NGUYỄN XUÂN PHÚC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
NGUYỄN XUÂN PHÚC
2014 - 2016
HÀ NỘI – NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
NGUYỄN XUÂN PHÚC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI – NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Nguyễn Xuân Phúc
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo của Viện Đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến
thức cho tôi trong suốt thời gian tôi học chương trình Cao học
Luật tại cơ sở đào tạo.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Đặng Vũ Huân,
Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật – người thầy đã tận
tình hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt bản luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Xuân Phúc
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
TỔNG BIÊN TẬP TẠP TRÍ DÂN CHỦ VÀ PHÁP LUẬT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP…………………………………………………………………………….8
1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp…………………………………………………………………………8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh………8
1.1.2. Nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp……………………………………………………………………16
1.2. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp………………………………………………………………………..20
1.2.1. Chế định điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp...........................................................................20
1.2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh với
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và nguyên tắc áp dụng pháp luật...24
1.2.3. Xác định và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp………………………………………………………………...27
Kết luận Chương 1………………………………………………………...30
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY...............................................................................................................32
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay……………….32
2.1.1. Thực trạng quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam…………………………….32
2.1.2. Các chế tài chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở
hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam……………………………………...38
2.2. Thực trạng xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở nước ta thời gian qua…………………………..47
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp………………………………………………52
2.3.1. Những thành tựu đạt được…………………………………………...52
2.3.2. Những vấn đề còn vướng mắc, bất cập………………………………55
Kết luận Chương 2………………………………………………………...59
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM………………………………………………………….60
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay....................................60
3.1.1. Cần có văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh đối với chế định
chống cạnh tranh không lành mạnh………………………………………………..60
3.1.2. Thống nhất nguyên tắc áp dụng pháp luật, các hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh thì bị điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật về cạnh tranh…….61
3.1.3. Tăng cường năng lực và tính độc lập của cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh…………………………………………………………………………..63
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam…………………………………………………………………………..65
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam………………...65
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam………………...68
Kết luận Chương 3.......................................................................................72
KẾT LUẬN..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................75
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền sở hữu công nghiệp là tài sản vô hình chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Đối tượng sở hữu công nghiệp là một
yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại nên các đối thủ cạnh tranh có
thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm xâm hại các đối tượng
này để thu lợi bất chính trong kinh doanh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã và
đang tích cực thực hiện các hoạt động bảo vệ các đối tượng sở hữu công nghiệp của
mình, trong đó, có quyền chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong hai lĩnh vực chủ
yếu của pháp luật cạnh tranh và ra đời từ rất sớm. Ở bình diện quốc tế, Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 cũng quy định về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và các hành vi bị cấm tại Điều 10bis, đó là: “Bất kỳ hành vi
nào trái với các thông lệ trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều
bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”. Các hành vi bị cấm bao gồm: Hành
vi có khả năng gây nhầm lẫn về nơi sản xuất hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, làm
mất uy tín đối thủ cạnh tranh, lừa dối công chúng... Hiệp định về các khía cạnh
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm 1994 của WTO cũng đã đề cập
vấn đề cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ tại Điều 8.2 và Điều 40.
Ở Việt Nam, sau khi chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta
cũng đã rất nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế trên nhiều lĩnh
vực, hệ thống pháp luật quốc gia cũng được bổ sung và hoàn thiện theo hướng phù
hợp với pháp luật quốc tế và khu vực. Một trong những thành tựu của quá trình này
là sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Cùng
1
với sự phát triển phong phú, đa dạng của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
điều kiện kinh tế thị trường, nhận thức rõ vai trò của quyền sở hữu trí tuệ nói chung,
quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và yêu cầu bảo vệ trật tự cạnh tranh lành mạnh
trong kinh doanh, những năm qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có nhiều
giải pháp tích cực để triển khai mạnh mẽ các quy định của Luật Cạnh tranh cũng
như Luật Sở hữu trí tuệ vào cuộc sống. Quá trình này đã đạt được nhiều thành tựu
đáng khích lệ, tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc thực thi pháp luật về chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp còn gặp phải không ít
khó khăn, đặc biệt là việc xác định rõ về nội hàm hành vi và nguyên tắc áp dụng
pháp luật. Đối với việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cả hai văn
bản luật là Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ cùng có các quy định cụ thể,
nhưng do khác nhau về mục đích, phạm vi và phương pháp điều chỉnh, nên giữa
chúng có những điểm không tương đồng. Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ hướng
tới bảo hộ các đối tượng mà quyền sở hữu được xác lập một cách rõ ràng, đầy đủ
thông qua thủ tục đăng ký, cấp văn bằng bảo hộ hoặc các tiến trình pháp lý khác do
Nhà nước quy định. Còn pháp luật về cạnh tranh lại bảo hộ các lợi thế cạnh tranh
không được bảo hộ thông qua văn bằng bảo hộ, chẳng hạn như nhãn hiệu chưa đăng
ký hay bí mật kinh doanh. Như vậy, đối tượng được bảo hộ trong Luật Cạnh tranh
năm 2004 rộng hơn so với Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 trong trường hợp bị các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm hại.
Trên thực tế, việc thực thi Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp vẫn tiếp tục là vấn đề nóng, diễn ra thường xuyên, ở tất cả mọi lĩnh vực
ngành nghề, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của doanh nghiệp, tạo nên
nhiều nhầm lẫn, lừa dối đối với người tiêu dùng. Nguyên nhân là do nhận thức và
hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp chưa đầy đủ, đồng thời, không loại trừ
những trường hợp cố ý, nhằm mục đích gây ra thiệt hại hay làm cản trở đến hoạt
động thương mại bình thường của đối thủ cạnh tranh. Đối với quá trình thực thi
pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp,
bất cập có thể thấy rõ nhất hiện nay là nguyên tắc áp dụng pháp luật và thẩm quyền
2
xử lý vi phạm. Nếu xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Luật Cạnh
tranh, thì thẩm quyền thuộc về Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), còn nếu
xử lý theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, thì thẩm quyền có phạm vi rộng, rất
nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính như: Cục Quản lý thị trường,
Công an kinh tế, Thanh tra chuyên ngành, Hải quan… Bên cạnh đó, việc xác định
chính xác hành vi vi phạm là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay là các hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một việc làm khá phức tạp, song điều này lại
quyết định việc lựa chọn nguyên tắc áp dụng pháp luật để xử lý nên đã gây không ít
khó khăn trong việc xử phạt, khó tìm được sự thống nhất trong chế tài xử phạt và có
thể xảy ra khả năng cùng một hành vi sẽ bị phạt hai lần…
Với những lý do trên, việc đặt yêu cầu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật là có tính cấp thiết và
có ý nghĩa về mặt khoa học cũng như về mặt thực tiễn. Bởi vậy, em đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về cạnh tranh được hình thành và phát triển từ rất sớm nhằm điều
chỉnh một trong những quy luật rường cột của kinh tế thị trường, đó là quy luật cạnh
tranh. Điều ước quốc tế sớm nhất liên quan đến pháp luật về cạnh tranh là Công ước
Paris được ký kết ngày 20/3/1883 cũng chủ yếu là nhằm chống lại các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Những năm qua, trên thế
giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể tên một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu như: Burton Ong (2006), “Origins, objectives and
structure of the Singapore Competition Act”, World Competition; F.Jenny (2004),
“Competition, Trade and Development before and after Cancun”; Josef Drex, Mor
Bakhoum, Eleanor M. Fox, Michal S. Gal, David J.Gerber (2012) “Competition
Policy and Regional Integration in Developing Countries… Rodyk & Davidson
LLP (2012) “Competition laws in ASEAN: A South-East Asian perspective”; The
3
World Bank Group (2015), “Competition Policy in Vietnam - Inputs for the Vietnam
2035 Report”…
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật nhằm đảm bảo để vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã có nhiều
công trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh, chống hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, vấn đề kiểm soát độc quyền… Đối với pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp, có một số công trình tiêu biểu như: “Về pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền sở hữu công
nghiệp ở nước ta” của TS. Nguyễn Thanh Tâm (2001) trên Tạp chí Thương mại;
“Cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp” của TS. Nguyễn Thanh Tâm
(2006) trên Tạp chí Luật học số 9/2006; “Xử lý một số vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
dưới góc độ Luật Cạnh tranh”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Mai (2005), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ
luật học của tác giả Trương Thị Thanh Tuyết (2011), Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội; “Kiểm soát hợp đồng nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp
luật về cạnh tranh và pháp luật Sở hữu trí tuệ”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác
giả Trần Thị Hồng Thúy (2012), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; “Hành vi
cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Kim Liên (2013), Khoa
Luật, Học viện Khoa học Xã hội… Ngoài ra, còn có nhiều các công trình nghiên
cứu chuyên sâu các bài viết đăng trong các kỷ yếu hội thảo hay tọa đàm khoa học
đề cập các khía cạnh khác nhau của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh ở cả khía cạnh lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu
chuyên biệt pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp nhằm làm rõ thực trạng môi trường pháp lý và kiến nghị giải pháp
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh thì vẫn chưa có một công trình nào đề cập đến.
Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu
nói trên, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp
4
luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, từ đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực
này ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là nhằm khảo cứu, hệ thống và phân
tích các vấn đề lý luận cũng như thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác
định là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thi hành pháp luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, thực
tiễn, các quy định của pháp luật quốc tế và của pháp luật Việt Nam về chống cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; thực trạng cơ chế thi
hành pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để làm sâu sắc hơn đề tài nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của
luận văn này về thời gian được giới hạn kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 và
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được ban hành cho tới nay.
5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học cơ bản như: phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa
trong khi tìm hiểu, đánh giá pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp nhằm tìm ra những hạn chế và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện cho phù hợp.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được pháp luật điều chỉnh và quy
định cụ thể trong Luật Cạnh tranh. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp, quyền chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng được quy
định hết sức cụ thể trong Luật Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật
về chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về sở hữu công nghiệp hiện
hành chủ yếu là các quy phạm nội dung và chưa được hướng dẫn một cách cụ thể,
đặc biệt là nguyên tắc áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Trên tinh thần đó, nội dung nghiên cứu
của luận văn này sẽ góp phần đáng kể vào việc:
(i) Làm rõ các vấn đề lý luận của pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
(ii) Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
thời gian qua;
(iii) Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, cũng như nâng cao
hiệu quả cơ chế thi hành pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Có thể hiểu đơn giản, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh
tranh không đẹp, vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép, đi ngược lại truyền
thống kinh doanh lành mạnh, công bằng. Nhà nghiên cứu người Pháp Dominique
Brault đã trích dẫn một so sánh mang tính hình tượng: “Cạnh tranh là một thứ rượu,
dùng đúng liều nó là chất kích thích, dùng quá liều nó trở thành thuốc độc”1. Nhà
nước không chỉ tạo môi trường pháp lý an toàn cho các chủ thể thực hiện việc cạnh
tranh, mà còn cần ngăn chặn việc các đối thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế cho mình
bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ muốn. Nếu không, trật tự kinh tế sẽ bị rối loạn và nhiều
doanh nghiệp trung thực bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Xét một cách khái quát, pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn các hành vi của doanh nghiệp nhằm
tạo lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng trước các đối thủ cạnh tranh khác.
Những vụ việc thực tế về cạnh tranh không lành mạnh đều thể hiện một bản chất
chung, mà theo đó doanh nghiệp toan tính đạt được thành công trên thị trường
không dựa trên nỗ lực của bản thân cải thiện chất lượng, giá cả của sản phẩm, mà
bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm người khác hoặc tác động sai trái
lên khách hàng. Tuy nhiên, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, khi cơ chế thị trường
khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh tự do và sáng tạo, việc đánh giá tính
1
Dominique Brault (2006), Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp,
NXB Chính trị quốc gia, tập 1.
8
chính đáng trong hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho
cạnh tranh lành mạnh là khó khăn mà các nhà lập pháp có vẻ đã không giải quyết
được triệt để và trong nhiều trường hợp chỉ đề ra các tiêu chí khái quát chung và
trao quyền cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tự đánh giá và quyết định ở
những vụ việc cụ thể.
Sự không rõ ràng trong khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh được thể
hiện ngay tại một trong những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất của
nó, nằm tại Điều 10bis Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Cạnh
tranh không lành mạnh được hiểu là những hành vi cạnh tranh không trung thực, vi
phạm những nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh doanh, được tiến hành trong quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nhằm hưởng lợi bất hợp pháp từ thành quả kinh
doanh của người khác hoặc dèm pha đối thủ cạnh tranh, qua đó, giành giật khách
hàng về phía mình. Điều khoản này được bổ sung được bổ sung vào Công ước năm
1900 và được sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó, bất kỳ
hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công
nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có thể
thấy, tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh/không lành mạnh của một
hành vi cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn
định, ở mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn
hoá, xã hội và lịch sử của quốc gia đó.
Trên thực tế, khái niệm trong Điều 10bis đã có ý bỏ ngỏ cho pháp luật quốc
gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến cấp độ pháp luật
quốc gia, tình hình cũng không có gì tiến triển hơn. Sự không rõ ràng trong việc xác
định phạm vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục được thể hiện trong pháp luật
nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này được gọi là “thông lệ thương
mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là “nguyên tắc ngay tình”, tại Italia là
“tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là “đạo đức kinh
doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp luật, các toà án
đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các nguyên tắc giải
9
quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp luật đã không đưa
ra được chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành mạnh, được chấp nhận
trong kinh doanh. Tiêu chí “công bằng” hay “trung thực” phản ánh các quan niệm
đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học… tồn tại trong một xã hội,
do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong cùng một quốc gia. Theo
thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Hơn nữa, luôn có những hoạt động
cạnh tranh không lành mạnh mới, khi tính sáng tạo trong kinh doanh không có giới
hạn. Mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất cả các hoạt động cạnh
tranh hiện tại và tương lai, có thể đồng thời xác định mọi hành vi bị ngăn cấm và
linh hoạt đủ để thích nghi với những thông lệ thị trường mới, cho đến nay vẫn thất
bại2.
Luật Cạnh tranh Việt Nam đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh
tại khoản 4 Điều 3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh
tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Nhìn chung, định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh của Luật Cạnh tranh năm
2004 tương tự với định nghĩa của Công ước Paris và pháp luật các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, tại định nghĩa này, một lần nữa có
thể thấy tiêu chí đánh giá về tính chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh chỉ
được nêu chung chung là “các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”.
Công ước Paris ít nhất còn đưa ra hai tiêu chí cụ thể là tính trung thực và tính thiện
chí, để dựa vào đó cơ quan công quyền đánh giá một hành vi cụ thể trên thực tế có
tỏ ra trung thực và thiện chí hay không. Đồng thời Công ước cũng khuyến nghị các
nước tham gia cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá trong nội luật của mình để thuận tiện
cho việc áp dụng pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2
WIPO (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, tr.132-133
10
Xuất phát từ khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên, có thể
xác định một số đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh như sau:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các
chủ thể kinh doanh thực hiện trên thị trường, hướng tới đối thủ cạnh tranh và nhằm
mục đích lợi nhuận
Trong quá trình kinh doanh trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh
doanh của một doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với
các doanh nghiệp khác, do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem
xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của
đời sống kinh tế. Đặc điểm này khiến cho pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
tại một số quốc gia có thể có phạm vi áp dụng rất rộng và điều chỉnh những hành vi
đa dạng. Một ví dụ gần đây được nhiều người biết đến là Luật Chống cạnh tranh
không lành mạnh Nhật Bản quy định về việc hối lộ cũng bị coi là một dạng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh3. Quy định này được bổ sung năm 1998 và được coi là
sự nội luật hoá Công ước của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) về
chống hối lộ đối với quan chức nước ngoài trong giao dịch quốc tế.
Trên thực tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện bởi các
chủ thể là các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây,
khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá
nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên
nghiệp. Theo đó, các chủ thể này bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam. Ở phạm vi rộng hơn, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể
áp dụng đối với hành vi của các hiệp hội doanh nghiệp và các cá nhân hành nghề tự
do. Các đối tượng không phải là chủ thể kinh doanh thương mại sẽ không phải là
đối tượng điều chỉnh của quan hệ cạnh tranh. Các chủ thể này dù có thực hiện
những hành vi có dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng không
3
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh Nhật Bản năm 1998, Điều 18 (Tài liệu dịch).
11
được coi là chủ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng vẫn là chủ thể
trong quan hệ pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Những đối tượng này là
các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu
dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế... Có những tình huống một
số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông… thực hiện những hành vi xâm
phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp, ví dụ như tung tin không
trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. Các hoạt động này tuy liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động cạnh tranh của các chủ thể là doanh
nghiệp nhưng không được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong trường
hợp này, các hành vi trên bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh, đồng thời còn vi
phạm các quy định của pháp luật trong các lĩnh vực khác như pháp luật dân sự, báo
chí… Việc xử lý các trường hợp đó sẽ tuân theo quy định của Luật hành chính hoặc
Luật dân sự (theo chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng).
Không thể nói đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi các chủ thể
không ở trong vị thế "cạnh tranh" với nhau. Các chủ thể thực hiện hành vi cạnh
tranh không lành mạnh phải thực hiện hành vi trong quá trình kinh doanh và vì mục
đích cạnh tranh. Xuất phát từ mục đích của doanh nghiệp, hiệp hội là kinh doanh
thu lợi nhuận nên việc thực hiện các hành vi này nhất thiết đòi hỏi doanh nghiệp,
hiệp hội đó phải thực hiện trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nếu
các hành vi nằm ngoài chức năng kinh doanh của chủ thể và không vì mục tiêu lợi
nhuận thì không được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cuối cùng, liên quan đến trách nhiệm cá nhân, một số quốc gia còn mở rộng
phạm vi đối tượng chịu trách nhiệm pháp lý về vi phạm đến các cá nhân là lãnh đạo
doanh nghiệp và không loại trừ các chế tài mang tính hình sự. Cũng theo quy định
của Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh Nhật Bản, hình phạt tối đa đối với các
cá nhân vi phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu yên tiền phạt.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối
lập, đi ngược lại các thông lệ, truyền thống kinh doanh tốt đẹp, các nguyên tắc đạo
12
đức kinh doanh, những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài
trong hoạt động kinh doanh trên thị trường
Đặc điểm này phần nào thể hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh được
hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi hỏi cơ quan xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh phải có những hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trường để
phán định một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xử sự chung trong kinh doanh
tại một thời điểm nhất định hay không. Do đặt tiêu chí đánh giá tính lành mạnh của
hành vi cạnh tranh dựa trên các thông lệ kinh doanh công bằng, thiện chí, nên pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ các doanh
nghiệp làm ăn trung thực, bảo vệ các chuẩn mực cạnh tranh lành mạnh trong quá
trình kinh doanh, xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng để cạnh tranh
đúng là động lực để phát triển nền kinh tế. Mặt khác, một số thông lệ kinh doanh
được công nhận trong một số ngành, lĩnh vực nhất định, song lại bị coi là không
phù hợp ở những ngành, lĩnh vực khác. Những trường hợp như vậy, việc đánh giá
hành vi phải dựa trên các chuẩn mực chung hơn là về đạo đức kinh doanh, đồng
thời, phải xem xét khả năng bị phương hại đến quyền lợi từ phía người tiêu dùng.
Một khía cạnh khác cũng cần quan tâm đó là yếu tố chủ quan của chủ thể thực hiện
hành vi. Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình luôn gắn với lỗi cố ý
của chủ thể vi phạm, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực
đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xử lý, việc xem xét đánh giá yếu tố lỗi được trao cho toà án
hoặc cơ quan xử lý vụ việc và nhiều trường hợp mang tính chất suy đoán hơn là đòi
hỏi các bằng chứng cụ thể về ý định cạnh tranh không lành mạnh của chủ thể thực
hiện hành vi4. Khi vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được nhấn mạnh định hướng thực
thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh thì việc xem xét yếu tố lỗi càng không
4
Đoàn Tử Tích Phước, “Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh” trên
Website của Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công thương (www.qlct.gov.vn).
13
mang tính quyết định. Về nguyên tắc, một hành vi của doanh nghiệp cho dù chỉ là
vô ý, bất cẩn nhưng gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng vẫn phải bị ngăn chặn.
Bên cạnh đó, đặc điểm này còn thể hiện bản chất không lành mạnh của hành
vi cạnh tranh. Tuy nhiên, các thuật ngữ "các thông lệ, truyền thống kinh doanh tốt
đẹp, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh" đều là những thuật ngữ mang tính chất
trừu tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Trên thực tế chưa có bất kỳ căn cứ pháp lý
hoặc cấu thành pháp lý cụ thể nào để xác định chuẩn mực đạo đức trong kinh
doanh. Do đó, cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm "hành vi không
lành mạnh" để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là không lành mạnh.
Để khắc phục tình trạng này, pháp luật cạnh tranh ở nước ta đã quy định được một
số nội dung cơ bản như sau:
Một là, Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh bị coi là
không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng. Theo đó, các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật
kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp khác; Gây rối hoạt
động kinh doanh của người khác; Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh; Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Phân biệt đối xử trong hiệp
hội; Bán hàng đa cấp bất chính và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác
trong các lĩnh vực về giá, về sở hữu trí tuệ được quy định trong các văn bản pháp
luật tương ứng.
Hai là, các nguyên tắc về đạo đức kinh doanh được xác định dựa trên (i) căn
cứ luật định, và (ii) các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng
rãi. Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật,
một khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh.
Trong trường hợp này, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đồng nghĩa với hành vi
cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể là
hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp luật (bao gồm
các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác như pháp luật
thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…) hoặc là hành vi
14
vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy định như pháp luật khuyến
mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại. Các tập quán kinh doanh thông
thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp dụng đối với những hành vi chưa được
pháp luật dự liệu là cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác, căn cứ này là biện
pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một
hành vi cụ thể, nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh
tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu
dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh
và khắc phục được tình trạng chóng lạc hậu của pháp luật cạnh tranh.
Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh của hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý,
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành
mạnh cụ thể luôn thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể vì quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý thức xã hội liên
quan đến xã hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể
dẫn đến hiện tượng là hành vi cạnh tranh bị coi là cạnh tranh không lành mạnh ở
nước này, nhưng được coi là lành mạnh ở nước khác. Ngoài ra, những hành vi cạnh
tranh luôn được sáng tạo không ngừng về hình thức thể hiện và phương thức cạnh
tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh mới và phát triển
không ngừng. Vì vậy, phạm vi của khái niệm cạnh tranh không lành mạnh cũng
phải luôn được bổ sung bởi sự nhận thức của con người về bản chất không lành
mạnh của những hành vi mới phát sinh.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại, có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là quyền,
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh có thể trực tiếp đã gây ra hậu quả thiệt hại (vật chất
và tinh thần) cho các đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, hậu quả của hành
vi cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể chỉ là tiềm năng, được xác định thông
15
qua một số căn cứ có thể gây ra thiệt hại cho các chủ thể trên, có nghĩa là một thiệt
hại sẽ xảy ra trong tương lai nếu không ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu thành vật chất
(thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) như dèm pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có
cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy
đoán nếu hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung
thực…
Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý
thuyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi
hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm
thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh
tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một,
một số đội tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc
sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt
hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại
đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm
giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối
với hai loại hành vi này khác nhau.
Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con
người về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ. Do đó việc các định hậu quả thiệt hại của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là không giống nhau giữa các thời điểm lịch sử khác nhau và giữa các
quốc gia khác nhau, tùy theo chính sách của mỗi nhà nước trong việc quản lý về
kinh tế nói chung và trong hoạt động quản lý môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa
các chủ thể kinh doanh thương mại.
1.1.2. Nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp
Cạnh tranh là một hoạt động tất yếu trong sản xuất, kinh doanh nhằm mục
16
đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá để đạt được lợi
nhuận cao nhất, tác động mạnh mẽ lên sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Trong quá trình cạnh tranh, không ít các chủ thể đã sử dụng các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh để lợi dụng thành quả kinh doanh của người khác nhằm thu lợi bất
chính và làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đối thủ cạnh tranh. Hành vi
cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh doanh, trong đó có lĩnh
vực sở hữu công nghiệp. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền
sở hữu công nghiệp giống những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung,
bên cạnh đó nó còn có những biểu hiện tương đối riêng biệt. Cụ thể là nó xâm hại
các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Ví dụ: Hành vi làm hàng nhái, hàng giả, thông tin sai lệch chỉ dẫn địa lý v.v..
Nếu một hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp thì nó sẽ vừa vi phạm pháp luật về cạnh tranh, vừa vi phạm pháp
luật về sở hữu trí tuệ5.
Theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883, một
điều ước quốc tế sớm nhất có quy định về việc chống cạnh tranh không lành mạnh,
có thể nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp như sau:
(i) Hành vi gây nhầm lẫn
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động
kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ được hiểu là tất cả các
hành vi có thể dẫn tới sự nhầm lẫn của khách hàng về nơi sản xuất, sản phẩm hàng
hoá, tên thương mại hoặc xuất xứ hàng hoá của một chủ thể kinh doanh đối với đối
thủ cạnh tranh khác... Chỉ cần có sự nhầm lẫn xảy ra trên thực tế là đủ để cấu thành
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc cố ý tạo nên sự nhầm lẫn là tình tiết tăng
nặng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Việc pháp luật quy định, nghiêm
cấm và xử lý các hành vi gây nhầm lẫn có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo hộ các
5
TS. Nguyễn Thanh Tâm, “Cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp”, Tạp chí Luật
học của Trường Đại học Luật Hà Nội, số 6 năm 2006, />
17
nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, tên thương mại nhằm chống lại các hành vi sử dụng
trái phép nhãn hiệu nổi tiếng của những hàng hoá, dịch vụ, cũng như hành vi sử
dụng trái phép các chỉ dẫn thương mại của các cơ sở kinh doanh. Tương tự như vậy,
các quy định ngăn cấm của pháp luật cũng phát huy tác dụng trong xử lý việc sử
dụng kiểu dáng sản phẩm gây nhầm lẫn hoặc tạo sự lừa dối người tiêu dùng về
nguồn gốc thương mại của sản phẩm hàng hoá.
(ii) Hành vi lừa dối
Hành vi lừa dối được hiểu là việc tạo ra một ấn tượng giả về các sản phẩm
hàng hoá hoặc dịch vụ của một đối thủ cạnh tranh. Theo Khoản 3.3, Điều 10bis
Công ước Paris năm 1883, những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng
trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá
trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá đều
bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Đây là hình thức thường gặp nhất của cạnh
tranh không lành mạnh và trong nhiều trường hợp gây nên hậu quả rất nghiêm
trọng, làm người tiêu dùng bị thiệt hại về tài chính (hoặc có thể nhiều thiệt hại khác)
do dựa vào thông tin không đúng về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ; đối tác cạnh tranh
trung thực bị mất khách hàng, tính lành mạnh của thị trường bị suy giảm cùng với
nhiều hậu quả bất lợi cho nền kinh tế.
Hành vi lừa dối không chỉ gây thiệt hại đến lợi ích người tiêu dùng mà còn
gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, ảnh hưởng đến sự lưu thông hàng hoá và dịch
vụ trên thị trường. Hành vi lừa dối trong hoạt động thương mại thể hiện chủ yếu là
các quảng cáo lừa dối, không trung thực.
(iii) Hành vi vi phạm bí mật thương mại
Sức mạnh cạnh tranh trong kinh doanh thường được dựa vào yếu tố kỹ thuật
như những giải pháp, hồ sơ thiết kế kỹ thuật, công thức pha chế hay chế tạo sản
phẩm, các bí quyết trong việc sản xuất hàng hoá công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Bí quyết thương mại có thể hiểu rộng hơn, bao hàm cả những đối tượng thuộc sở
hữu công nghiệp và những bí quyết riêng của doanh nghiệp tạo nên sức mạnh cạnh
tranh riêng có cho doanh nghiệp đó. Hiếm khi tồn tại một định nghĩa pháp lý đầy đủ
18