghị quyết 08/NQ-TW,
Nghị quyết 48/NQ-TW và được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 49/NQ-TW
''Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao''. Đầu năm 2011 vừa qua, Đại hội
lần thứ XI đã họp, thảo luận và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và chiến lược

phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2010 – 2020. Với nền kinh tế nước Tòa án
đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế, các xung đột về lợi ích giữa các
bên xảy ra ngày càng nhiều và gay gắt giữa các cá nhân với nhau, giữa các
cá nhân với pháp nhân hay giữa các pháp nhân với nhau. Theo đó, những
xung đột về lợi ích ngày càng phức tạp về nội dung và gay gắt về mức độ
gắn liền với sự phát triển của các quan hệ kinh doanh, thương mại thì các
tranh chấp trong hoạt động KDTM sẽ càng nhiều và phức tạp là quy luật tất
yếu khách quan. Vậy nên các tranh chấp cần được giải quyết nhanh chóng,
kịp thời. Sự phát triển của nền kinh tế hình thành những phương thức giải
quyết tranh chấp thuận lợi, nhanh chóng, linh hoạt và chính xác, các phương
thức đều đảm bảo quyền tự định đoạt, quyên dân chủ, và bình đẳng giữa các
bên tranh chấp. Nhà nước luôn khuyến khích các chủ thể có mâu thuẫn tự
giải quyết với nhau, nếu không giải quyết được có thể thông qua Trọng tài
thương mại và việc giải quyết bằng con đường Tòa án là giải pháp cuối cùng.

1


Biện pháp giải quyết tranh chấp KDTM thông qua Tòa án mới có thể đảm
bảo tối đa quyền lợi của các bên, bởi Tòa án có những công cụ đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ các bên bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành. Hiệu quả của
giải quyết tranh chấp KDTM có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo quyền và nghĩa
vụ của các bên, cũng như sự phát triển của nền kinh tế.
Theo số liệu đánh giá của ngành Tòa án, hàng năm mỗi đơn vị Tòa án
cấp quận huyện thụ lý hàng trăm vụ án lớn nhỏ liên quan đến tranh chấp
KDTM. Từ năm 2005 trở lại đây, Tòa án áp dụng chủ yếu là BLTTDS 2004
(sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011), Luật thương mại 2005, Luật doanh
nghiệp 2005… cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thực
tiễn trong việc giải quyết tranh chấp KDTM cũng bộc lộ nhiều vướng mắc
do hệ thống văn bản hướng dẫn còn thiếu đồng bộ, chậm được ban hành và

chưa phù hợp, chưa thống nhất dẫn đến cách hiểu không thống nhất và việc
vận dụng không đạt được tính thuyết phục. Điều này làm cho hoạt động xét
xử của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến án bị sửa, bị
hủy. Do đó, trong điều kiện hiện nay, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp
KDTM từ thực tiễn xét xử ở Tòa án có ý nghĩa về lí luận cũng như thực tiễn,
nhất là khi hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ban hành có điều chỉnh
về vấn đề này đã lần lượt ra đời và có hiệu lực như BLTTDS 2015, Luật
doanh nghiệp 2014… với nhiều thay đổi quan trọng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, học viên xin lựa chọn và thực hiện
đề tài ''Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La'' để làm rõ các vấn đề lý
luận về giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án và đánh giá thực tiễn thi
hành tại TAND huyện Mai Sơn, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp KDTM tại Tòa án nói chung
và tại TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nói riêng.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến tranh chấp KDTM và giải quyết tranh chấp
KDTM bằng Tòa án không phải là vấn đề mới lạ trong khoa học pháp lí Việt
Nam. Ngay từ đầu những năm 1990, đã có những đề tài nghiên cứu của các
cơ quan Nhà nước như: Trọng tài Kinh tế Nhà nước, Bộ Tư pháp… Tiếp đó,
nhiều cơ sở đào tạo luật học như Đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học
Quốc gia đã cập nhật vấn đề này vào giáo trình của mình nhằm giới thiệu các
loại hình tài phán kinh tế cho sinh viên. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở
các cấp độ và khía cạnh khác nhau như: Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thái
Hà ''Giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong KDTM tại Tòa án - những vấn
đề lí luận, thực tiễn'', Luận văn thạc sĩ Luật học của Cung Mỹ Anh ''Giải
quyết tranh chấp KDTM theo qui định của BLTTDS - Những vướng mắc và

giải pháp khắc phục'' (năm 2008), Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Thị
Ban ''Giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND - Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động'' (năm 2012), đến Luận án Tiến sỹ ''Giải quyết
tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam'' của Đào
Văn Hội (năm 2003)... Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành về pháp luật
cũng có không ít bài viết về đề tài này như ''Giải quyết tranh chấp KDTM
theo qui định của BLTTDS 2004'' của Viên Thế Giang (năm 2005), “Những
vướng mắc khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án” của Vũ Gia Trưởng
(năm 2016)…
Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến thủ tục tố tụng giải quyết tranh
chấp KDTM dưới góc độ và những khía cạnh khá chi tiết và đầy đủ về loại
hình tài phán Tòa án ở Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
được tiến hành cách đây nhiều năm, nền kinh tế của nước Tòa án hiện nay
đang từng bước đổi mới, phát triển hòa nhập vào nền kinh tế thế giới khi Việt
Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và mới đây là
3


thành viên của Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Vậy
nên pháp luật cần phải có những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh và quan hệ
quốc tế. Đồng thời là sự ra đời của 2 văn bản luật rất quan trọng trong lĩnh vực
KDTM là BLTTDS 2015 và Luật doanh nghiệp 2014. Bởi vậy, các đề tài
nghiên cứu trên chưa đánh giá sâu sắc, toàn diện thực trạng giải quyết tranh
chấp KDTM tại Tòa án và những thay đổi của pháp luật thực định về vấn đề
này trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là cơ hội để Luận văn có thể đóng góp
cho khoa học pháp lí hiện nay những điểm mới mẻ và thiết thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Khi tiếp cận, nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề ''Giải quyết tranh chấp
KDTM từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La'', người
viết mạnh dạn phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật và trên cơ sở

tổng hợp các ý kiến khác nhau nhằm chỉ ra những ưu, nhược điểm, những
vướng mắc khi áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa
án từ thực tiễn xét xử. Từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hoạt động xét xử của TAND nói chung và TAND
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nói riêng trong giải quyết tranh chấp KDTM.
Để Luận văn đạt được những mục đích đã đề ra thì việc nghiên cứu
phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, Luận văn nghiên cứu những vấn đề lí luận về tranh chấp
KDTM và giải quyết tranh chấp KDTM tại TAND;
- Thứ hai, đánh giá toàn diện và khách quan thực trạng áp dụng trong quá
trình giải quyết tranh chấp KDTM của TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La;
- Thứ ba, chỉ ra các phương hướng cụ thể, đề xuất các phương án giải
quyết phù hợp của TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nhằm góp phần giúp

4


cơ quan chức năng tháo gỡ khó khăn, cũng như hoàn thiện các qui định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phân tích một số nội dung chủ yếu của BLTTDS 2004 (đối
chiếu với BLTTDS 2015) về thẩm quyền giải quyết và trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, Luận văn chủ yếu tập trung vào
việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết
tranh chấp KDTM tại TAND, phân tích thẩm quyền giải quyết KDTM của
Tòa án, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp KDTM
qua số liệu thống kê các vụ án tranh chấp KDTM được giải quyết của TAND
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La những năm gần đây. Tuy nhiên, do tính bao
quát của đề tài, Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu một số vấn đề bức
xúc, cần thiết liên quan đến pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM bằng

TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, từ đó đề xuất, phương hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng
Tòa án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin để phân tích mối quan hệ
giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở, mối quan hệ giữa kinh tế và pháp
luật, của Lí luận Nhà nước và Pháp luật trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển
kinh tế để các qui định đó có thể đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp
KDTM hiện nay. Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng những phương pháp

5


như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, khảo sát thực tiễn… để giải
quyết vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Tác giả luận văn với một mong muốn là công trình nghiên cứu có ít
nhiều giá trị về mặt lí luận cũng như thực tiễn để làm tài liệu tham khảo cho
các hoạt động giảng dạy pháp lí cũng như tạo ra những gợi ý có giá trị cho
các nhà lập pháp để hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về giải quyết tranh
chấp KDTM. Cụ thể, đề tài có một số đóng góp sau đây:
- Phân tích rõ thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay;
- Làm rõ đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp KDTM của TAND
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và những vướng mắc, bất cập cần được hoàn thiện;
- Luận văn đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật về
giải quyết tranh chấp KDTM của TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nói

riêng và công tác giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nói chung.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Mục lục, Danh
mục các từ viết tắt và Kết luận, Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh chấp kinh doanh, thương mại
và pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6


7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Ngay từ xa xưa, khi Nhà nước còn chưa hình thành thì mọi người đã
tiến hành các hoạt động sản xuất và trao đổi sản phẩm hàng hoá theo các
phương thức giản đơn khác nhau. Hay nói một cách khác, lịch sử ra đời và
phát triển của kinh tế có từ rất lâu trước khi Nhà nước xuất hiện và đưa ra
các chế định để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội. Cùng với sự ra đời và

phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội, tranh chấp cũng phát sinh và đặt ra
nhu cầu được giải quyết sao cho công bằng và hợp lý nhất trong bối cảnh
kinh tế - chính trị - xã hội đó. Theo Triết học Mác - Lênin, mâu thuẫn là quy
luật chung của xã hội, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển. Mâu thuẫn
luôn luôn tồn tại như một tất yếu khách quan trọng mọi lĩnh vực của xã hội,
tạo nên động lực cho sự phát triển của xã hội. Tranh chấp là những xung đột
thường phát sinh từ những mâu thuẫn và từ những lợi ích riêng. Tuy nhiên,
mâu thuẫn và tranh chấp lại tạo nên những phát triển của xã hội, góp phần
xây dựng xã hội ngày càng hiện đại, văn minh. Theo định nghĩa của từ điển
Tiếng Việt, “Tranh chấp là đấu tranh, giằng co khi có mâu thuẫn, bất đồng,
thường là trong vấn đề quyền lực giữa hai bên”. Thuật ngữ "tranh chấp" nói
chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát
8


sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát sinh
từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được gọi
theo ngành luật đó.
Tranh chấp KDTM được hiểu là những tranh chấp trong lĩnh vực kinh
doanh và thương mại, cụ thể:
Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014
(LDN 2014) thì: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 (LTM 2005) thì:“Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, cả hai hoạt động kinh doanh và
thương mại nêu trên có cùng nội hàm về việc các chủ thể kinh doanh cùng
hoạt động đầu tư, kinh doanh, cung ứng các dịch vụ… nhằm mục đích sinh

lợi. Do đó, hai hoạt động này đã được BLTTDS gọi chung là hoạt động kinh
doanh, thương mại và đưa vào cùng một quy trình khi giải quyết tranh chấp
là hoàn toàn phù hợp. BLTTDS 2004 không dùng khái niệm “tranh chấp về
hợp đồng kinh tế” như Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 mà
dùng khái niệm “tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại” và đã
liệt kê các hành vi kinh doanh, thương mại nào có tranh chấp thì thuộc thẩm
quyền của TAND (Còn BLTTDS 2015 thì không liệt kê các tranh chấp nào
là tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà chỉ đưa ra
khái niệm, nêu lên bản chất của tranh chấp KDTM tại khoản 1 Điều 30
BLTTDS 2015). Có thể nhận thấy rằng, khái niệm tranh chấp KDTM thực
chất là những mâu thuẫn phát sinh từ việc các chủ thể kinh doanh có sự bất
đồng đến mức trái ngược nhau trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, cung ứng
9


dịch vụ...gọi chung là trong hoạt động KDTM. Cách định nghĩa này mặc dù
còn nhiều hạn chế song cũng đã chỉ ra được bản chất của tranh chấp KDTM
là mâu thuẫn, xung đột về những lợi ích phát sinh khi tham gia các hoạt động
KDTM. Tuy nhiên, phạm vi giữa mâu thuẫn, xung đột và tranh chấp là khác
nhau, chỉ khi nào mâu thuẫn và xung đột lớn, đến mức không thể điều hòa
thì tranh chấp mới xảy ra.
Ngoài các định nghĩa trên về tranh chấp KDTM thì giáo trình Luật
thương mại - tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra quan điểm
về tranh chấp thương mại: “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình
thực hiện các họat động thương mại”. Từ những phân tích trên, có thể thấy
hiện nay, vẫn chưa đưa ra được cách hiểu thống nhất, đặc biệt là chưa có văn
bản pháp luật nào quy định cụ thể khái niệm tranh chấp KDTM mà mới chỉ
dừng lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông
qua luật nội dung và luật tố tụng.

Như vậy, có thể hiểu khái niệm tranh chấp KDTM là những mâu
thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động
có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại. Và có thể định
nghĩa một cách ngắn gọn đối với tranh chấp KDTM như sau: “Tranh chấp
KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động KDTM”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
- Thứ nhất, về lĩnh vực phát sinh tranh chấp KDTM
Tranh chấp KDTM là tranh chấp phát sinh từ hoạt động KDTM. Theo
LTM, hoạt động KDTM là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua

10


bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác (khoản 1 Điều 3 LTM).
- Thứ hai, về chủ thể tranh chấp KDTM
Tranh chấp KDTM diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các cá nhân, tổ chức không phải là
thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp KDTM. Điều này xuất
phát từ đặc điểm của từng mối quan hệ KDTM cụ thể. Có mối quan hệ
KDTM phải được giao kết giữa các thương nhân với nhau, tuy nhiên cũng có
những mối quan hệ KDTM có thể được giao kết giữa thương nhân với cá
nhân, tổ chức không phải là thương nhân. Khoản 3 Điều 29 BLTTDS 2004
có quy định về một loại tranh chấp không diễn ra giữa các thương nhân với
nhau, đó là tranh chấp giữa các công ty và thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Trong BLTTDS 2015 cũng bổ sung thêm các tranh chấp như: Tranh chấp
giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và

được bảo vệ tập thể (cho phù hợp với Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng); Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty… Tóm
lại, chủ thể của tranh chấp KDTM rất đa dạng, nhưng đa phần là các thương
nhân, có đăng ký kinh doanh.
- Thứ ba, về nội dung của tranh chấp KDTM
Tranh chấp KDTM chính là sự mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về
quyền và nghĩa vụ (về lợi ích vật chất) của các bên trong hoạt động KDTM.
Nói cách khác, tranh chấp KDTM có nội dung liên quan đến lợi ích vật chất
của các tranh chấp. Lợi ích vật chất đó thường được xem xét dưới góc độ là

11


giá trị của tranh chấp KDTM. Và nếu so với các tranh chấp khác trong xã hội
thì tranh chấp KDTM thường là loại tranh chấp có giá trị lớn.
1.1.1.3. Các loại tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS 2004 thì tranh chấp KDTM thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm 4 nhóm:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận (được liệt kê từ điểm a đến điểm o khoản 1 Điều 29);
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (có thể tất cả hoặc một
trong các bên có đăng ký kinh doanh hoặc các bên đều không có đăng ký
kinh doanh) được quy định tại khoản 2 Điều 29;
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
chấm dứt hoạt động của công ty được quy định tại khoản 3 Điều 29;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy

định được quy định tại khoản 4 Điều 29.
Điều 29 BLTTDS 2004 đã quy định khá rõ việc xác định quan hệ
tranh chấp nào là tranh chấp KDTM. Theo đó, khi có một trong các loại
tranh chấp quy định tại các khoản từ 1 đến khoản 4 của Điều 29 thì tranh
chấp đó thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong đó, quy định tại khoản 4 Điều
29 là quy định mở. Chỉ khi có một văn bản quy phạm pháp luật xác định
quan hệ đó là tranh chấp KDTM thì Tòa án vận dụng khoản 4 Điều 29 để thụ
lý, giải quyết. Quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS có thể dẫn đến tranh
chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận

12


nhưng chưa được quy định tại khoản 1 Điều 29 hoặc tranh chấp giữa các bên
mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận nhưng chỉ một bên có đăng ký kinh
doanh hoặc cả hai đều không có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, dù thuộc
một trong hai trường hợp thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh chấp KDTM.
Hơn nữa, quy định này đã loại trừ thẩm quyền giải quyết của Tòa án
về tranh chấp kinh doanh, thương mại theo Điều 29 BLTTDS đối với tranh
chấp hợp đồng giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi (bên không là
thương nhân) trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam khi bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp
dụng Luật Thương mại năm 2005. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi
của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
thương mại nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật
Thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại (quan
hệ hợp đồng thương mại) và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này
phải được xem là tranh chấp hợp đồng thương mại hay tranh chấp hợp đồng
trong kinh doanh. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tranh chấp này vẫn có
thể được giải quyết tại Trọng tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại

năm 2010 nếu các bên có thỏa thuận Trọng tài và thỏa thuận Trọng tài không
vô hiệu nhưng tranh chấp này lại không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án theo Điều 29 BLTTDS (khi một
bên tranh chấp không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật) và
cũng không được xếp vào loại tranh chấp về dân sự theo Điều 25 BLTTDS.
Bởi vậy, theo BLTTDS 2004 thì khó có thể xác định được thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi với
thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không
nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại. Đây là sự bất cập

13


của BLTTDS 2004, tạo ra sự bất tương thích với quy định tương ứng của
pháp luật nội dung.
BLTTDS 2015 khi phân loại các tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án đã có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể:
- Không liệt kê cụ thể các tranh chấp thuần túy là tranh chấp KDTM
giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích sinh lợi như trong
khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004, mà chỉ nêu bản chất của tranh chấp: “Tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận” (khoản
1 Điều 30 BLTTDS 2015);
- Bổ sung thêm một loại tranh chấp là: “Tranh chấp giữa người chưa
phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn
góp với công ty, thành viên công ty” (khoản 3 Điều 30 BLTTDS 2015);
- Bổ sung thêm nhóm tranh chấp: “Tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản
trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của

công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” (một phần khoản 4 Điều
30 BLTTDS 2015).
Tuy nhiên, cũng giống như BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 cũng
không quy định rõ trường hợp: Tranh chấp giữa một bên là thương nhân, một
bên không phải là thương nhân, nhưng bên không phải là thương nhân lại lựa
chọn luật nội dung để áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa họ là pháp luật
kinh doanh thương mại chứ không phải là pháp luật dân sự nói chung, thì nó
thuộc loại tranh chấp dân sự hay tranh chấp KDTM, và thủ tục tố tụng áp
dụng với nó là thủ tục tố tụng dành cho các tranh chấp dân sự hay tranh chấp
14


KDTM? Bởi cho dù được quy định chung trong một văn bản tố tụng là
BLTTDS chứ không tách riêng thành 3 Pháp lệnh gải quyết tranh chấp về
dân sự, kinh doanh thương mại và lao động như trước đây, nhưng thủ tục
giải quyết các tranh chấp này vẫn có nhiều điểm khác biệt. Việc xác định
nhóm tranh chấp này thuộc tranh chấp KDTM hay dân sự sẽ dẫn tới thủ tục
và hậu quả tố tụng khác nhau.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp KDTM là việc phát sinh các mâu thuẫn, bất đồng từ hoạt
động sản xuất, đầu tư hay cung ứng các dịch vụ. Việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại là các bên tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục
thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột,
bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
mình. Giải quyết tranh chấp KDTM được hiểu là quá trình phân xử để làm rõ
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải
thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm. Việc giải quyết tranh
chấp KDTM được tiến hành khi có ít nhất một bên cho rằng mình có quyền
lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm và có yêu cầu được giải quyết. Kết quả là

các quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định lại hoặc mâu thuẫn hay
xung đột giữa các bên được dung hòa thông qua các phán quyết của người
đứng ra giải quyết tranh chấp hoặc của chính các bên.
1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
- Thứ nhất, phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời. Kinh doanh, thương
mại là một quan hệ mang đậm màu sắc kinh tế, yếu tố lợi nhuận là yếu tố
luôn được đặt lên hàng đầu. Và một trong các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận
của các chủ thể trong quan hệ KDTM là vấn đề quỹ thời gian. Thời gian có
15


thể ảnh hưởng tới giá hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ, quy mô, khả năng
luân chuyển hàng hóa, dịch vụ ở các thời điểm khác nhau là rất khác nhau,
ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp KDTM, dường
như thời gian luân chuyển của các hoạt động thương mại của hai bên và
thậm chí là cả bên thứ ba bị ngưng trệ, làm mất đi rất nhiều lợi thế của các
bên xảy ra tranh chấp trên thương trường, giữa một nền kinh tế thị trường
cạnh tranh khốc liệt. Vậy nên, việc rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp,
nhanh chóng giải quyết tranh chấp để các bên tiếp tục hoạt động kinh doanh
của mình là yếu tố tối quan trọng và cần thiết trong giải quyết tranh chấp
KDTM.
- Thứ hai, giải quyết tranh chấp KDTM phải đảm bảo tôn trọng tối đa
quyền tự định đoạt của các bên. KDTM cũng là một hoạt động mang đậm
màu sắc dân sự ở sự tự do, tự nguyện và bình đẳng. Vậy nên, trong giải
quyết tranh chấp KDTM, sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên, về phương thức, thời hạn, thời gian,
địa điểm giải quyết tranh chấp là vô cùng quan trọng (trừ một số ràng buộc
pháp lý bắt buộc các bên trong tranh chấp và chủ thể giải quyết tranh chấp
phải tuân thủ).
- Thứ ba, yếu tố bí mật, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa các bên tranh chấp

là yếu tố cần cân nhắc khi giải quyết các tranh chấp KDTM. Tranh chấp
KDTM thường xảy ra giữa các đối tác, các bạn hàng của nhau và đa phần là
các đối tác chiến lược, bạn hàng lâu năm hay các chủ thể kinh doanh mà uy
tín của họ trên thương trường là tiêu chí quan trọng để đảm bảo sự thành
công của họ trên thương trường (các công ty, tập đoàn, doanh nghiệp lớn)
nên mặc dù giữa các bên có tranh chấp về mặt lợi ích, nhưng họ vẫn muốn
hợp tác lâu dài với nhau, ràng buộc, nương tựa lẫn nhau nên yếu tố bí mật
kinh doanh, uy tín của các chủ thể rất được coi trọng trong giải quyết các
16


tranh chấp KDTM. Vậy nên, khi không thể thương lượng, các bên có thể
thông qua hòa giải (có chủ thể trung gian đứng ra dàn xếp) hay thông qua
Trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp, chứ không nhất thiết phải lôi
nhau ra Tòa án.
- Thứ tư, phương thức giải quyết tranh chấp KDTM rất đa dạng. Để
giải quyết tranh chấp KDTM, các bên có thể thông qua rất nhiều phương
thức khác nhau, như thương lượng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án.
1.1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh,
thương mại ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi
lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư… Vấn đề lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại phải được các bên
cân nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản
chất của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí
dành cho việc giải quyết tranh chấp. Pháp luật hiện hành công nhận các
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh sau: Thương lượng, hòa
giải, Trọng tài và Tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp kinh doanh thương
mại, các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương
lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết

tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua
phương thức hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án, trong đó:
* Hòa giải
Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp
với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào
thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung

17


gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không
phải của trung gian hòa giải mà hoàn Toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.
Hình thức giải quyết này có nhiều ưu điểm: Thủ tục hòa giải được tiến
hành nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ
người nào làm trung gian hòa giải cũng như thời gian, địa điểm tiến hành hòa
giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian như trong thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối
quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Hòa giải là mong muốn của các
bên dàn xếp vụ việc sao cho không có bên nào bị thua cuộc, không dẫn đến
tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại Tòa án. Hình thức
giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp kinh doanh,
thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính … ). Vì rằng, các
bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc tìm
kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp.
Nhưng trong thực tiễn kiện tụng tại Tòa thì các bên không có quyền lựa chọn
cán bộ giải quyết trừ một số trường hợp phải thay đổi HĐXX theo quy định
của pháp luật. Một điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh cũng rất
quan tâm là khi giải quyết bằng con đường này, các bên kiểm soát được các
tài liệu, chứng cứ có liên quan (những bí mật kinh doanh) trong khi giải
quyết tại Tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do Tòa án thực

hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Bên cạnh những ưu điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: Việc hòa giải có
được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải
viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn
đề gì đối với các bên tranh chấp; thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc
thi hành như phán quyết của Trọng tài hay của Tòa án
18


×