Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định của pháp luật việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

DƯƠNG THỊ ÁNH TUYẾT

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

DƯƠNG THỊ ÁNH TUYẾT

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI – 2016


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN.........................................................................................................
LỜI CẢM ƠN ..............................................................................................................
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài .......................................... 1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.............................................. 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn ........................................ 3
7. Kết cấu của Luận văn ......................................................................................... 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ .......................................... 5
HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT .................................... 5
VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH ............................................................ 5
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh ............................... 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư và các hình thức đầu tư................................................................5
1.1.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh .....................................................................................13
1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của hình thức đầu tư của hợp đồng hợp tác kinh
doanh ................................................................................................................................................16
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật hợp đồng hợp tác kinh doanh ........... 19
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh ở Việt Nam ..............................................................................................19
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh..................26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH
DOANH .................................................................................................................... 28
2.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh. ......................................288
2.2. Quy định về lĩnh vực và ưu đãi đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ......... 30
2.3. Quy định về hình thức của hợp đồng hợp tác kinh doanh. ..................................334
2.4. Quy định về nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh. ....................................344
2.5. Quy định về thủ tục đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. .........................488



2.6. Quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng hợp tác kinh doanh và vấn đề
giải quyết tranh chấp.......................................................................................................... 50
Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC
KINH DOANH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP .................................. 533
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt
Nam. ....................................................................................................................................533
3.1.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thi hành pháp luật về đầu tư theo
hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam. ..................................................................... 533
3.1.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn trong quá trình thi hành pháp luật về đầu
tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam. ...................................................... 577
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam .................................................. 59
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 611
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 633


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ
ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình
nghiên cứu đã được công bố, các website theo đúng quy định. Các kết quả nghiên
cứu được trình bày do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan
và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Người thực hiện đề tài

Dương Thị Ánh Tuyết



LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình,
Trân trọng cảm ơn thầy giáo TS Đoàn Trung Kiên đã tận tình hướng dẫn,
đóng góp những thông tin vô cùng quý báu và những ý kiến xác đáng giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học - Viện Đại học Mở
Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Người thực hiện đề tài

Dương Thị Ánh Tuyết


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang có những bước đi hết sức quan
trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam đồng thời cũng đặt ra những
thách thức vô cùng to lớn. Chính sách mở cửa nền kinh tế của Việt Nam đã tạo nên
chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế và bước vào thời kỳ phát triển mới. Một trong những nhân tố
quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực đó là những chính sách thúc đẩy hoạt
động đầu tự và đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thông qua nhiều hình
thức khác nhau, trong đó có hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Có thể nói trong những năm qua, pháp luật thương mại nói chung và
pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh nói riêng đã được Nhà nước ta quan tâm
và không ngừng hoàn thiện như: Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), Luật đầu

tư, Luật thương mại…Những văn bản pháp luật trên đã tạo ra một khung pháp lý
quan trọng, tạo đà cho hoạt động hợp tác kinh doanh phát triển, thực hiện chính
sách quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì pháp luật về thương mại nói chung và hợp đồng hợp tác
kinh doanh nói riêng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập.
Vì những lý do nêu trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Hợp đồng hợp tác kinh
doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề
tài Luật văn thạc sĩ của mình. Luận văn này sẽ nghiên cứu những quy định cơ bản
của pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh, những hạn chế, vướng
mắc từ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đề ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài
Cho đến nay có một số luận văn đại học nghiên cứu về vấn đề này và một số
bài viết được đăng trên các tạp chí pháp luật của một số nhà khoa học như bài viết
“Một số nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh

1


doanh”của TS. Nguyễn Thị Dung trên Tạp chí luật học số 11/2008, “The true story
behind the veil of BusinessCooperation contract” của tác giả Trần Sĩ Vỹ và công
trình khoa học khác, có chăng chỉ đề cập đến hợp đồng hợp tác kinh doanh như một
khía cạnh nhỏ của đầu tư như luận án tiến sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Khắc Định, cuốn “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại
và đầu tư – Những vấn đề pháp lý cơ bản” của TS. Nguyễn Thị Dung…
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đồng hợp tác kinh và các biện pháp bảo
đảm thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp
luật về hợp đồng đồng hợp tác kinh doanh vẫn là cấp thiết, bởi các quy định pháp

luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ
quốc tế trong lĩnh vực tương ứng. Vì lý do này, tác giả đề tài mong muốn góp phần
làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh, chỉ ra
những bất cập của việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn, từ đó đề ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đồng hợp tác kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt Nam
về hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các quy
định đó trong thực tiễn, chỉ ra những bất cập còn tồn tại, so sánh kinh nghiệm pháp
luật tương ứng của một số nước trên thế giới, những bài học kinh nghiệm rút ra từ
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay, qua đó luận văn đề ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh ở
Việt Nam hiện nay. Như vậy, về cơ bản luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Thứ nhất, làm rõ bản chất pháp lý của hợp đồng hợp tác kinh doanh và cơ sở lý
luận của pháp luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh.

2


- Thứ hai, phân tích thực trạng các qui định của pháp luật về hợp đồng hợp tác
kinh doanh, từ đó nêu được những bất cập, hạn chế trong các qui định của pháp luật
về vấn đề này.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đưa
ra một số giải pháp để hoàn thiện các qui định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm quan điểm pháp lý về
Hợp đồng hợp tác kinh doanh; phương thức và thực trạng thực thi pháp luật điều
chỉnh hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Phạm vi nghiên cứu: Luân văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý
của Hợp đồng hợp tác kinh doanh trên cơ sở lý luận và các qui định trong các văn
bản pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh như hệ thống văn bản Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998
Luật đầu tư năm 2005 và trọng tâm là Luật đầu tư năm 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp
khác nhau như: phân tích, tổng hợp, luật học so sánh, khảo sát thực tiễn. Các
phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương
pháp duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chi tiết những quy định của Pháp luật về
Hợp đồng hợp tác kinh doanh, thực trạng pháp luật và tình hình thực thi pháp luật
về hợp đồng hợp tác kinh doanh.Thông qua đó, Luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm góp phần tang cường hiệu quả của việc thực thi các quy định pháp luật về hợp
đồng hợp tác kinh doanh. Luận văn có những kết quả nổi bật sau đây:

3


- Về mặt lý luận: Luận văn phân tích, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ
bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh; phân tích đặc trưng pháp lý của hợp đồng hợp
tác kinh doanh và các quy định pháp luật có liên quan.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn phân tích những bất cập, vướng mắc trong các
qui định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh, từ đó đề ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
So với những công trình đã nghiên cứu, Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu
của những công trình nghiên cứu trước. Bên cạnh đó, Luận văn đã có những nghiên
cứu, đóng góp để hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh

doanh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03
chương với kết cấu và nội dung nghiên cứu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh và
pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh hoanh ở Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh ở
Việt Nam và một số giải pháp.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH
1.1.

Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh

1.1.1. Khái niệm đầu tư và các hình thức đầu tư
1.1.1.1.

Khái niệm đầu tư

Đầu tư không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội,
có nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử nhất định,
những điều kiện cho sự ra đời của nó đã đầy đủ. Đầu tư xuất hiện bắt nguồn từ nhu
cầu của con người là tạo lập và pháp triển hơn nữa những hiệu quả về kinh tế- xã

hội. Đầu tư là khái niệm được nhiều ngành khoa học tiếp cận nghiên cứu với mục
đích riêng tùy theo yêu cầu của ngành khoa học đó.
Đầu tư dưới góc độ kinh tế là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi
công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực
mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hi sinh có thể
là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ nhưng kết quả đạt được có thể
là sự tăng them các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,
bệnh viện…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ
thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn
trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy
sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan
trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà đối với cả nền kinh
tế. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực
tiếp tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho
người đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thỏa mãn nhu cầu tiêu dung (cho

5


sản xuất và cho sinh hoạt) tang thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải
quyết việc làm cho người lao động… Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người
lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao
trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp
nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và
kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình
thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi

nhuận hoặc mục đích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh
doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực
tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu đc để cập là
hoạt động đầu tư kinh doanh.
Từ điển Black’s Law dictionary của Mỹ định nghĩa “Đầu tư là sự chi phí của
cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận”.
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Luật đầu tư năm 2005, khái niệm đầu tư
kinh doanh chưa được định nghĩa đồng nhất trong các văn bản pháp luật. Đến Luật
đầu tư năm 2005, với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh
doanh, đã đưa ra định nghịa tại điều 03 của luật này: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hinh thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư”.
Hiện nay, khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 định nghĩa về đầu tư như
sau: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động
kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự
án đầu tư. Theo khoản 13 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 thì: “Nhà đầu tư là tổ
chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước,
nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
Luật Đầu tư năm 2014 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài, do

6


đó kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận luôn là mục đích hướng tới của các nhà đầu
tư. Trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành thì Luật Thương mại năm 2005 là văn
bản có liên quan mật thiết đến đầu tư và đầu tư cũng được coi là một hoạt động
thương mại. Hoạt động thương mại trong Luật Thương mại được định nghĩa là
“hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,

đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (khoản 1
Điều 3)”. Đặc thù của hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập (bỏ vốn, tài
sản để hình thành cơ sở vật chất, kĩ thuật… để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi
nhuận). Nhà đầu tư là các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định
của pháp luật Việt Nam. Do đó, hoạt động đầu tư cũng phải tuân thủ các nguyên tắc
trong Luật Thương mại áp dụng đối với các hoạt động thương mại như: Nguyên tắc
tự do, tự nguyện thỏa thuận; Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật… Các nguyên
tắc này luôn có tác dụng định hướng cho hoạt động của các nhà đầu tư trong quá
trình đàm phán, ký kết và thực hiện đầu tư.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư là hành vi của con người, phát sinh và tồn tại trong quá
trình sản xuất, kinh doanh và chịu sự tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã
hội. Ví dụ: Ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà
nước đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Vào thời kỳ này, thế giới được phân chia thành hai phe: phe xã
hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Hai phe này mâu thuần rất gay gắt và là kẻ
thù của nhau nên không có một mối quan hệ gì là nhỏ nhất. Với định hướng xã hội
chủ nghĩa như vậy, quan hệ kinh tế của Nhà nước ta chỉ hạn hẹp trong quan hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa, không thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ các quốc
gia phát triển. Đến năm 1986, với chính sách mở cửa nên kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp
phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Các chính sách về đầu tư cũng được
sửa đổi theo hướng tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Bắt đầu từ đó, các nhà

7


đầu tư nước ngoài mới mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển
nền kinh tế nước nhà. Do vậy hoạt động đầu tư có các đặc điểm sau:
- Chủ thể thực hiện hành vi đầu tư là các nhà đầu tư. Pháp luật có quy định cụ

thể những chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư và những điều kiện cần
đáp ứng để tham gia các quan hệ đó.
- Hoạt động đầu tư có tính chất tạo lập (bỏ vốn, tài sản) nhằm hình thành cơ
sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm
lợi nhuận.
- Hoạt động đầu tư có mối liên hệ mật thiết với các bộ phân của hoạt động
thương mại như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại. Trong một số
hình thức đầu tư, hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư cũng chịu sự điều chỉnh của
các quy luật thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật tăng lợi nhuận, quy luật
cung cầu… Ví dụ, dưới tác động của quy luật cạnh tranh, nhà đầu tu phải vươn lên
giành giật lấy một phần thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển (thông qua
hình thức sáp nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, chi nhanh doanh nghiệp
hoặc giành quyền ký kết hợp đồng xây dựng– chuyển giao– kinh doanh (BTO), hợp
đồng xây dựng– kinh doanh– chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng– chuyển giao
(BT)…); hoặc dưới sự tác động của quy luật cung cầu, nhà đầu tư phải bỏ vốn, tài
sản, kinh nghiệm… để tạo lập, phát triển các dự án sản xuất, kinh doanh các sản
phẩm mà người mua có nhu cầu, nếu nhà đầu tư không đáp ứng được nhu cầu của
người mua thì nhà đầu tư không thể duy trì được dự án của mình.
1.1.1.3. Các hình thức đầu tư
Trong xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế - xã hội, các hình thức đầu tư
kinh doanh ngày trở nên đa dạng, phong phú hơn.Đối với mỗi hình thức đầu tư, bên
cạnh những ưu điểm đặc trưng cũng tiềm ẩn trong nó những hạn chế, bất cập nhất
định. Do đó, khi lựa chọn hình thức đầu tư cho dự án của mình, các nhà đầu tư cần
tìm hiểu thật kỹ những ưu, nhược điểm của từng loại hình thức đầu tư để chọn ra
hình thức phù hợp nhất đối với dự án nhằm đem lại hiệu quả đầu tư tối ưu nhất, thu
được lợi nhuận cao, hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Có thể phân loại các

8



hình thức đầu tư thành hai nhóm như sau: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. “Đối
với các nước đang phát tiển thì cả hai hình thức đầu tư đều rất quan trọng, còn đối
với các nước phát triển thì chủ yếu là chỉ có hình thức đầu tư trực tiếp”.
Đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia
quản lý, điều hành quá trình sự dụng các nguồn lực đầu tư. Trong hoạt động đầu tư
trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư
đối với vốn đầu tư. Đầy tư trực tiếp có thể là đầu tư trực tiếp trong nước hoặc đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp trong nước là việc bỏ vốn của các tổ chức, cá
nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là hoạt động kinh doanh quốc tế dựa tên cơ sở của quá trình
dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Do tác
động của xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa các nước, các
hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng mở rộng và phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Các hình thức đầu tư trực tiếp bao gồm:
+ Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh
nghiệp:Đầu tư sáp nhập doanh nghiệp là hình thức đầu tư được thực hiện thông qua
việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
bị sáp nhập sang doanh nghiệp sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Trên thế giới, các vụ sáp nhập, mua lại có thể được phân thành
3 loại:
Sáp nhập theo chiều ngang là sáp nhập giữa các công ty trên cùng một tuyến
kinh doanh và trên cùng một thị trường nhằm tăng hiệu quả và để chiếm được
quyền lực thị trường;
Sáp nhập theo chiều dọc là sáp nhập giữa các công ty tham gia vào các giai
đoạn khác nhau của quá trình sản xuất và phân phối;
Sáp nhập kết khối là sáp nhập giữa các công ty trong các lĩnh vực kinh doanh
khác nhau và không có liên quan, nhằm giảm cơ bản rủi ro và để khai thác các hình
thức kinh tế khác nhau trong các lĩnh vực tài chính, tài nguyên v.v…

9



Việc sáp nhập hai công ty sản xuất hoặc kinh doanh sản phâm cùng loại hoặc
tương tự có thể dẫn đến sự giảm bớt các chi phí sản xuất và chi phí thị trường. Việc
sáp nhập hai công ty, trong đó một bên cung cấp nguyên liệu cho quá trình sản xuất
ra sản phẩm hoành chỉnh của bên kia, có thể đem lại sự cắt giảm tổng chi phí tổng
và chi phí kho tàng. Các vụ sáp nhập, mua lại hiện nay đã trở thành một hình thức
đầu tư thông dụng của các công ty muốn bảo vệ, củng cố và thúc đẩy vị trí của mình
bằng cách sáp nhập, mua lại công ty khác tư đó tăng cường khả năng cạnh tranh của
mình. Ngoài ra, yêu cầu giảm bớt các chi phí tăng cao của hoạt động nghiên cứu và
phát triển trên một khu vực địa lý rộng hơn và việc mở ra các thị trường mới cho
cạnh tranh đã thúc đẩy tốc độ của các vụ sáp nhập và mua lại trong quá trình tổng
thể của cả đầu tư trong nước và nước ngoài.
+ Đầu tư vào tổ chức kinh tế (thành lập hoặc góp vốn): là việc nhà đầu tư bỏ
vốn thành lập mới các cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ để nằm
quyền quản trị của đơn vị kinh doanh đang hoạt động. Hoạt động kinh doanh của
các nhà đầu tư được tiến hành thông qua tư cách pháp lý của các tổ chức kinh tế.
Ngoài việc tuân thủ các quy định của Luật đầu tư, việc thành lậ, tổ chức hoạt động
của các tổ chứ kinh tế còn chịu sự điều chỉnh của các quy định trong các văn bản
pháp luật về hình thức tổ chức kinh doanh.
+ Đầu tư phát triển kinh doanh: là hình thức đầu tư theo đó, nhà đầu tư bỏ vốn
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất ( nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kỹ năng…), gia tăng
năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển
kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
hiện có đồng thời bổ sung vốn đầu tư mới, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát
triển bền vững cơ sở kinh doanh. Đầu tư phát triển kinh doanh là hình thức đầu tư
phổ biến, là con đường tồn tại và phát tiển tất yêu của bất cứ nhà đầu tư nào. Đầu tư
phát triển kinh doanh bao gồm các hình thức cụ thể là: mở rộng quy mô; nâng cao
công suất, năng lực kinh doanh (thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị


10


trực thuộc…); đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm
môi trường.
+ Đầu tư theo hợp đồng: là hình thức đầu tư, theo đó việc đầu tư vốn để kinh
doanh của nhà đầu tư được tiến hành trên cơ sở hợp đồng được giao kết giữa các
nhà đầu tư được tiến hành trên cơ sở hợp đồng được giao kết giữa các nhà đầu tư
hoặc giữa các nhà đầu tư với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhà đầu tư trực tiếp
tiến hành hoạt động kinh doanh với tư cách pháp lý của mình phù hợp với nội dung
thỏa thuận trong hợp đồng. Khi thực hiện đầu tư theo hợp đồng, ngoài việc tuân thủ
các quy định của luật đầu tư, việc giao kết, thực hiện hợp đồng còn phải phù hợp
với các quy định chung về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Đầu tư theo hợp
đồng hợp tác kinh doanh (Hợp doanh): theo cách hiểu chung nhất, là hình thức đầu
tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác
kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp
nhân. Hình thức hợp doanh có thể là hợp tác song phương (hai bên) hoặc hợp tác đa
phương (nhiều bên). Hình thức hợp doanh có những đặc điểm pháp lý cơ bản là:
Được thực hiện bằng hình thức pháp lý là hợp đồng hợp tác kinh doanh; Các bên
hợp doanh cùng nhau góp vốn, cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh và
phân chia kết quả kinh doanh theo thỏa thuận trong hợp đồng; Các bên hợp doanh
thực hiện hoạt động kinh doanh với tư cách pháp lý của mình thay vì thành lập ra
một pháp nhân kinh tế mới. Các hợp đồng thương mại và hợp đồng giao nguyên
liệu lấy sản phẩm, hợp đồng mua bán hành hóa trả chậm và các hợp đồng khác mà
không thực hiện phân chia lợi nhuận hoặc kết quả kinh doanh đầu khống phải hợp
đồng hợp tác kinh doanh theo quy định của luật đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình
kinh, các bên hợp doanh có thể thỏa thuận thành lập bên điều phối (điều hành) để
theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối hợp
đồng hợp tác kinh doanh không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh.

+ Đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT),
hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng- chuyển
giao (BT) là những hình thức đầu tư thông qua hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà

11


nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng dự án
là các bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộng trung ương hoặc các
cơ quan trực thuộc của các cơ quan này được ủy quyền ký kết hợp đồng dự án. Đây
là nét đặc thù của các hợp đồng BOT, BTO và BT so với các hợp đồng khác trong
quan hệ thương mại và đầu tư. Nhà đầu tư là chủ thể của hợp đồng dự án bao gồm
các tổ chức, cá nhân đầu tư vốn thực hiện dự án. Đối tượng của các hợp đồng BOT,
BTO và BT đều là các công trình kết cấu hạ tầng. Theo các hợp đồng này, nhà đầu
tư bỏ vốn để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng và chuyển giao
cho Nhà nước theo những phương thức thanh toán đền bù khác nhau. Các hình thức
BOT, BTO và BT có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư và xây dựng
cơ sở hạ tầng (giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước, xử lý chất
thải…). Thay vì phải đầu tư vốn xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan
trọng, Nhà nước áp dụng những chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư để có được hệ
thống cơ sở hạ tầng thông qua việc nhận chuyển giao quyền sở hữ các công trình tư
nhà đầu tư, bằng những phương thức chuyển giao khác nhau. Về mặt pháp lý, sự
khác nhau chủ yếu giữa các hình thức đầu tư BOT, BTO và BT đều thể hiện ở thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu công trình gắn liền với quyền quản lý, vận hành,
khai thác công trình của nhà đầu tư cho Nhà nước và phương thức thanh toán, đền
bù của Nhà nước cho nhà đầu tư. Trong hình thức BOT, sau khi xây dựng xong
công trình, nhà đầu tư quản lý và kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu
tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước. Với hình thức BTO, sau
khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữ công trình cho

Nhà nước, nhà đầu tư được Nhà nước dành cho quyền kinh doanh công trình trong
thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Ở hình thức BT,
sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữu công trình
cho Nhà nước, nhà đầu tư được Nhà nước tạo điều kiện thực hiện dự án khác để thu
hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.

12


Các hình thức đầu tư gián tiếp: Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó
nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Trong hoạt động đầu
tư gián tiếp, người đầu tư vốn và người quản lý, sử dụng vống là hai chủ thể khác
nhau và có thẩm quyền chi phối khác nhau đối với nguồn lực đầu tư. Những hoạt
động đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp nằm quyền quản lý, kiểm soát và điều
hành hoạt động kinh doanh đều có tính chất là đầu tư gián tiếp (đầu tư thông qua
mua chứng khoán: cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư
thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; đầu tư thông qua ngân hang, doanh nghiệp bảo
hiểm…). Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể được tiếp nhận dưới các dạng: viện
trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hay còn gọi là vốn vay với điều kiện ưu đãi,
vay thương mại.
Như đã phân tích ở trên, mỗi hình thức đầu tư đều có những đặc điểm riêng
nhất định về cách thức đầu tư vốn, tính chất liên kết và phân chia kết quả kinh
doanh giữa các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư, tùy theo nhu cầu và điều kiện cụ thể của
mình, có thể lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp theo quy định của Pháp luật.
Trong các hình thức đầu tư, hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh là
hình thức đầu tư được đánh giá là dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần triển
khai nhanh mà thời hạn đầu tư ngắn.
1.1.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.1.2.1. Khái niệm Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là khái niệm không chỉ được pháp luật Việt

Nam ghi nhận mà còn được ghi nhận trong pháp luật đầu tư của rất nhiều quốc gia
trên thế giới.Trong đó, tùy vào chính sách mở cửa nền kinh tế của mỗi nước mà
pháp luật về lĩnh vực hợp tác kinh doanh được quy định đa dạng hay hạn chế.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là khái niệm không chỉ được pháp luật Việt
Nam ghi nhận mà còn được ghi nhận trong pháp luật đầu tư của rất nhiều quốc gia
trên thế giới.Trong đó, tùy vào chính sách mở cửa nền kinh tế của mỗi nước mà
pháp luật về lĩnh vực hợp tác kinh doanh được quy định đa dạng hay hạn chế.

13


Theo Khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005:“Hợp đồng hợp tác kinh
doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh
phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân”. Tuy
nhiên, khái niệm trên chưa thực sự chính xác do hình thức đầu tư theo hợp đồng
BCC mới là một hình thức đầu tư, còn hợp đồng hợp tác kinh doanh về bản chất nó
vẫn là một hợp đồng dân sự.
Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã khắc phục một mặt hạn chế của khái niệm
hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Luật Đầu tư năm 2005. Theo Khoản 1 Điều 9 của
Nghị định này thì “Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng do một hoặc nhiều
nhà đầu tư nước ngoài ký kết với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây
gọi tắt là các bên hợp doanh) để tiến hành đầu tư, kinh doanh; trong đó có quy định
về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh
mà không thành lập pháp nhân”.Tuy nhiên có ý kiến vẫn cho rằng quy định này
cũng chưa thực sự chính xác bởi chỉ hướng đến quan hệ hợp đồng giữa một bên là
nhà đầu tư nước ngoài, một bên là nhà đầu tư trong nước, quy định như vậy là
không đầy đủ.
Nhằm khắc phục hạn chế về khái niệm hợp đồng BCC quy định tại Luật đầu
tư năm 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP nêu trên, Luật Đầu tư năm 2014 quy

định:“Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng
được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân
chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế” (Khoản 9 Điều 3). Như vậy,
hiểu một cách khái quát nhất thì hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự thỏa thuận giữa
các nhà đầu tư, theo đó, các bên cùng góp vốn, cùng quản lý kinh doanh, cùng phân
chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro trong quá trình đầu tư kinh doanh mà không
thành lập một pháp nhân mới. Còn hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là một hình
thức đầu tư trực tiếp và được ký kết giữa các nhà đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Nói cách khác, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư
trực tiếp được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp

14


tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp
nhân mới.
1.1.2.2. Đặc điểm của Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự thỏa thuận giữa các bên ký kết, tức là sự
thỏa hiệp ý chí của các nhà đầu tư. Các bên tham gia tự nguyện, tự do bày tỏ ý chí
của mình. Các bên chủ thể của hợp đồng chủ yếu là các chủ thể kinh doanh và có
năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Người đại diện để ký kết hợp
đồng phải là người đại diện hợp pháp của các bên chủ thể hợp đồng. Nội dung của
hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật và hình thức của hợp đồng
phải phù hợp với quy định pháp luật. Ngoài ra, hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng
mang những đặc điểm riêng như sau:
- Đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức đầu tư trực tiếp,
được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các nhà đầu tư chung vốn kinh doanh nhưng
không thành lập tổ chức kinh tế mới. Các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư chỉ ràng
buộc với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận mà không có sự ràng buộc
về mặt tổ chức như ở các hình thức đầu tư chung vốn thành lập doanh nghiệp.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập
của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Các nhà đầu tư độc
lập với đối tác trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến sự án đầu tư đồng
thời cũng tránh được mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình quản lý điều hành dự án
đầu tư. Trong khi đó, đối với các hình thức đầu tư trực tiếp khác, nhà đầu tư phải
thành lập pháp nhân khi đầu tư thực hiện dự án. Ngay cả các hình thức đầu tư theo
hợp đồng khác như hợp đồng BOT, BTO hay BT, nhà đầu tư cũng phải thành lập
doanh nghiệp (doanh nghiệp dự án) để có tư cách pháp nhân, quản lý, thực hiện các
hoạt động của dự án với tư cách pháp nhân đó.
- Về nội dung quan hệ đầu tư: Hợp đồng hợp tác kinh doanh bao gồm các
thỏa thuận bỏ vốn để cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro và cùng phân chia kết quả
kinh doanh. Đây là đặc thù của hợp đồng hợp tác kih doanh trong sự so sánh với các
hợp đồng khác trong thương mại (ở các hợp đồng thương mai, thời điểm chuyển

15


giao rủi ro được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở xác định lợi
nhuân hay rủi ro thuộc về bên nào của hợp đồng).
- Chủ thể trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh: Khác với hình thức đầu tư
theo Hợp đồng BOT, BTO và BT chủ thể tham gia quan hệ đầu tư luôn phải có sự
tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đối với hình thức Hợp đồng hợp tác
kinh doanh, chủ thể là tất cả các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể trong hợp đồng không giới hạn, tùy vào
quy mô dự án cũng như khả năng, mong muốn của các bên tham gia hợp đồng và số
lượng chủ thể có thể bao gồm hai hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp tác
kinh doanh với nhau (song phương hoặc đa phương).
Đây là đặc điểm phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh với các hợp đồng
khác trong hoạt động thương mai như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung
ứng dịch vụ. Những hợp đồng này thường chỉ có sự tham gia của hai bên (ví dụ:

một bên thương nhân bên mua và một thương nhân nên bán.[12]
- Mục đích của các bên tham gia quan hệ đầu tư là nhằm thực hiện việc hợp
tác kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thông qua hợp đồng mà không thành lập pháp
nhân mới.
1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của hình thức đầu tư của hợp đồng hợp tác kinh
doanh
1.1.3.1. Ưu điểm của hình thức đầu tư của hợp đồng hợp tác kinh doanh
So với những hình thức đầu tư khác, hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh có nhiều ưu điểm khiến các nhà đầu tư ngày càng ưu tiên lựa chọn hình
thức này để tiến hành các hoạt động đầu tư của mình.
- Thứ nhất: ưu điểm nổi bật của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh là giúp các nhà đầu tư tiết kiệm rất nhiều thời gian, chi phí trong việc thành
lập pháp nhân mới, vận hành doanh nghiệp sau khí nó được thành lập và khi dự án
đầu tư kết thúc, các nhà đầu tư cũng không phải lo lắng về vấn đề giải thể. Hiện
nay, ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều vướng mắc trong thủ tục cấp Giấy chứng nhận
đầu tư, gây không ít khó khan cho các nhà đầu tư khi đăng ký thực hiện dự án đầu

16


tư mới. Hình thức theo hợp đồng hợp tác kinh doanh được coi là ưu tiên số một cho
các dự án đầu tư các khu chung cứ tại các thành phố lớn vì khi dự án kết thúc, các
bên phân chia xong lợi nhuận thì không cần phải tính đến chuyện làm thủ tục giải
thể doanh nghiệp nếu như các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư khác. Ngoài ra,
trong các dự án đầu tư trên, khi các nhà đầu tư đã lựa chọn hình thức đầu tư theo
hợp đồng BCC thì ngay khi các khu chng cư hoàn thành, các bên có thể ngày lập
tức bán phần của mình như thỏa thuận phân chia mà không phụ thuộc vào các đối
tác còn lại.
- Thứ hai: với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lần nhau những thiếu
sốt, yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đầu tư theo hình thức

hợp đồng hợp tác kinh doanh được xem là một trong những lựa chọn tối ưu cho các
nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư vào một thị trường mới nhưng vẫn
nhanh chóng tiếp cận được thông tin dưới sự am hiểu về thị trường thông qua những
đối tác trong nước. Đồng thời, nhà đầu tư trong nước cũng được đối tác hỗ trợ về
vốn, công nghệ hiện đại trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay phát triển dự án
đầu tư. “Hình thức đầu tư nay thích hợp với các dự án cần triển khai nhanh, thời
hạn đầu tư ngắn”.
- Thứ ba: trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách
pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Do
đó, nhà đầu tư sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn
đề của dự án đầu tư. Nếu như đối với các hình thức đầu phải thành lập một pháp
nhân mới, các nhà đầu tư căn cứ trên phần vốn mà mỗi bên bỏ ra để lựa chọn một
hoặc một nhóm người đứng đầu , lãnh đạo công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có
nguồn vốn ít sẽ có ít cơ hội được nắm quản lý, không chủ động trong việc cũng
như với số vốn mà họ đã bỏ ra, họ giống như một “chủ nợ”hơn là một nhà đầu tư.
Nhưng đối với hình thức đầu tư này, với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng
như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng do không có sự rằng buộc
về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư

17


với nhau. Do đó, hình thức đầu tư này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự
lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác
1.1.3.2. Hạn chế của hình thức đầu tư của hợp đồng hợp tác kinh doanh
Các mặt tích cực của Hợp đồng hợp tác kinh doanh đôi khi lại trở thành trở
ngại cho các nhà đầu tư khi lựa hình thức đầu tư này.
Do không thành lập pháp nhân mới nên dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn khi thực
hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng chính vì không

có một doanh nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu tư, do đó, sẽ không có
con dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải thoả thuận lựa chọn một
trong con dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư.
“Việc không phải thành lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu
tư không nghiên cứu kỹ, lựa chọn sai hình thức đầu tư thì nó lại trở thành một hát
chế rất lớn, gây ra nhiều rủi ro mà các nhà đầu tu không lường trước được”. Ngoài
ra, nếu thành lập một pháp nhân mới thì quyền quản lý pháp nhân mới đó sẽ được
phân chia theo tỷ lệ số vốn góp do các nhà đầu tư bỏ ra. Nhưng vì không có doanh
nghiệp mới ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư sẽ được chia đều cho tất cả
các nhà đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ rát ít vốn hơn nhưng lại
không công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn.
Thêm vào đó pháp luật chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các
bên và bên thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong quá trình
thực hiện hợp đồng (Hợp đồng BBC). Khi xảy ra tranh chấp sẽ khó để xác định bên
nào trong quan hệ hợp doanh là bên thực hiện phải chịu trách nhiệm với bên thứ ba.
Như vậy, có thể thấy hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC hiện nay trở nên
phổ biến do tính chất linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, tùy từng dư ăn đầu tư cụ thể,
các nhà đầu tư cần phải tìm hiểu cả ưu điểm cũng như hạn chế của từng hình thức
đầu tư để lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp nhất nhằm hạn chế tới mức thấp
nhất các rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ một dự án đầu tư nào.

18


1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh ở Việt Nam


Giai đoạn 1975 – 1986

Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước về mặt Nhà

nước năm 1976, đất nước ta mới có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế bị chiến
tranh tàn phá nghiêm trọng và phát triển đất nước. Tình hình đất nước trong giai
đoạn này có bà đặc điểm lớn:
Một là: nước ta đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ
biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Hai là: cả nước hòa hình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã
hội với chiều thuận lợi song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và
các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là: hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản còn rất gay go với phức tạp.
Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976
đã khẳng định việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh
vực kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò vô
cùng quan trọng. Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài, một nhà
văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài này ,
đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước
ngoài thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của Việt Nam.
Ở giai đoạn này, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ là hình thức
cùng sản xuất, chia sản phẩm, bên nào có vốn nhiều sản phẩm nhiều, lĩnh vực đầu
tư trong thời gian này chỉ quy định bó hẹp trong các thể nhân và pháp nhân nước
ngoài với tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam. Trong khi đó các tổ chức thành

19



×