Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số vấn đề về quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 94 trang )

ĐINH THỊ THU TRANGLUẬT KINH TẾ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

2014 - 2016

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Ở VIỆT NAM

ĐINH THỊ THU TRANG

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Ở VIỆT NAM

ĐINH THỊ THU TRANG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. KIỀU THỊ THANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các nội dung
được sử dụng trong các nghiên cứu khác đã được trích dẫn đầy đủ và trung thực.

Tác giả luận văn

Đinh Thị Thu Trang


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Kiều Thị Thanh đã tận tình hướng
dẫn tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các thầy, cô giáo, gia đình và bạn bè đã tạo điều
kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Tác giả luận văn

Đinh Thị Thu Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 5
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm chung về quyền sở hữu công nghiệp ............................................. 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp ............................ 6
1.1.2. Đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ................................ 10
1.2. Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ........................................ 14
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý .................. 14
1.2.2. Hình thức bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ....... 21
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ ........................................ 26
2.1. Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý ................................................................... 26
2.1.1. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý ...................... 26


2.1.2. Điều kiện về danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý ............................................................................................................... 28
2.1.3. Không thuộc các đối tượng không được bảo hộ là chỉ dẫn địa lý ........... 30
2.2. Xác lập quyền sỡ hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ............................ 33
2.2.1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ........... 33
2.2.2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn
địa lý ............................................................................................................... 34
2.2.3. Điều kiện đối với đơn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa
lý .................................................................................................................... 38

2.2.4. Xử lý đơn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý ............ 41
2.2.5. Thời hạn bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý................................................... 45
2.3. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý .......................... 46
2.3.1. Các chủ thể trong quan hệ đối với chỉ dẫn địa lý ................................... 46
2.3.2. Các quyền được bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý ....................................... 48
2.4. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ............................. 53
2.4.1. Xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp dân sự ................................... 53
2.4.2. Xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hành chính, hình sự và hải quan
....................................................................................................................... 54
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 57
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................. 59
3.1. Các chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký ở Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam ............. 59
3.1.1. Các chỉ dẫn địa lý Việt Nam .................................................................. 59
3.1.2. Các chỉ dẫn địa lý nước ngoài................................................................ 63
3.2.Thực trạng về quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam 64
3.2.1. Thực trạng xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ..... 64
3.2.2. Thực trạng khai thác, quản lý và sử dụng chỉ dẫn địa lý ........................ 67


3.2.3. Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý ............................................................................................................... 71
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp đối
với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam............................................................................. 73
3.3.1. Nhóm giải pháp chung .......................................................................... 73
3.3.2. Nhóm giải pháp cụ thể........................................................................... 74
3.3.3.Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam ............................................... 81
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 86
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 88
PHỤ LỤC................................................................................................................92

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Công ước Paris về sở hữu công nghiệp

Công ước Paris


Bộ luật Dân sự

BLDS

Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại Hiệp định TRIPS
của quyền sở hữu trí tuệ
Sở hữu công nghiệp

SHCN

Sở hữu trí tuệ

SHTT

Thỏa ước Madrid năm 1891 về chống chỉ dẫn sai lệch Thỏa ước Madrid
hoặc lừa dối về nguồn gốc hàng hóa
Tổ chức Thương mại Thế giới

WTO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới


WIPO

Ủy ban nhân dân

UBND


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thời xa xưa, khi các sản phẩm chính của thương mại quốc tế chủ yếu là
các nông sản, khoáng sản hay các mặt hàng thủ công đơn giản như đồ gốm hay vải
dệt… lợi thế cạnh tranh trong thương mại của một sản phẩm so với sản phẩm khác
chủ yếu là nhờ vào những đặc tính và chất lượng riêng biệt mà các điều kiện địa lý
như khí hậu và địa chất của các khu vực địa lý mang lại. Các vùng địa lý với các địa
danh nổi tiếng đã mang lại lợi thế cho các sản phẩm cùng loại như pho mát
Roquefort, rượu vang Bordeaux của Pháp, pha lê Bohemia của Cộng hòa Séc, xúc
xích Frankfurter của Đức, Oliu vùng Kalamata của Hy Lạp, thịt bò Scotland…
Ngay cả ở Việt Nam, những sản phẩm quen thuộc với mọi người dân cũng nhờ gắn
kết với các địa danh, từ những nông sản như vải thiều Thanh Hà, bưởi Đoan Hùng,
chè Tân Cương, xoài cát Hòa Lộc… đến những sản phẩm nổi tiếng khác như nước
mắm Phú Quốc, gốm Chu Đậu, bánh đậu xanh Hải Dương, lụa Hà Đông… Những
thương hiệu này có giá trị thương mại rất lớn, là công cụ marketing hữu hiệu trong
nền kinh tế toàn cầu. Tính đến ngày 01/07/2016, trên thế giới có khoảng hơn 10.000
chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, với giá trị giao dịch thương mại hàng năm ước đạt 50 tỷ
đôla Mỹ [1] , trong đó, hơn 50 sản phẩm của Việt Nam cũng đã được bảo hộ chỉ dẫn
địa lý, đứng thứ hai sau Thái Lan trong khu vực ASEAN [2].
Cùng với tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và tự do hóa về thương mại, các
quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn tới việc đưa các sản phẩm của mình
thâm nhập vào thị trường của các nước khác thông qua việc sử dụng chỉ dẫn địa lý.

Tuy nhiên, do những lợi ích to lớn về thương mại mà chỉ dẫn địa lý mang lại cho
người sử dụng, các chủ thể khác, vì mục đích lợi nhuận có thể sẵn sàng tìm mọi
cách để lợi dụng danh tiếng và uy tín đó, gây thiệt hại đáng kể cho các quốc gia sở
hữu chỉ dẫn địa lý. Vì vậy, nhu cầu về tăng cường bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong


thương mại thông qua các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia được các nước
đặc biệt chú ý. Thực tế, chỉ dẫn địa lý đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới
xây dựng, phát triển và sử dụng như một bằng chứng bảo đảm với người tiêu dùng
về nguồn gốc, chất lượng sản phẩm, mà còn là công cụ hữu hiệu để quảng bá, nâng
cao hình ảnh và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Đồng
thời, bảo hộ hiệu quả các thương hiệu có chỉ dẫn địa lý không chỉ góp phần nâng
cao giá trị thương mại của hàng hóa quốc gia trên thị trường quốc tế mà còn góp
phần bảo tồn các giá trị văn hóa và tri thức truyền thống của quốc gia kết tinh trong
những hàng hóa này.
Trước những yêu cầu và thách thức như vậy, pháp luật về quyền sở hữu
công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam luôn có sự hoàn thiện, bổ sung nhằm
thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề
này. Tuy nhiên, để các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung
và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý nói riêng đi vào cuộc sống một
cách hiệu quả, đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giải thích, áp dụng các quy định này
một cách đúng đắn, đầy đủ và phù hợp với xu hướng của thế giới. Do đó, việc
nghiên cứu và tiếp tục kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực này
là điều cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đang
trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Ở nước ngoài, các nghiên cứu về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã
được quan tâm từ lâu. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường chủ yếu dưới dạng bài
tham luận hội thảo hoặc các ý kiến tranh luận trong khuôn khổ Hiệp định TRIPs.

Một số sách chuyên khảo, nghiên cứu dưới góc độ pháp luật thuần túy như: (i)
Bernard O’Connor (2001), The Law of Geographical Indications, Cameron; (ii)
Lathar R Nail & Rajendra Kumar (2005), Geographical Indications: A Search for
Indentity, Lexis Nexis Butterworths.
Ở Việt Nam, việc xây dựng và duy trì một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ
hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, là một điều kiện bắt buộc khi gia nhập Tổ chức


Thương mại Thế giới (WTO). Vì thế, bảo hộ quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý là
vấn đề còn khá mới cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đã có một số đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn, luận án về vấn đề này như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học của Bộ Công thương (2005) với nội dung: Chỉ
dẫn địa lý: các khía cạnh thương mại trong xuất khẩu. Như tên gọi của nó, đề tài
này chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mang chỉ dẫn
địa lý, xem chỉ dẫn địa lý như một đối tượng của hoạt động ngoại thương, còn các
vấn đề lý luận về quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với chỉ dẫn địa lý chưa
được nghiên cứu.
- Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lê Thị Thu Hà (2010) với đề tài: Bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp dưới góc độ thương mại đối với chỉ dẫn địa lý của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Hải Yến (2008) với tiêu đề: Bảo hộ
chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, rải rác còn có một số bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề
này ở Việt Nam, như "Chỉ dẫn địa lý nông sản: thực trạng và giải pháp" của Xuân
Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 7/2004; "Các quy định của Hiệp định
TRIPs về bảo hộ chỉ dẫn địa lý" của ThS. Vũ Hải Yến, Tạp chí Luật học, số
11/2006; "Bảo hộ chỉ dẫn địa lý chỉ pháp luật thôi, chưa đủ" của Lê Tùng, Tạp chí
Hiến kế lập pháp, số 9(70)/2006…
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam, có sự liên hệ với việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý trên thế giới.
Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động bảo hộ
chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, đề tài đưa ra các yêu cầu và kiến nghị
nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn
địa lý cũng như tăng cường hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:


Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu công nghiệp và quyền
sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý.
Hai là, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý trong mối tương quan với hệ thống pháp luật quốc tế về chỉ dẫn địa
lý, bao gồm một số nội dung cụ thể như: điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý, việc xác
lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, nội dung quyền sở hữu công
nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý; bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa
lý…
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa
lý ở Việt Nam, luận văn đưa ra những thực trạng của hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa
lý ở Việt Nam qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật
và những biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả việc bảo hộ quyền SHCN đối với
chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhằm có
một cái nhìn tổng thể về vấn đề. Với việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
này, đề tài chỉ ra một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục để hoàn thiện các quy định

pháp luật này.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp luật học so sánh, lịch sử,
thống kê để làm rõ quá trình phát triển của vấn đề được nghiên cứu, để đánh giá sự
tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế.
Các phương pháp nói trên đều dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
Chương 2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý


Chương 3. Thực tiễn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa
lý ở Việt Nam và một số kiến nghị

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1.1. Khái niệm chung về quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp
Là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), quyền sở hữu công
nghiệp (SHCN) là các quyền hợp pháp của cá nhân, pháp nhân đối với các đối
tượng SHCN. Nhìn chung quyền SHCN phát sinh khi đối tượng SHCN đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn bảo hộ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo
hộ.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) và các văn bản pháp luật về bảo
hộ quyền SHCN của Việt Nam, thuật ngữ “quyền sở hữu công nghiệp” được hiểu
theo nghĩa rộng nhất, không chỉ bao hàm những gì liên quan tới “công nghiệp”. Bộ

luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam năm 1995 tại Điều 780 quy định: quyền sở hữu


công nghiệp được hiểu là quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, pháp nhân đối với
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử
dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác
do pháp luật quy định.
Tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2009 (Luật Sở hữu trí tuệ) quy định: “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Về đặc điểm, quyền SHCN là một loại quyền sở hữu, do vậy, nó cũng mang
đặc điểm chung của quyền sở hữu, chẳng hạn chủ thể mang quyền luôn xác định
còn chủ thể mang nghĩa vụ không xác định... Ngoài ra, quyền SHCN có những đặc
điểm riêng để phân biệt không chỉ với quyền sở hữu tài sản vật chất mà còn phân
biệt với quyền tác giả - một lĩnh vực thuộc quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể:
Thứ nhất, tính vô hình của quyền SHCN. Cũng giống như quyền tác giả,
đối tượng quyền SHCN mang đặc trưng của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, đó là
tính vô hình. Đặc điểm này hoàn toàn khác với đặc tính hữu hình của sở hữu tài sản
vật chất. Là sản phẩm của sáng tạo trí tuệ, mang tính vô hình nên đối tượng của
quyền SHTT nói chung và của quyền SHCN nói riêng phải được vật chất hóa hoặc
được thể hiện trên các vật mang cụ thể. Nói cách khác, tài sản trí tuệ vô hình phải
được phản ánh, thể hiện thông qua những vật thể hữu hình. Những vật thể hữu hình
này lại chính là đối tượng của quyền sở hữu tài sản vật chất. Như vậy, một vật thể
hữu hình có thể vừa là đối tượng của quyền sở hữu tài sản vật chất lại vừa chứa
đựng trong nó đối tượng của quyền SHTT. Đặc tính vô hình của đối tượng quyền
SHTT là đặc trưng quan trọng nhất dẫn đến nhiều đặc trưng quan trọng khác của
quyền SHTT. Phù hợp với đặc tính này, quyền SHCN là một quyền tài sản và đối
tượng của quyền SHCN mang tính phi vật chất. Bởi vì, bản thân quyền SHCN

không thể tự nó đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà nó chỉ
đem lại các lợi ích vật chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu, người
sử dụng khi các đối tượng SHCN được áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh.


Thứ hai, tính hạn chế của quyền SHCN. Tính hạn chế của quyền SHCN là
một đặc trưng cơ bản của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng. Đây
chính là sự khác biệt giữa quyền sở hữu các đối tượng là tài sản vật chất hữu hình
với các đối tượng là tài sản vật chất vô hình. Tính hạn chế của quyền SHCN được
thể hiện ở nhiều khía cạnh như hạn chế về không gian, hạn chế về thời gian, hạn chế
quyền của chủ sở hữu (quyền SHCN có thể bị hạn chế bởi quyền của người sử dụng
trước đối với sáng chế, kiểu dáng hoặc chủ sở hữu phải có nghĩa vụ sử dụng sáng
chế, nhãn hiệu hay quyền sử dụng sáng chế có thể bị chuyển giao bắt buộc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền), việc sử dụng các đối tượng
SHCN không thuộc quyền sở hữu của mình phải được sự cho phép của chủ sở hữu
đối với quyền sở hữu công nghiệp đó… Tùy thuộc vào phạm vi của vấn đề được
trình bày, ở đây luận văn chỉ đề cập tới tính hạn chế của quyền SHCN ở hai khía
cạnh về không gian và thời gian.
- Về không gian:
Quyền SHCN mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Khác với quyền sở hữu tài sản
vật chất, chỉ một số loại tài sản nhất định mới phải đăng ký quyền sở hữu, nhìn
chung quyền SHCN chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận hoặc cấp văn bằng bảo hộ
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia đã công nhận hoặc cấp văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền SHCN trên thế
giới đều tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc lãnh thổ quốc gia. Cũng khác với quyền tác
giả mặc nhiên phát sinh ngay sau khi tác phẩm được tác giả sáng tạo và thể hiện
dưới một hình thức nhất định, về nguyên tắc chung, quyền SHCN muốn được bảo
hộ phải có đơn yêu cầu bảo hộ hoặc công nhận và được bảo hộ từ thời điểm được
cấp văn bằng bảo hộ hoặc quyết định công nhận (trừ một số đối tượng như tên
thương mại, bí mật kinh doanh).

Đặc điểm này của quyền SHCN xuất phát từ đặc trưng của đối tượng
SHCN - một loại tài sản vô hình được truyền bá bằng con đường nhận thức nên rất
dễ bị xâm phạm, khó kiểm soát. Hơn nữa, việc áp dụng các đối tượng SHCN chủ
yếu gắn với quá trình sản xuất công nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn
nhu cầu vật chất của con người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy, quyền
SHCN mang tính không gian và lãnh thổ tuyệt đối.


- Về thời gian:
Quyền SHCN còn bị hạn chế về mặt thời gian. Nhìn chung, quyền SHCN
chỉ được bảo hộ trong một thời hạn nhất định được ghi trong văn bằng bảo hộ và
chủ sở hữu các quyền SHCN phải nộp lệ phí cho sự bảo hộ đó. Đây là khoảng thời
gian hợp lý để chủ sở hữu các quyền SHCN khai thác các đối tượng SHCN của
mình bù đắp những chi phí vật chất và tinh thần khi tạo ra đối tượng đó. Khi kết
thúc thời hạn bảo hộ (kể cả thời gian gia hạn), quyền SHCN của chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng cũng chấm dứt, ngoại trừ một số đối
tượng SHCN như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý... được bảo hộ vô thời hạn nhưng
các đối tượng đó cũng như chủ sở hữu các đối tượng đó phải đảm bảo một số điều
kiện do pháp luật quy định.
Sự giới hạn thời gian bảo hộ quyền SHCN xuất phát từ sự phát triển của
khoa học công nghệ, của kinh tế xã hội. Bởi, các đối tượng của quyền SHCN là
những sản phẩm trí tuệ có ích cho xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khoa học
kỹ thuật, công nghệ. Nếu những đối tượng quyền SHCN được bảo hộ vĩnh viễn thì
sẽ kìm hãm sự sáng tạo, dẫn đến tình trạng bưng bít thông tin. Sau khi hết thời hạn
bảo hộ, các đối tượng SHCN này sẽ trở thành tài sản chung của xã hội, của nhân
loại.
Thứ ba, quyền sử dụng là quyền năng cơ bản nhất của quyền SHCN. Quyền
SHCN là một quyền dân sự theo nghĩa rộng. Đây không phải là một quyền dân sự
“tuyệt đối” theo cách hiểu truyền thống từ trước đến nay về quyền dân sự. Quyền

SHCN thường gắn với các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mục đích của các quan
hệ dân sự về quyền SHCN không phải là để thỏa mãn những mục đích tiêu dùng
dân sự thường ngày của các chủ thể mà chính là các lợi ích kinh tế thu được từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh có sử dụng đối tượng SHCN.
Đặc tính không hữu hình của sản phẩm sáng tạo trí tuệ nói chung và của đối
tượng quyền SHCN nói riêng làm cho chúng sau khi bị bộc lộ có thể lan truyền vô
giới hạn, không thể kiểm soát được. Do vậy, để chiếm giữ, người chiếm giữ hoặc là
không công bố, giữ bí mật về sản phẩm, không đưa vào sử dụng, khai thác hoặc có
khai thác nhưng phải giữ không cho người khác biết về bản chất của đối tượng đó.
Tuy nhiên, trên thực tế, điều này gần như không thể thực hiện được hoặc nếu có


thực hiện được thì không có ý nghĩa. Do vậy, quyền năng quan trọng nhất trong nội
dung quyền SHCN là quyền sử dụng các đối tượng SHCN.
Quyền SHCN là một quyền đặc biệt thể hiện khả năng độc quyền khai thác,
sử dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ. Việc bảo hộ quyền SHCN
nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, của nhà đầu tư bằng cách tạo điều kiện cho
họ thu lợi, bù đắp những chi phí mà họ đã bỏ ra. Do đó, chỉ chủ sở hữu mới có
quyền sử dụng và chuyển giao cho người khác quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu
các đối tượng SHCN của mình.
1.1.2. Đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Theo Điều 1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ký kết ngày
20/3/1883 và đã được sửa đổi gần đây nhất vào năm 1967 (Công ước Paris), các đối
tượng SHCN được bảo hộ là: sáng chế; mẫu hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; nhãn
hiệu hàng hóa; nhãn hiệu dịch vụ; tên thương mại; chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa; tên
gọi xuất xứ hàng hóa; quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Sau hơn một thế kỷ, cho đến nay phù hợp với một số điều ước quốc tế đa
phương khác như Hiệp định TRIPS 1994 danh sách các đối tượng SHCN nói trên
đã được bổ sung thêm một số đối tượng mới, đó là:
- Bí mật kinh doanh (bí mật thương mại, thông tin không bộc lộ...);

- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
- Giống cây trồng mới (thành tựu chọn giống).
Vừa phản ánh xu hướng quốc tế nêu trên vừa thể hiện đặc trưng riêng của
mình pháp luật Việt Nam hiện hành quy địnhcác đối tượng quyền SHCN được bảo
hộ bao gồm: sáng chế; kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn; bí mật kinh doanh; nhãn hiệu; tên thương mại; chỉ dẫn địa lý [29, Điều 750];
[31, Khoản 2 Điều 3], cụ thể:
(i) Sáng chế
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [31,
Khoản 12 Điều 4]. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai
dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong


nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu
tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Trình độ
sáng tạo của sáng chế được xác định căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc
lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình
thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày
ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được
hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra
một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương
ứng. Ngoài ra, sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể
thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại
quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
(ii) Kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện
bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này [31, Khoản
13 Điều 4]. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện: có tính
mới, có tính sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Tính mới của kiểu dáng

công nghiệp nói tới sự khác biệt đáng kể của kiểu dáng công nghiệp đó với những
kiểu dáng công nghiệp đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày
nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được
hưởng quyền ưu tiên. Kiểu dáng công nghiệp được coi là có tính sáng tạo nếu căn
cứ vào kiểu dáng công nghiệp đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô
tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc nước ngoài trước
ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp trong
trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên, kiểu dáng công nghiệp đó không thể
được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực
tương ứng. Còn khả năng áp dụng công nghiệp của kiểu dáng công nghiệp là việc
kiểu dáng này có thể dùng làm mẫu để chế tạo hàng loạt sản phẩm có hình dáng bên
ngoài là kiểu dáng công nghiệp đó bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công
nghiệp.
(iii) Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn


Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí) là cấu trúc không gian
của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn
[31, Khoản 15 Điều 4]. Một thiết kế bố trí được bảo hộ nếu đáp ứng điều kiện: có
tính nguyên gốc; có tính mới thương mại. Theo đó, tính nguyên gốc của thiết kế bố
trí phải đáp ứng các điều kiện: là kết quả lao động sáng tạo của chính tác giả; chưa
được những người sáng tạo thiết kế bố trí và những nhà sản xuất mạch tích hợp bán
dẫn biết đến một cách rộng rãi tại thời điểm tạo ra thiết kế bố trí đó. Còn tính mới
thương mại của thiết kế bố trí được xác định nếu thiết kế đó chưa được khai thác
thương mại tại bất kỳ nơi nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký.
(iv) Nhãn hiệu
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh khác nhau [31, Khoản 16 Điều 4]. Nhãn hiệu hàng hoá có thể
là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc

nhiều màu sắc. Điều kiện để nhãn hiệu được bảo hộ gồm: là dấu hiệu nhìn thấy
được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết
hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể
khác.
(v) Tên thương mại
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh nhằm phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh
doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh [31, Khoản 21 Điều 4].
Điều kiện để tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt bao gồm: chứa
thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng; không
trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử
dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; không trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã
được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.
(vi) Chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp ứng đủ các
điều kiện luật định. Điều kiện để chỉ dẫn địa lý được bảo hộ bao gồm: sản phẩm


mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc
nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng,
chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng
lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định. Trong chỉ dẫn địa
lý, đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa này là tên gọi, chỉ dẫn đã trở
thành tên gọi chung của hàng hóa ở Việt Nam; chỉ dẫn địa lý của nước ngoài mà tại
nước đó chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn
được sử dụng; chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo
hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn
gốc của sản phẩm; chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về nguồn

gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.
(vii) Bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí
tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh [31, Khoản 23 Điều
4]. Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: không phải là hiểu
biết thông thường và không dễ dàng có được; khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ
tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc
không sử dụng bí mật kinh doanh đó; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp
cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Ngoài ra, còn có các thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh
gồm: bí mật về nhân thân; bí mật về quản lý nhà nước; bí mật về quốc phòng, an
ninh và thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.
1.2. Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
1.2.1.1. Khái quát về chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý là một thuật ngữ được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau tùy thuộc vào mục đích và phạm vi nghiên cứu, cụ thể:
Theo cách hiểu thông thường, chỉ dẫn địa lý thường mang các dấu hiệu
nhằm phân biệt sản phẩm của những khu vực sản xuất khác nhau, hay nói cách
khác, các dấu hiệu về mặt địa lý có chức năng chỉ định đến một địa danh nhất định.
Dấu hiệu đó có thể chỉ đến một quốc gia như Scotch Whisky, French wine…hay


một địa danh bất kỳ (ví dụ: Phú Quốc, Parma, Camebert…); cũng có khi dấu hiệu
đó là một hình ảnh đặc trưng của một khu vực, một vùng lãnh thổ (như hình ảnh
gấu trúc của Trung Quốc, kanguru của Úc hay biểu tượng chùa Một Cột của Việt
Nam…); một công trình kiến trúc biểu tượng cho một địa danh (như tháp Eiffel
biểu tượng của nước Pháp, lụa Pisa của Ý…); hoặc những nhân vật nổi tiếng của
một quốc gia, khu vực (chẳng hạn: rượu mạnh Napoléon, socola Mozart…)…[22,
tr.9]

Dưới góc độ thương mại, chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của
sản phẩm và nguồn gốc địa lý này được coi là một trong những yếu tố cơ bản nói
lên danh tiếng của sản phẩm. Danh tiếng đó có được căn bản là nhờ yếu tố chất
lượng, đặc tính sản phẩm, hoặc cũng có thể nhờ hoạt động quảng bá, xúc tiến
thương mại của chính các nhà sản xuất trong khu vực nhưng điều này không có
nghĩa là mối liên hệ, ràng buộc giữa chất lượng, đặc tính sản phẩm không chủ yếu
gắn với khu vực địa lý đó. Một đặc điểm chung của các sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý này là ý nghĩa về mặt địa lý của chúng, tức là chức năng chỉ định một khu vực,
địa điểm hay một đất nước cụ thể và khi nghe nhắc tới những tên gọi này, người lại
thường nghĩ về các sản phẩm hơn là nghĩ về những địa danh được chỉ ra. Như vậy,
chỉ dẫn địa lý có thể trở thành tài sản thương mại có giá trị và hoàn toàn có thể bị
bắt chước hoặc làm giả. Yêu cầu đặt ra là cần phải có những quy định cụ thể của
pháp luật để bảo vệ chỉ dẫn địa lý nhằm chống lại hành vi làm giả hoặc bắt chước
khiến cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm hàng
hóa.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” được đưa ra cả trong các
điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
Trên phạm vi quốc tế, khái niệm “chỉ dẫn địa lý” lần đầu tiên được đưa ra
hay thừa nhận năm 1994 tại Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs). Trước khi Hiệp định này ra đời, Công
ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp (Công ước Paris) năm 1883 và Thỏa ước
Madrid năm 1891 (Thỏa ước Madrid) về chống chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối về
nguồn gốc hàng hóa đã đề cập đến việc bảo hộ chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ
hàng hóa. Tuy nhiên, Công ước này lại không đưa ra định nghĩa về hai khái niệm
trên mà chỉ nhắc đến chúng với tư cách là các đối tượng SHCN được bảo hộ [15,


Điều 1.2]. Sau đó, Hiệp định Lisbon về bảo hộ và đăng ký quốc tế về tên gọi xuất
xứ hàng hóa năm 1958 đã lần đầu đưa ra khái niệm về tên gọi xuất xứ hàng hóa và
định nghĩa này vẫn được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia Châu Âu.

Về khái niệm chỉ dẫn địa lý, Hiệp định TRIPs quy định: “Chỉ dẫn địa lý là
những chỉ dẫn về hàng hóa có nguồn gốc từ lãnh thổ của một nước thành viên hoặc
từ một khu vực hay địa phương trong lãnh thổ đó mà chất lượng, uy tín hay đặc tính
khác của hàng hóa chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định" [21, Điều 22.1]. Khái niệm
này có nhiều điểm khác biệt với khái niệm chỉ dẫn nguồn gốc được quy định trong
Công ước Paris năm 1883 và khái niệm tên gọi xuất xứ được quy định trong Hiệp
định Lisbon năm 1958.
Tư cách thành viên WTO và Hiệp định TRIPs dẫn đến thực tế là khái niệm
“chỉ dẫn địa lý” nêu trên được ghi nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn, ở
Trung Quốc, chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ xuất xứ địa lý của hàng hóa mà
chất lượng đặc thù, danh tiếng hoặc các phẩm chất khác của hàng hóa về cơ bản do
yếu tố tự nhiên và văn hóa của vùng địa lý quyết định [42, Điều 16]. Ở Thái Lan,
chỉ dẫn địa lý là tên, biểu tượng hoặc bất cứ một chỉ dẫn nào dùng để chỉ về một
quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia, và có khả năng
phân biệt hàng hóa xuất xứ từ đó có chất lượng, danh tiếng hoặc các đặc tính khác
chủ yếu do nguồn gốc địa lý tạo nên [45]. Còn ở Malaysia, chỉ dẫn địa lý là những
chỉ dẫn phân biệt bất cứ hàng hóa có nguồn gốc trong một quốc gia, lãnh thổ, một
vùng, một địa phương trong quốc gia đó hoặc lãnh thổ đó, có chất lượng, danh tiếng
hoặc các đặc tính khác của hàng hóa chủ yếu do nguồn gốc địa lý của hàng hóa
quyết định [43].
Như vậy có thể thấy, dù câu chữ quy định có thể khác nhau nhưng nhìn
chung khái niệm chỉ dẫn địa lý theo các Điều ước quốc tế và luật pháp một số quốc
gia đều thể hiện ba yếu tố cơ bản và quan trọng liên quan đến chỉ dẫn địa lý:
Thứ nhất, chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý. Nghĩa là, chỉ
dẫn địa lý thường được thể hiện dưới dạng từ, ngữ, biểu tượng hoặc hình ảnh giúp
nhận biết về mặt thị giác nguồn gốc địa lý của hàng hóa.
Thứ hai, hàng hóa sử dụng chỉ dẫn địa lý phải bắt nguồn từ lãnh thổ hoặc từ
khu vực, địa phương thuộc lãnh thổ đó. Về mặt pháp lý, yếu tố này được nhấn mạnh



khi đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý là yếu tố hàng hóa được gắn chỉ dẫn địa lý
nếu hàng hóa đó bắt nguồn từ một lãnh thổ, một khu vực hoặc một địa phương
thuộc lãnh thổ đó.
Thứ ba, hàng hóa có chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính nhờ xuất xứ địa lý
mang lại. Điều này có nghĩa chỉ dẫn địa lý không những chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ
của hàng hóa mà còn quyết định chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính riêng biệt của
hàng hóa. Nói cách khác, yếu tố thứ ba khẳng định chất lượng, danh tiếng hoặc đặc
tính khác của hàng hóa được quyết định bởi nguồn gốc địa lý, bao gồm yếu tố tự
nhiên như khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn nước… và yếu tố con người như kỹ năng,
kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất, chế biến sản phẩm hay một nét văn hóa truyền
thống của địa phương đó.
Ở Việt Nam, mặc dù nước ta tham gia vào Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) từ năm 1976, nhưng do đặc trưng của một nền kinh tế chậm phát triển, nên
vấn đề bảo hộ quyền SHTT ở nước ta nói chung và bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào thời
kỳ đó nói riêng chưa được quan tâm đúng mức.
Ban đầu, các đối tượng SHCN được bảo hộ mới chỉ có sáng chế, nhãn hiệu
hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp và giải pháp hữu ích được quy định trong các điều
lệ riêng rẽ nhau. Các quy định đầu tiên có liên quan đến chỉ dẫn địa lý mới được
đưa vào Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN năm 1989. Pháp lệnh này chỉ nhắc đến chỉ
dẫn địa lý khi đề cập đến tên gọi xuất xứ hàng hóa như là một trong năm đối tượng
SHCN được bảo hộ, bên cạnh bốn đối tượng nói trên.
Thực tế hoạt động SHCN cho thấy trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm
1996, dù số lượng đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN khác đều tăng lên đáng
kể nhưng không có một tên gọi xuất xứ nào được đăng ký bảo hộ do tên gọi xuất xứ
hàng hóa vẫn còn là một khái niệm pháp lý khá xa lạ với nhận thức của các cơ quan
chức năng, doanh nghiệp và thực tiễn hoạt động của nền kinh tế Việt Nam. Việc
đưa tên gọi xuất xứ hàng hóa vào đối tượng SHCN được bảo hộ không xuất phát từ
nhu cầu thực tế của Việt Nam trong việc bảo hộ đối tượng này mà do nhu cầu xây
dựng hệ thống bảo hộ quyền SHCN cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Do đó, nội
dung của Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN năm 1989 thực chất là sự sao chép nội

dung Công ước Paris 1883 mà Việt Nam đã là thành viên từ năm 1949 [38]. Các


quy định về tên gọi xuất xứ này không được áp dụng trên thực tiễn, mặc dù Việt
Nam có rất nhiều các sản phẩm chất lượng cao gắn với tên địa danh.
Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời chính thức thiết lập chế độ pháp lý cao nhất
cho việc xác lập, bảo hộ và thực thi quyền SHTT tại Việt Nam. Dù vậy, thời điểm
này, tên gọi xuất xứ vẫn là một vấn đề pháp lý mới mẻ ở Việt Nam. Hoạt động xây
dựng và đăng ký bảo hộ quyền SHCN đối với tên gọi xuất xứ chỉ thực sự bắt đầu ba
năm sau đó, khi Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp ký kết bản ghi nhớ về
chống hàng giả và bảo vệ tên gọi xuất xứ. Bản ghi nhớ này nêu rõ, Việt Nam sẽ bảo
hộ sản phẩm có tên gọi xuất xứ của Pháp như Cognac, Champagne…, còn Pháp sẽ
giúp Việt Nam xây dựng một số tên gọi xuất xứ để bảo hộ tại Việt Nam, Pháp và
châu Âu. Hai sản phẩm mang địa danh đầu tiên được lựa chọn để xây dựng tên gọi
xuất xứ là nước mắm Phú Quốc và chè Shan Tuyết Mộc Châu.
Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bộc lộ nhiều bất
cập không phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của
đất nước nên đã được thay thế bởi Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo Bộ luật mời này
chỉ dẫn địa lý được khẳng định là một trong các đối tượng của quyền SHCN [29,
Khoản 5 Điều 751]. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 không nêu khái niệm về
chỉ dẫn địa lý mà chỉ nêu mục đích của việc sử dụng chỉ dẫn địa lý là nhằm chỉ dẫn
xuất xứ, nguồn gốc của sản phẩm thuộc về các tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều
kiện do pháp luật SHTT quy định. Sau đó, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ra đời đã
đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý theo đó “chỉ dẫn địa” lý là dấu hiệu dùng để chỉ
sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”
[31, Khoản 22 Điều 4].
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định, chỉ những dấu hiệu nhìn thấy
được mới có thể được đăng ký là chỉ dẫn địa lý. Những dấu hiệu như âm thanh, màu
sắc, mùi vị… sẽ không được xem là chỉ dẫn địa lý [7, Điều 45.2]. Thêm vào đó,
khái niệm chỉ dẫn địa lý còn được bổ sung bởi điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý quy

định tại Điều 79.2 Luật Sở hữu trí tuệ như sau: “Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có
danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định”.


Như vậy, về bản chất, khái niệm chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật
Việt Nam khá tương đồng với quy định của Hiệp định TRIPs. Theo đó, chỉ dẫn địa
lý là các dấu hiệu để chỉ nguồn gốc của sản phẩm. Điều này có nghĩa, ngoài các dấu
hiệu trực tiếp như tên một tỉnh (Buôn Ma Thuột, Bình Thuận, Lạng Sơn…), huyện
(Tân Cương, Lục Ngạn…), các dấu hiệu khác như tên một giống chè (Shan Tuyết),
tên một hòn đảo (Phú Quốc…), hay tên một phiên chợ (Chợ Đào) hoặc những dấu
hiệu hình ảnh, biểu tượng… cũng có thể được xem là chỉ dẫn địa lý. Đồng thời, theo
quy định trên, chỉ dẫn địa lý là những dấu hiệu có chức năng thông tin về nguồn gốc
địa lý của sản phẩm. Đây là điểm phân biệt giữa chỉ dẫn địa lý với các chỉ dẫn
thương mại khác như nhãn hiệu hay tên thương mại.
1.2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
Quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý là quyền SHCN mang tính chủ quyền
khác với các quyền SHCN đối với sáng chế hay nhãn hiệu. Đến nay, quyền SHCN
đối với chỉ dẫn địa lý được hơn 160 quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) công nhận thông qua Hiệp định TRIPs áp dụng cho lĩnh vực chỉ
dẫn địa lý. Ở Việt Nam, bảo hộ chỉ dẫn địa lý là việc mới được pháp luật quy định
trong những năm gần đây nên hầu như các cơ quan, tổ chức, cá nhân còn chưa hiểu
hết ý nghĩa, nội dung cũng như lợi ích của việc bảo hộ này.
Theo quy định tại Điều 751 Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền sở hữu công
nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý thuộc về Nhà nước, quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý
nhằm chỉ dẫn xuất xứ, nguồn gốc của sản phẩm thuộc về tổ chức, cá nhân đáp ứng
các điều kiện do pháp luật về SHTT quy định. Theo nội dung Điều 4.4 Luật Sở hữu
trí tuệ, quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý là quyền của tổ chức, cá nhân đối với chỉ
dẫn địa lý. Đồng thời, pháp luật cũng quy định quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý
được xác lập trên cơ sở quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ về việc cấp Giấy chứng

nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý [7, Mục 1.3].
Về đặc điểm, quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý có một số đặc điểm chung
của quyền SHCN như tính vô hình, tính hạn chế về không gian. Ngoài ra, quyền
SHCN đối với đối tượng này còn có một số đặc điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, người sử dụng chỉ dẫn địa lý không phải là chủ sở hữu chỉ dẫn
địa lý. Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước. Nhà nước trao quyền


×