Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Pháp luật về bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 102 trang )

PHẠM VĂN SONG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
CẠNH TRANH CHO DOANH NGHIỆP

PHẠM VĂN SONG

2014 - 2016

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập
của riêng tôi. Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn trích

LUẬN VĂN THẠC SỸ

dẫn đầy đủ, trung thực. Kết quả nêu trong luận văn chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình khoa học nào khác.



PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
HàDOANH
Nội, ngày 06
tháng 10 năm 2016
CẠNH TRANH CHO
NGHIỆP
Tác giả luận văn
PHẠM VĂN SONG
Phạm Văn Song
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp cao học, tôi xin bày tỏ sự biết ơn
sâu sắc tới Thầy giáo - TS. Bùi Ngọc Cường vì sự giúp đỡ nhiệt tình và những
kinh nghiệm quý báu của Thầy đã dành cho tôi trong suốt thời gian hướng
dẫn tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô
giáo Khoa Sau đại học, cùng các thầy cô ở Viện Đại học Mở Hà Nội, những
người đã trang bị kiến thức cho tôi trong quá trình học tập.
Hà Nội, năm 2016
Tác giả luận văn


Phạm Văn Song


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
QPPL

Quy phạm pháp luật

CNTT

Công nghệ thông tin

TTHC

Thủ tục hành chính

QLCT

Quản lý cạnh tranh

CSDLQG

Cơ sở dữ liệu Quốc gia

PAKN

Phản ánh kiến nghị

DNNN


Doanh nghiệp nhà nước

GTVT

Giao thông vận tải


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ......................................................................... 7
1.1. Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh ...................................................... 7
1.2. Cơ sở hình thành quyền tự do cạnh tranh ................................................ 9
1.2.1. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường..................... 10
1.2.2. Động lực phát triển kinh tế -thôi thúc cạnh tranh hình thành, phát
triển .............................................................................................................. 12
1.3. Yếu tố đảm bảo quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp ................... 17
1.3.1. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh ......................... 18
1.3.2. Kiểm soát các hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh: chống độc
quyền và kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh. ......................... 18
1.3.3. Hạn chế, xóa bỏ các quy định, thủ tục hành chính cản trở đến tự do
cạnh tranh .................................................................................................... 20
1.3.4. Xây dựng các chế tài nghiêm ngặt đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh........................................................ 21
1.4. Giới hạn của quyền tự do cạnh tranh ...................................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
CẠNH TRANH CHO DOANH NGHIỆP .......................................................... 25
2.1. Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp - điều kiện tiên quyết
để có tự do cạnh tranh..................................................................................... 26
2.2. Phải kiểm soát độc quyền thì mới có tự do cạnh tranh........................... 30

2.3. Chống cạnh tranh không lành mạnh để bảo vệ tự do cạnh tranh. ......... 32
2.4. Cải cách thủ tục hành chính góp phần thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện
quyền tự do cạnh tranh ................................................................................... 40
2.5. Phải có chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ quyền
tự do cạnh tranh .............................................................................................. 47
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ........................................................... 54
3.1. Đánh giá khái quát về thực trạng của việc bảo đảm thực hiện quyền tự
do cạnh tranh cho doanh nghiệp .................................................................... 54


3.1.1. Thành tựu đạt được trong việc bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho
doanh nghiệp................................................................................................ 54
3.1.2. Những hạn chế trong việc bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp................................................................................................ 66
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp
.......................................................................................................................... 76
3.2.1. Đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các loại hình doanh nghiệp ..... 76
3.2.2. Tiếp tục Cải cách thủ tục hành chính nhằm loại bỏ những rào cản
của tự do cạnh tranh .................................................................................... 79
3.2.3. Minh bạch hóa chính sách, pháp luật ................................................ 83
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 87
CHÚ THÍCH........................................................................................................ 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 91


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh
nói chung, tự do cạnh tranh nói riêng. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở

từng thời kỳ lịch sử cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh cũng khác nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
trong đó pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Lý luận và thực tiễn đã chứng
minh hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh.
Kể từ Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng năm 1986, Việt Nam đã trải qua
rất nhiều cải cách hạ tầng thể chế của nền kinh tế. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường làm thay đổi về căn bản vai trò
của nhà nước trong thị trường. Có những điều được coi là hiển nhiên trong nền kinh
tế kế hoạch trở nên không còn phù hợp với kinh tế thị trường và ngược lại, có
những điều không được chấp nhận trong kinh tế tập trung lại thích hợp trong kinh tế
thị trường. Cạnh tranh là một phạm trù như vậy.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế cạnh tranh là chủ yếu. Trong kinh tế
thị trường, việc nhà nước chỉ huy một cách tập trung - thể hiện bằng các quy định,
chỉ thị mệnh lệnh hành chính đối với hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh
tế, kể cả quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài - không còn phù hợp.
Mặt khác, chúng ta cũng đang chuyển đổi sang một nền kinh tế mở cửa hơn, hội
nhập hơn với mức độ lớn hơn với kinh tế thế giới. Điều này có nghĩa mở rộng cạnh
tranh nhằm đảm bảo cho tự do thương mại và ổn định để phát triển. Với tư cách là
người quản lý xã hội, nhà nước cần xây dựng chính sách duy trì cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền trong kinh doanh.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép

1


hoặc kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công
nghệ, thiết bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành và giá bán hàng hóa. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ

hướng người kinh doanh chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn
sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan
trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh
tranh, các doanh nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện. Doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội
được sử dụng hợp lý. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng
chính là tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng và người tiêu dùng. Để cạnh tranh
tồn tại và duy trì thì bản thân các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hoạt động
kinh tế phải được tự do thực hiện các hoạt động nhằm kinh doanh, cạnh tranh với
các chủ thể khác trong nền kinh tế, cũng vì vậy mà quyền tự do cạnh tranh được
hình thành và ghi nhận.
Nhận thức được ý nghĩa cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường cũng như
tầm quan trọng của quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được thực thi trên
thực tế, mà hiện nay quyền tự do cạnh tranh đã được nhà nước ghi nhận và cụ thể
hóa trong các Văn bản QPPL. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi doanh nghiệp
đều có thể thực hiện được quyền tự do cạnh tranh của mình, nếu không có các biện
pháp đảm bảo, cơ chế thực thi phù hợp thì quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp
chỉ tồn tại trên giấy và không thể đi vào đời sống. Do đó, vấn đề bảo đảm thực hiện
quyền tự do cạnh tranh được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Quyền đã có nhưng để
hiện thực hóa đưa quyền tự do cạnh tranh vào cuộc sống thì cần có những biện pháp
đảm bảo thực hiện. Chính vì thế việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật bảo đảm quyền
tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo
cho quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được thực thi trên thực tế là hết sức
cần thiết. Đó cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài: "Pháp luật bảo đảm quyền tự do
cạnh tranh cho doanh nghiệp" làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cao học của mình.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do cạnh tranh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền
tự do kinh doanh nói chung, cùng với quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản,
quyền tự do thành lập doanh nghiệp, quyền tự do hợp đồng, quyền tự do định đoạt
trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đã hợp thành quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể nói trong thời gian đây, đã có khá nhiều các công trình nghiên
cứu khoa học về quyền tự do kinh doanh được công bố và đã đạt được những thành
công nhất định. Các công trình này không chỉ đa dạng về nội dung mà cả hình thức
như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ, sách tham khảo v.v...
Điển hình như: "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự
do kinh doanh ở nước ta" - luận án tiến sỹ luật học thực hiện năm 2001 của Bùi
Ngọc Cường; "Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế
hiện hành ở Việt Nam" - sách chuyên khảo của Bùi Ngọc Cường viết năm 2004; hay
"Quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của pháp luật hiện hành Thực trạng và giải pháp", luận văn cao học năm 2011 của Nguyễn Thị Nguyệt. Gần
đây, có thêm một số công trình mới nghiên cứu về quyền tự do kinh doanh như
"Pháp luật về quyền tự do kinh doanh của cá nhân trong hoạt động thương mại Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" - luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị
Giang (2012); "Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005 - Lý luận và thực tiễn", luận văn Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thu
Huyền (2012)…
Trong các công trình đã nghiên cứu chủ yếu đề cập đến quyền tự do kinh
doanh nói chung và các biện pháp đảm bảo để thực hiện quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp. Mặc dù các tác giả có đề cập đến quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp trong các công trình nghiên cứu thông qua việc phân tích các quyền
hợp thành quyền tự do kinh doanh nhưng đó là việc phân tích các yếu tố cấu thành
quyền tự do kinh doanh nói chung, còn việc nghiên cứu độc lập, riêng rẽ quyền tự
do cạnh tranh của doanh nghiệp và pháp luật bảo đảm thực hiện quyền tự do cạnh

3



tranh cho doanh nghiệp là một công trình nghiên cứu độc lập thì chưa có công trình
nào nghiên cứu về vấn đề này.
Do đó, có thể nói đề tài của tác giả là công trình nghiên cứu về quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp và pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho
doanh nghiệp. Tác giả hy vọng việc nghiên cứu đề tài này để mở đường cho các
công trình nghiên cứu khác về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp sau này.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, những biện pháp pháp lý bảo đảm quyền
tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp, phát hiện và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phải trả lời câu hỏi thế nào là quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp
- Quyền tự do sanh tranh của doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở nào
- Những yếu tố đảm bảo quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp
- Pháp luật hiện hành ở Việt nam đã có những biện pháp gì để đảm bảo
quyền tự do cạnh tranh cho các doanh nghiệp
- Đánh giá khái quát về thực trạng pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh
cho doanh nghiệp và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ nghiên
cứu, những quy định pháp luật hiện hành của Việt nam đảm bảo quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong đó tác giả luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu
Luật cạnh tranh năm 2004, Luật doanh nghiệp 2014, Luật đầu tư 2014. Khi nghiên

4


cứu Luật cạnh tranh tác giả chỉ tiếp cận ở góc độ bảo đảm quyền tự do cạnh tranh

cho doanh nghiệp.
5. Đối tượng nghiên cứu
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền tự do cạnh tranh của doanh
nghiệp, những biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho doanh
nghiệp, phát hiện và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền tự do cạnh tranh
cho doanh nghiệp, đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh quyền tự do cạnh tranh cạnh tranh của doanh nghiệp trong
Luật cạnh tranh 2004, Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư
và các văn bản pháp luật liên quan.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, đồng thời tiếp thu đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp mô tả, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
lịch sử, phương pháp biện chứng.
Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện kết hợp với phương pháp khảo cứu thực
tiễn như phương pháp thu thập và xử lý thông tin đối với các sự kiện thực tế.
7. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu về quyền tự do cạnh tranh và pháp luật bảo
đảm quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp, Luận văn đã đưa ra được cái nhìn
toàn diện về quyền tự do cạnh tranh và các yếu tố bảo đảm thực thi quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thực tế.
Luận văn đi sâu phân tích pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho
doanh nghiệp, thực tiễn thực thi quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp. Trên cơ

5



sở đó chỉ ra những điểm còn bất cập hạn chế trong việc bảo đảm thực thi quyền tự
do cạnh tranh của doanh nghiệp trên thực tế.
Luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực thi quyền tự do
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chương 2. Các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Chương 3. Thực trạng và giải pháp đảm bảo quyền tự do cạnh tranh cho
doanh nghiệp.

6


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh
Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các hình thái
kinh tế xã hội. Với đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đã thực thi
những nguyên lý của cơ chế thị trường mà trước đó chưa từng được biết đến trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một
động lực mới của sự phát triển đó là cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy các chủ thể kinh doanh. Mỗi nhà sản xuất hay thương gia luôn vận dụng những
ưu thế và tiềm năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vì thế đã trở thành
quy luật kinh tế phổ biến, đem lại diện mạo và sắc thái riêng cho nền kinh tế thị

trường. Điều này cũng cho phép hiểu rằng một môi trường kinh doanh thực sự phải
là một môi trường mà sự cạnh tranh luôn được kích thích và duy trì. Ở đó, cơ hội
cạnh tranh tự do cho tất cả các chủ thể kinh doanh phải được đảm bảo như một nội
dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh.
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh
được cuốn Black'Law Dictionary diễn tả là "sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay
nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ
ba"[1].
Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển Kinh doanh của Anh
xuất bản năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa là "sự ganh đua, sự kình địch giữa
các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại
khách hàng về phía mình" [2].
Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh, song nhìn chung cạnh
tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các thành viên của một thị trường

7


hàng hóa, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều
khách hàng, thị trường và thị phần. [3]
Có thể nói cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một
diện mạo mới, đa dạng, linh hoạt, phong phú và ngày càng phát triển. Tuy nhiên,
cạnh tranh chỉ tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do cạnh tranh, tự do hành xử
trên thị trường.
Quyền tự do cạnh tranh được coi là thuộc tính tự nhiên của các nhà kinh
doanh. Vì vậy, nó phải được pháp luật bảo hộ với tư cách là quyền của các nhà kinh
doanh và trở thành nội dung không thể thiếu của quyền tự do kinh doanh.
Quyền tự do cạnh tranh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể hiểu quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp về thực chất là khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản

xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới những hình thức thích
hợp với khả năng vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi nhuận. [4]. Quyền
tự do kinh doanh là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh, trong đó có
quyền tự do cạnh. Trong hệ thống các quyền tự do đó thì quyền tự do cạnh tranh
của doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền tự do
cạnh tranh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế, là động lực thúc đẩy
việc thực hiện các quyền sở hữu tư liệu sản xuất, tự do hợp đồng...
Thừa nhận các doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh, cũng có nghĩa là
nhà nước phải thừa nhận các chủ thể được làm những gì mà pháp luật không cấm để
thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình, trong đó có quyền tự do cạnh tranh.
Thế nhưng phải hiểu rằng, quyền tự do cạnh tranh của các nhà kinh doanh là cạnh
tranh lành mạnh. Đó là hình thức cạnh tranh tích cực, trong sáng, các doanh nghiệp
có thể sử dụng bất cứ chiêu thức nào để phát triển doanh nghiệp của mình, nếu
không trái pháp luật và làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp phải được nhìn
nhận, xem xét một cách toàn diện trên những khía cạnh cơ bản sau:

8


Một là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được nhìn
nhận như là một giá trị tự thân của doanh nghiệp, mà nhà nước phải thừa nhận và
bảo vệ. Quyền này là của bản thân mỗi doanh nghiệp (mang tính khách quan),
không phải là sự ban phát hay trao tặng của nhà nước. Nó là một phần hợp thành và
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp.
Hai là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp có trở thành hiện thực và
phát huy tác dụng trong thực tiễn hay không, tùy thuộc vào việc nhà nước có đáp
ứng được những đòi hỏi mà quyền tự do cạnh tranh đặt ra để kịp thời thể chế hóa và
bảo vệ bằng pháp luật.

Ba là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp tồn tại như một nhu cầu tất
yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó phải là mục tiêu mà nhà nước
hướng tới nếu như muốn thực hiện địa vị hợp pháp, tính nhân văn tiến bộ trong quá
trình thực hiện quyền thống trị của mình.
Tóm lại có thể hiểu, Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp là quyền của
các doanh nghiệp có thể sử dụng bất cứ biện pháp, phương thức nào để phát triển
doanh nghiệp, chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng về tay mình trong khuôn
khổ quy định pháp luật nhằm cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh khác.
1.2. Cơ sở hình thành quyền tự do cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Do đó có
vai trò quan trọng không những với tư cách là động lực của sự phát triển, mà còn
với tư cách là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ kinh doanh. Trong cơ
chế thị trường, nếu lợi nhuận thúc đẩy các nhà kinh doanh thì cạnh tranh đòi hỏi họ
phải điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như sử dụng các nguồn lực
(vốn, lao động, kỹ thuật...) có hiệu quả nhất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển sự
nghiệp kinh doanh của mình. Cạnh tranh có vai trò quan trọng không chỉ với bản
thân từng nhà kinh doanh mà còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế nói chung. Xuất
phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường và ý nghĩa to lớn mà cạnh tranh mang

9


lại, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành một cách tất yếu và
được bảo đảm thực hiện.
1.2.1. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay, cạnh tranh được thừa nhận như là một đặc trưng cơ bản của cơ
chế thị trường, không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường theo đúng
nghĩa của nó. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân theo những quy luật
khách quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này các doanh nghiệp
phải cạnh tranh với nhau để giành được ưu thế so với đối thủ của mình trên thị

trường. Chính vì thế, cạnh tranh được coi là một trong những động lực thúc đẩy của
sự phát triển kinh tế - xã hội, trong nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ xã hội hóa cao.
Nó là hình thức, phương thức vận hành kinh tế, trong đó các quy luật của thị trường
chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định: sản xuất cái gì? sản xuất như thế
nào? và sản xuất cho ai?
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường: nơi mà cung cầu là cốt vật
chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường. Thị trường là
nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về trình độ công
nghệ của người sản xuất. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp gia nhập thị
trường theo ý muốn và tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận và phải cạnh tranh nhau.
Với sự ganh đua để đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách
để cạnh tranh với nhau bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản
phẩm... Để các doanh nghiệp thực hiện các hành vi cạnh tranh của mình, pháp luật
cần ghi nhận cho họ quyền được cạnh tranh, quyền tự do thực hiện các hành vi
nhằm phát triển doanh nghiệp, duy trì sự cạnh tranh bền vững với các doanh nghiệp
khác.
Cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh hồn và là
động lực cho sự phát triển của thị trường. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự tồn
tại của tự do, có như thế các nguồn lực thị trường mới có thể vận hành tốt và đem

10


lại hiệu quả cho sự phát triển. Chỉ có trong nền kinh tế thị trường với những đặc
trưng cơ bản của nó quyền tự do cạnh tranh mới được hình thành:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù
đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh
của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá
trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của nền kinh tế thị

trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền
kinh tế hàng hóa. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng
hóa. Kinh tế hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp, nó đối lập với bao cấp và
đồng nghĩa với tự chủ, năng động.
Hai là, trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Người ta tự do mua bán hàng
hóa. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở
giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị
trường với kinh tế tự nhiên.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh
tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả
là kết quả của sự thương lượng và thỏa thuận giữa người mua và người bán. Đặc
trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hóa. Trong quá trình trao
đổi mua bán hàng hóa, người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua lại
luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp
được chi phí và có lợi nhuận. Chi phí sản xuất là giới hạn, là phần cứng của giá cả,
còn lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi
ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hòa được cả lợi ích của người mua lẫn
lợi ích của người bán. Tất nhiên, trong cuộc giằng co giữa người mua và người bán
để hình thành giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về người bán, nếu như cung ít,
cầu nhiều và ngược lại, lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều,
cầu ít. Đó là quy luật của nền kinh tế thị trường.

11


Bốn là, cạnh tranh là tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở
những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu
cầu của quy luật giá trị tất cả các đơn vị sản xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh
doanh trên cơ sở hao phí lao động, xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có

nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật,
áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao
phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường mà cạnh tranh là một trong
những quy luật vận động cũng vì thế các chủ thể trực tiếp kinh doanh cạnh tranh với
nhau cần thiết phải được quy định quyền tự do cạnh tranh. Có như vậy, thì trong
nền kinh tế thị trường các chủ thể mới có thể có đủ điều kiện thực hiện kinh doanh
và cạnh tranh với nhau. Việc ghi nhận quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
1.2.2. Động lực phát triển kinh tế -thôi thúc cạnh tranh hình thành, phát triển
Sau vài thế kỷ thăng trầm của kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, con người ngày càng nhận thức đúng hơn về bản
chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Với
ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là đối
tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Xuất phát từ ý nghĩa to
lớn mà cạnh tranh mang lại cho nền kinh tế và xã hội, cạnh tranh cần phải được bảo
vệ và duy trì. Để cạnh tranh có thể tồn tại và phát huy được giá trị to lớn của mình
đối với xã hội, nhà nước và pháp luật cần ghi nhận quyền tự do cạnh tranh cho các
doanh nghiệp - các chủ thể trực tiếp thực hiện các hành vi cạnh tranh. Có thể nói,
với những ý nghĩa mà cạnh tranh mang lại chính là một trong những cơ sở quan
trọng góp phần hình thành quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt

12


hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh có ý nghĩa xã hội
lớn lao.
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy tăng

trưởng và tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải có nhiều biện pháp, giải pháp
nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, qua đó góp phần tiết kiệm các nguồn lực
chung của nền kinh tế. Mặt khác, cạnh tranh cũng tạo ra áp lực buộc các doanh
nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, sử dụng lao động có hiệu quả, tăng
năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường,
đảm bảo phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những
doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh
tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ
cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai trò điều phối của cạnh tranh thể hiện thông
qua các chu trình của quá trình cạnh tranh. Dẫu biết rằng, cạnh tranh là một chuỗi
các quan hệ và hành vi liên tục không có điểm dừng diễn ra trong đời sống của
thương trường, song được các lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển của
các chu trình theo hình xoắn ốc. Theo đó, chu trình sau có mức độ cạnh tranh và
khả năng kinh doanh cao hơn so với chu trình trước. Do đó, khi một chu trình cạnh
tranh được giả định là kết thúc, người chiến thắng sẽ có được thị phần lớn hơn điểm
xuất phát. Thành quả này được sử dụng làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp
theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ
làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ dần trong quá trình kinh doanh để nâng cao dần
vị thế của người chiến thắng trên thương trường. Trong cuộc cạnh tranh dường như
có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực kinh tế từ những
doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả năng sử
dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị kinh tế của
thị trường được sử dụng một cách tối ưu.

13


Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục trong
đời sống kinh tế - xã hội. Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền

tự do trong kinh doanh và sự độc lập trong sở hữu của hoạt động doanh nghiệp. Khi
sự tự do kinh doanh bị tiêu diệt thì mọi sự thi đua chỉ là những cuộc tụ họp theo
phong trào,không thể là động lực đích thực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh đòi
hỏi nhà nước và pháp luật phải tôn trọng tự do trong kinh doanh, tự do cạnh tranh.
Trong sự tự do cạnh tranh, quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng lợi ích
của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một kim chỉ nam của sự phát
triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia tăng của
quy mô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sự sáng tạo không mệt mỏi của con
người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều
thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển liên tục và đổi mới không ngừng. Sự
đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện thông qua những thay đổi trong cơ cấu
thị trường, hình thành những ngành nghề mới đáp ứng những nhu cầu của đời sống
hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ thuật là sự tiến bộ trong nhận thức
của tư duy con người về các vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội.
Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn
lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng
cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh các doanh nghiệp yếu kém
bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp
tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng một cách hợp lý.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường. Khi cung một hàng
hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm thị trường, giá cả tăng lên
tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó, người kinh doanh sẽ đầu tư vốn
xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những cơ
sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư
cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội.

14


Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra

nhiều lựa chọn cho khách hàng, cho người tiêu dùng. Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung
tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia cạnh tranh. nhu cầu của họ được đáp
ứng một cách tốt nhất mà thị trường có thể cung ứng, bởi họ là người có quyền bỏ
phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói
khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn. Một
nguyên lý của thị trường ở đâu có nhu cầu, có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có
mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng không còn phải sống trong tình trạng xếp
hàng chờ mua nhu yếu phẩm như thời kỳ bao cấp, mà ngược lại, nhà kinh doanh
luôn tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất.
Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm mọi
cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Sự tương tác
giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong điều
kiện cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể,
các doanh nghiệp có thể thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi
tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh góp phần loại bỏ khả năng bóc lột người tiêu
dùng từ phía nhà kinh doanh.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp
ứng về trình độ công nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của
người tiêu dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu, công nghệ sẽ quyết định về yếu
tố cung của thị trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu của người tiêu
dùng sẽ quyết định việc sử dụng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Phụ thuộc vào những
tính toán về công nghệ, về chi phí... nhà sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng nhu
cầu về loại sản phẩm, về giá và chất lượng của chúng. Thực tế cho thấy, mức độ
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ
công nghệ của doanh nghiệp. Những gì mà doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các
đề xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể

15



nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng có vai trò định hướng cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo áp lực buộc họ phải thường
xuyên tìm tòi sáng tạo, cải tiến phương pháp sản xuất và tổ chức quản lý kinh
doanh, đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản phẩm
mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Qua đó nâng cao trình độ của
công nhân và các nhà quản lý các cấp trong doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh
sàng lọc khách quan đội ngũ những người thực sự không có khả năng thích ứng với
sự thay đổi của thị trường.
Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh doanh
chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu quả
cao hơn. Cạnh tranh đảm bảo việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả
nhất. Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hóa, dịch vụ đã
buộc các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết kiệm
bằng cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. Mọi sự
lãng phí hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có thể dẫn đến
những thất bại trong kinh doanh. Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh tranh là
động lực cơ bản giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên,
nhiên, vật liệu được sử dụng tối ưu.
Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ
thuật trong kinh doanh. Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường.
Khi cùng một hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm
cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh nào đủ khả năng cải
tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá sản phẩm mới
có thể tồn tại. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng đòi hỏi việc ứng
dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất. Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã
thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên
tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đáp ứng ngày


16


càng tốt hơn đòi hỏi của thị trường, mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế
cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của
khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi và
phát triển liên tục của các thế hệ máy vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn
thông quốc tế hiện đại cho thấy rõ vai trò của cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ
khoa học, kỹ thuật.
Tóm lại, xuất phát từ nền kinh tế thị trường với những đặc trưng cơ bản của
nó cùng với ý nghĩa của cạnh tranh mang lại đối với xã hội và nền kinh tế mà quyền
tự do cạnh tranh cần thiết được nhà nước và pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo
đảm thực hiện trên thực tế.
1.3. Yếu tố đảm bảo quyền tự do cạnh tranh cho doanh nghiệp
Mặc dù, quyền tự do cạnh tranh là quyền tự nhiên của các doanh nghiệp
nhưng chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì quyền tự do cạnh tranh mới có thể trở
thành thực quyền. Tuy nhiên, dù được ghi nhận nhưng nếu không được sự tôn trọng
và tạo điều kiện thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác
thì nó mãi mãi chỉ là "cơ hội" mà không trở thành "hiện thực". Do đó, cần đến một
vai trò khác nữa từ phía pháp luật là bảo đảm các điều kiện thực hiện quyền tự do
cạnh tranh.
Quyền tự do cạnh tranh một mặt bao gồm những quyền mà họ được hưởng,
mặt khác đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước khi thực
hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp. Hai mặt này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý tự do cạnh
tranh. Nếu chỉ thừa nhận quyền của chủ thể mà không đảm bảo cho nó những điều
kiện để thực hiện thì quyền tự do cạnh tranh cũng chỉ mang tính hình thức.
Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia trên Thế giới đều thừa nhận cạnh tranh
và đưa ra những đảm bảo pháp lý nhằm thúc đẩy tự do cạnh tranh lành mạnh. Để
đảm bảo quyền tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp thì các yêu cầu

sau đây phải được đảm bảo:

17


1.3.1. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh
Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là
các quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh
nghiệp. Chỉ khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do hợp đồng và bảo đảm
quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trường mới có đủ năng lực để quyết
định phương thức kinh doanh. Lúc đó, cạnh tranh mới có đất để tồn tại và phát huy
tác dụng. Sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế được đảm bảo như sau:
Trong thị trường tự do và lành mạnh, các doanh nghiệp tự quyết định việc
cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà không chịu bất cứ sự chi phối nào từ phía nhà
nước và các doanh nghiệp khác. Người tiêu dùng mua những hàng hóa mà họ cần.
Thị trường đưa các doanh nghiệp và người tiêu dùng đến với nhau. Cơ chế thị
trường trong đó giá cả thay đổi theo sự vận động của cung cầu quyết định hành vi
của các doanh nghiệp và nhu cầu của người tiêu dùng.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gia nhập thị trường theo ý muốn,
tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận, và phải cạnh tranh nhau. Kết quả là trong khi một
vài doanh nghiệp thành công thì sẽ có những doanh nghiệp phải gánh chịu tổn thất,
thậm chí là phải rời bỏ thị trường. Đây là quy tắc tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp và được tuân thủ theo nguyên tắc của thị trường.
Pháp luật bảo đảm loại trừ những hành vi phản cạnh tranh trong việc đua
tranh giành lợi nhuận trên thị trường. Từ đó, việc bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của
các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của
quan hệ thị trường là yêu cầu tất yếu hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau, song chúng phải được đối xử bình đẳng. Nói cách khác bình
đẳng chính là nền tảng cho cạnh tranh, nếu không có sự bình đẳng thì không thể

cạnh tranh công bằng và lành mạnh.
1.3.2. Kiểm soát các hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh: chống độc quyền và
kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

18


Để quyền tự do cạnh tranh được tồn tại cần phải có một môi trường kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh, trong đó độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
phải được nhà nước kiểm soát chặt chẽ bằng chính sách và pháp luật. Có như vậy,
quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp mới thực sự được đảm bảo.
Độc quyền trong kinh doanh thường gây ra những hậu quả tiêu cực đối với
sự phát triển kinh tế. Doanh nghiệp độc quyền có thể lạm dụng vị trí độc quyền
thông qua hạn chế sản lượng và tăng giá bán một cách độc đoán làm thiệt hại cho
người tiêu dùng. Độc quyền không tạo sức ép hoặc khuyến khích người sản xuất
quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất và phương thức quản lý. Không
những thế độc quyền còn ngăn chặn tự do cạnh tranh và cản trở cạnh tranh lành
mạnh, do đó giảm động lực phát triển của nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh
dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng thường gây ra những hậu quả tiêu cực
đối với nền kinh tế quốc dân. Vì những hậu quả của độc quyền trong kinh doanh,
nhiều quốc gia trên thế giới đã coi chống độc quyền là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
của nhà nước. Nhà nước phải kiểm soát và chống độc quyền.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích
của nhà nước, của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại
mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể là tiềm năng. Ở
đâu có tự do cạnh tranh là ở đó có khả năng xảy ra hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là kết quả tất yếu của một hệ thống
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu không có biện pháp hạn chế,
kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
quyền lợi của người tiêu dùng và kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Trong nền kinh

tế thị trường, các doanh nhân phần lớn hoạt động vì lợi nhuận của chính mình, cần
phải có cạnh tranh giữa các đơn vị kinh tế. Thông qua cạnh tranh người mua là
người được hưởng lợi và xã hội cũng phát triển. Mọi doanh nghiệp luôn nỗ lực cung
cấp các sản phẩm có ích, hiệu quả, tiết kiệm nhất, giá thành rẻ nhất và chất lượng
tốt nhất nhằm được người tiêu dùng lựa chọn. Tuy nhiên, sự nỗ lực của một doanh
nghiệp chân chính sẽ trở nên vô nghĩa nếu như có những hiện tượng không tuân thủ

19


×