Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 69 trang )

LƯƠNG THỊ HÒA

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TRUNG TÂM
DỊCH VỤ VIỆC LÀM TẠI TỈNH THÁI BÌNH

2014 - 2016

LƯƠNG THỊ HÒA

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TRUNG TÂM
DỊCH VỤ VIỆC LÀM TẠI TỈNH THÁI BÌNH

LƯƠNG THỊ HÒA


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐÀO THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung luận văn hoàn toàn là kết quả do tôi tự nghiên
cứu, không có sự sao chép. Những thông tin và số liệu trong luận văn là những
nguồn chính thức được thu thập và thống kê đầy đủ, luận văn được chú thích và
trích dẫn đầy đủ. Tôi xin chịu trách nhiệm trước nhà trường và pháp luật nếu có sự
gian dối, giả mạo về các thông tin và số liệu được thể hiện trong luận văn cũng như
việc sử dụng các đề tài của người khác mà không có những trích dẫn đúng quy định.

Học viên

Lương Thị Hòa


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô giáo trong Viện Đại học Mở Hà
Nội - khoa sau Đại học, Khoa luật kinh tế đã giúp đỡ và cung cấp cho em những
kiến thức bổ ích để em có nền tảng kiến, kiến thức thực hiện luận văn thạc sỹ này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Cô giáo PGS.TS Đào Thị Hằng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc
sỹ.


Học viên

Lương Thị Hòa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ
NỘI DUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP .. 4
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp………………………….............4
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp………………………………..................4
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp…………………………….................5
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm thất nghiệp ….............................................7
1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp...............................8
1.2.1. Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp...................................8
1.2.2. Các chế độ hưởng..........................................................................................11
1.2.2.1. Trợ cấp thất nghiệp (điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng; tạm
dừng, chấm dứt hưởng…).........................................................................................11
1.2.2.2 Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm ................................................................18
1.2.2.3.Hỗ trợ học nghề.............................................................................................19
1.2.2.4 Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho người lao động.............................................................................................19
1.2.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp ...................................................... 21
Kết luận chương 1....................................................................................................26
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP TẠI TRUNG TÂM DỊCH VỤ VIỆC LÀM TỈNH THÁI BÌNH ...... 27
2.1. Vài nét về Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh Thái Bình ...............................27
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại
Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh Thái Bình........................................................30



2.2.1. Mô hình giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ
việc làm tỉnh Thái Bình………………………………………………………… 30
2.2.2. Các hoạt động thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Trung tâm dịch
vụ việc làm tỉnh Thái Bình……………………………………………………… 32
2.2.3. Kết quả tổ chức thực hiện………………………………………………

42

2.2.4. Đánh giá chung về những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện
chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ tỉnh Thái Bình……….. 45
Kết luận chương 2……………………………………………………………...…. 47
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP …48
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp….........................48
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp…………………………………………………………………………… 50
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm
thất nghiệp……………………............................................................................54
Kết luận chương 3.................................................................................................58
KẾT LUẬN……..………………………………………...……………………….60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 61


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp


BHXH

Bảo hiểm xã hội

LVL

Luật việc làm

ASXH

An sinh xã hội

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

HĐLV

Hợp đồng làm việc

SLĐTBXH

Sở lao động thương binh xã hội

BLLĐ

Bộ luật lao động

TCTN


Trợ cấp thất nghiệp

DN

Doanh nghiệp

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

UBND

Ủy ban nhân dân

TTDVVLTB

Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Thái Bình


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường
tồn tại không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới mang tính
thời sự, cấp thiết đặt nên hàng đầu. Thất nghiệp trước tiên làm ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của người lao động và gia đình họ cả về vật chất lẫn tinh thần. Nếu tỉ
lệ thất nghiệp tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tất cả các mặt kinh tế chính trị và xã hội

của một quốc gia.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, BHTN luôn là trụ cột quan trọng trong hệ thống
An sinh xã hội. Tại Việt Nam chính sách BHTN đã góp phần to lớn vào việc ổn
định đời sống cho người lao động nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao
động bị thiếu hụt do thất nghiệp. Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội, trong đó đã quy
định về Bảo hiểm thất nghiệp và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2009. Đây là chính sách mới có tác động trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người
lao động, người sử dụng lao động và vấn đề an sinh xã hội. Qua 5 năm triển khai
thực hiện bảo hiểm thất nghiệp đã đảm bảo được quyền lợi của người lao động và
người sử dụng lao động. Người lao động được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm
được hưởng chế độ bảo hiểm y tế…Tuy nhiên ngoài những thành tựu đã đạt được,
chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong luật BHXH năm 2006. Qua quá trình thực thi
đã phát hiện ra một số vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của chế
độ BHTN trong thực tiễn.
Qua quá trình triển khai thực hiện để phù hợp với điều kiện thực tế riêng và
đặc thù nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng quốc gia. Chính sách bảo hiểm thất
nghiệp được xây dựng, sửa đổi bổ sung và quy định trong luật việc làm số
38/2013/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015 để phù hợp hơn, đảm bảo hơn
với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam, đảm bảo được các quyền lợi của các đối
tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Đặc biệt đối tượng người lao động phải chịu
sự chi phối mạnh mẽ từ sự biến động của nền kinh tế thị trường. Do vậy pháp luật
1


về bảo hiểm thất nghiệp phải điều chỉnh cách giải quyết, thực hiện chế độ trợ cấp
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao động và chủ sử dụng lao động tham gia
bảo hiểm thất nghiệp.
Tuy vậy, qua một thời gian ngắn đi vào thực hiện, bên cạnh những ưu điểm,
thành tựu đã đạt được không thể phủ nhận, chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong Luật

Việc làm và các văn bản dưới luật cũng đã ít nhiều thể hiện một số hạn chế, vướng
mắc đòi hỏi cần được tiếp tục khắc phục, tháo gỡ.
Từ những lý do trên tôi quyết định chọn vấn đề

"Pháp luật về bảo hiểm

thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Thái
Bình" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích của việc nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp cùng
với việc đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về BHTN và thực tiễn
thực hiện tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Thái Bình, luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực này nói chung, ở tỉnh Thái Bình nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn nghiên cứu các quy định Pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp theo Luật việc làm năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành,
các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện BHTN theo luật việc làm.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp:
diễn giải, so sánh, liệt kê, tổng hợp, thống kê, phân tích, đánh giá …để làm sáng tỏ
các vấn đề thuộc đề tài nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn gồm 3 chương như sau:
2


Chương 1: Một số vấn đề chung về BHTN và nội dung pháp luật hiện hành về
BHTN

Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Trung tâm Dịch vụ việc làm
tỉnh Thái Bình
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiểu quả thực hiện pháp
luật về BHTN.

3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ NỘI DUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
Trước hết, cần tìm hiểu về khái niệm “thất nghiệp” và “người thất nghiệp”.
Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), “thất nghiệp là sự
ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong
trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” (Đ. 4 Công ước số
102 (1952).
Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng, thất nghiệp là những người lao động
không có việc làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm mới
hoặc những người không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện hành
[19].
Như vậy, có thể đi đến khái niệm chung: thất nghiệp là tình trạng trong đó
có những người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không tìm được
việc làm với mức tiền công đang thịnh hành.
Từ khái niệm này, có thể hiểu khái niệm người thất nghiệp là người trong độ
tuổi lao động, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc nhưng không tìm được
việc làm.
Thất nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt trong xã hội. Đối với cá

nhân người thất nghiệp, họ và gia đình sẽ không có nguồn thu nhập để sinh sống,
đồng thời, tinh thần, tâm lý cũng bị ảnh hưởng. Đối với xã hội, thất nghiệp là một
sự lãng phí nguồn lực xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Do vậy, việc tìm
4


ra các giải pháp để đối phó, khắc phục tình trạng thất nghiệp là vấn đề mà mọi quốc
gia đặt lên hàng đầu, trong đó bảo hiểm thất nghiệp là một giải pháp đặc biệt quan
trọng.
Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là biện pháp để giải quyết tình trạng thất
nghiệp, nhằm trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp trong thời gian chưa
tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới. Dưới
góc độ pháp lý, chế độ BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định việc
đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả TCTN để bù đắp một phần thu nhập cho
NLĐ bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì học nghề, thực hiện
các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc, duy trì việc làm trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Ở phạm vi khác, Đ. 3 Luật Việc làm năm 2013 xác định: Bảo hiểm thất
nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất
việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở
đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN được xác định là một trong các chế độ của BHXH, chính bởi vậy bản
thân BHTN cũng có những đặc điểm chung của chế độ BHXH như:
- Mục đích hoạt động không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi của NLĐ và cả
cộng đồng;
- Hoạt động BHXH nhằm huy động sự đóng góp của NLĐ và cả cộng đồng;
- Hoạt động BHXH nhằm huy động sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ cùng
với sự hỗ trợ của nhà nước.
- Hoạt động của các chế độ BHTN đều đặt dưới sự thống nhất quản lý của

nhà nước.
Bên cạnh đó BHTN có những đặc trưng riêng so với các chế độ bảo hiểm xã
hội khác; cụ thể:
Một là, BHTN được coi là một phương án dự phòng về việc làm của người
lao động. Sở dĩ như vậy mặc dù bảo hiểm thất nghiệp xuất phát từ quan hệ lao động
5


nhưng BHTN chủ yếu nghiêng về lĩnh vực việc làm. Nghĩa là BHTN được chi trả
gắn liền với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động vì vậy chức năng chính
của BHTN chính là hỗ trợ cho NLĐ khi lâm vào tình trạng thất nghiệp cũng như
thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ tìm kiếm cho người lao động thất nghiệp có cơ hội
việc làm mới.
Hai là, BHTN là chế độ bảo hiểm áp dụng với các đối tượng là người thất
nghiệp tức là những người trong độ tuổi lao động trong luật việc làm quy định, có
sức lao động và bị mất việc làm, tạm thời không có thu nhập và sẵn sàng trở lại làm
việc. Đặc điểm của chế độ hưởng BHTN là chế độ ngắn hạn chỉ có thể hỗ trợ cho
người thất nghiệp trong một thời gian nhất định giúp họ có thể sớm tìm được việc
làm và quay trở lại thị trường lao động.
Ba là, Hoạt động của BHTN bao gồm việc thu chi trả trợ cấp thất nghiệp và
thực hiện các biện pháp nhằm đưa người lao động có việc làm trở lại. Như vậy
ngoài việc đăng ký BHTN, kiểm tra các điều kiện của người lao động trước khi chi
trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp. Tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động bị
thất nghiệp, tư vấn đào tạo nghề lại, đào tạo nghề mới cho người bị thất nghiệp.
Phối kết hợp với BHXH để giải quyết kịp thời cho người hưởng trợ cấp BHTN giúp
người lao động bị thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động.
Bốn là, Việc thực hiện quản lý đối tượng bảo hiểm thất nghiệp rất khó khăn
và phức tạp. Sở dĩ doanh nghiệp không khai báo trung thực về thực trạng của người
lao động người lao động và doanh nghiệp chưa hiểu hết về quyền và nghĩa vụ khi
hưởng chế độ BHTN. Do vậy để xác định chính xác tỉ lệ bị thất nghiệp hàng năm

phải dựa vào dự báo cung cầu, điều tra doanh nghiệp hàng năm phụ thuộc vào tỉ lệ
tăng giảm thị trường lao động, việc làm. Nhiều doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài không thực hiện theo luật việc làm, không ký hợp đồng lao động với người
lao động, doanh nghiệp không tham gia đóng BHXH và BHTN, một số doanh
nghiệp đồng loạt cho người lao động nghỉ việc làm không rõ lý do dẫn đến số liệu
về người lao động không chính xác gây ảnh hưởng đến chính sách BHTN trên thực
tế.
6


1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN được biết đến là một chính sách ưu việt có vai trò to lớn không chỉ
đối với người lao động mà còn đối với người sử dụng lao động và nhà nước trong
nền kinh tế thị trường đầy biến động. Cụ thể:
*Đối với NLĐ: BHTN là giải pháp tạm thời giúp người thất nghiệp có thể
cân bằng được tâm lý cũng như tài chính trong thời gian đầu bị mất việc làm.
BHTN vừa giúp đỡ họ ổn định cuộc sống khi bị mất việc làm thông qua việc trả
TCTN vừa tạo cơ hội để họ có thể tiếp tục tham gia thị trường lao động. Tạo ra chỗ
dựa về vật chất và tinh thần cho NLĐ khi lâm vào tình trạng mất việc làm.
*Đối với NSDLĐ, gánh nặng tài chính của họ sẽ được san sẻ khi những NLĐ
tại doanh nghiệp bị mất việc làm, họ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải
quyết chế độ cho NLĐ. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp
sản xuất, nhiều NLĐ thất nghiệp. Không chỉ dừng ở đó BHTN còn có vai trò hỗ trợ
cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề cho người lao động để họ có thể duy trì phát triển ngành nghề của mình.
Như vậy NSDLĐ vừa tiết kiệm được một khoản chi phí vừa có được một đội ngũ
lao động có tay nghề có kỹ thuật đã qua đào tạo để nâng cao hiệu quả và giảm chi
phí trong sản xuất vượt qua khó khăn ổn định doanh nghiệp.
*Đối với nhà nước, ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt chi phí khi nạn thất
nghiệp gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tạo sự chủ động về tài chính

cho nhà nước. BHTN chia sẻ gánh nặng ngân sách và ổn định tình hình chính trị xã
hội khi tình trạng thất nghiệp xảy ra, thu hút đầu tư để xây dựng phát triển đất nước.
Sở dĩ như vậy bởi thực hiện BHXH là quá trình hình thành và sử dụng quỹ tài chính
thông qua việc đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và sự hỗ
trợ của nhà nước, nhằm hỗ trợ cho người lao động trong thời kỳ họ bị mất việc làm
gián đoạn công việc, tạo điều kiện cho họ tìm việc làm mới trong thị trường lao
động. Mặt khác khi có trợ cấp thất nghiệp, giảm thiểu được chi phí ngân sách, giảm
thiểu các tệ nạn xã hội, tội phạm do nguyên nhân thất nghiệp gây ra. Bên cạnh đó
7


khi tham gia BHTN thì người lao động đã có phương án dự phòng khi họ bị mất
việc làm, giúp cho người lao động an tâm trong lao động sản xuất nâng cao hiệu quả
trong lao động, thúc đẩy xã hội phát triển và vấn đề an sinh xã hội. Có thể thấy
BHTN là 1 chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế và phát triển đất nước.
1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp
BHTN được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 và áp dụng bắt buộc
đối với người lao động và người sử dụng lao động1 (theo điều 43 luật việc làm năm
2013) có hai 2 nhóm đối tượng sau đây:
* NLĐ: Là công dân Việt Nam đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và
có nhu cầu làm việc, bắt buộc tham gia BHTN khi giao kết hợp đồng lao động hoặc
hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động quy định tại điểm 2 mục này:
- HĐLĐ, HĐLV không xác định thời hạn;
- HĐLĐ, HĐLV xác định thời hạn;
- Hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ
3 tháng đến dưới 12 tháng.
Trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng
lao động quy định tại khoản này thì người lao động và người sử dụng lao động của
hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Những người đang hưởng lương hưu hàng tháng, trợ cấp mất sức lao động
hằng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng
lao động như trên không thuộc đối tượng tham gia BHTN.
Người lao động theo quy định tại điều 1 khoản này đang hưởng lương hưu,
giúp việc gia đình thì không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

1

Là công dân Việt Nam giao kết các loại HĐLĐ, HĐLV với NSDLĐ nêu tại điểm 2 mục này trừ những người là công chức

theo quy định tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của chính phủ quy định

8


NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày (tính theo ngày làm
việc) trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương, tiền công tháng tại đơn vị mà
hưởng trợ cấp BHXH; NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật thì thời gian này NLĐ không thuộc
đối tượng tham gia BHTN.
So với quy định của luật BHXH năm 2006, đối tượng áp dụng BHXH theo
luật việc làm năm 2013 được mở rộng đến cả những NLĐ làm việc theo HĐLĐ
theo mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn từ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Theo
quy định tại luật BHXH năm 2006 chỉ những lao động có việc làm ổn định theo
hình thức hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định từ đủ 12 tháng đến
36 tháng và HĐLĐ, HĐLV không xác định thời hạn mới thuộc đối tượng tham gia
BHTN. Vào thời điểm luật xã hội năm 2006 ra đời quy định đối tượng BHTN là
phù hợp với hoàn cảnh lúc đó của Việt Nam. Lúc đó, một mặt về nghiên cứu lập
pháp về chế độ BHTN vẫn còn là vấn đề mới, chưa nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề này, việc thực hiện BHTN theo luật BHXH năm 2006 có thể được coi là bước

thử nghiệm để có thể thực hiện hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo; sau 5 năm
thực hiện chế độ BHTN tại Việt Nam đã cho thấy được sự ưu việt cũng như vai trò
to lớn của BHTN đối với NLĐ, NSDLĐ và nhà nước, đồng thời trong quá trình
triển khai thực hiện chúng ta cũng đã nhận thấy các ưu điểm, nhược điểm của chế
độ BHTN hiện hành để rút ra được các kinh nhiệm thực tiễn. Việc đưa chính sách
BHTN vào trong luật việc làm năm 2013 là một bước tiến lập pháp mới. Trong luật
BHTN năm 2013 đã mở rộng hơn đối tượng tham gia BHTN, theo đó người lao
động làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời
hạn từ 03 tháng đến dưới 12 tháng cũng phải tham gia BHTN. Việc mở rộng phạm
vi đối tượng tham gia BHTN này của Luật việc làm đã mở thêm cơ hội cho NLĐ
tham gia đóng BHTN và được hưởng TCTN trong trường hợp bị mất việc làm, gián
đoạn công việc. Trên thực tế người lao động làm theo mùa vụ hoặc làm việc có thời
hạn có nguy cơ mất việc làm khá cao bởi lẽ thời gian, việc làm của họ không mang
tính lâu dài bất ổn định. Có thể thấy việc điều chỉnh lại đối tượng tham gia BHTN
của luật việc làm là phù hợp với tình hình diễn biến của thị trường lao động.
9


Tại khoản 1 điều 43 Luật việc làm còn quy định trong trường hợp người lao
động giao kết và đang thực hiện nhiều HĐLĐ thuộc đối tượng áp dụng BHTN thì
người lao động và người sử dụng lao động của HĐLĐ giao kết đầu tiên có trách
nhiệm tham gia BHTN. Quy định này tạo thêm cơ chế linh hoạt, dễ dàng cho cơ
quan BH xác định đúng đối tượng phải đóng BHTN.
Bên cạnh việc quy định các đối tượng phải tham gia BHTN thì Luật việc làm
còn quy định các trường hợp NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN. (tại
khoản 2 điều 43 luật việc làm năm 2013). Quy định này phù hợp với thực tiễn và
thông lệ quốc tế. Theo quy định của ILO về người thất nghiệp thì không phải bất kỳ
người nào không có việc làm cũng được xếp vào trường hợp là NLĐ thất nghiệp mà
chỉ có những người "trong độ tuổi lao động", có khả năng lao động, đủ sức khỏe, có
nhu cầu làm việc đang không có việc làm thì mới được coi là người thất nghiệp.

Chính vậy người đang hưởng lương hưu sẽ không được coi là đối tượng được
hưởng trợ cấp thất nghiệp. Người giúp việc gia đình cũng không được xếp vào đối
tượng tham gia bảo hiểm, hưởng trợ cấp thất nghiệp xuất phát từ những đặc thù
nghề nghiệp của họ.
* NSDLĐ tham gia BHTN
NSDLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm Cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị Xã hội, tổ chức chính trị xã hội - Nghề nghiệp, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức
quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ
kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động
theo hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 điều này.
(khoản 3 điều 43 luật việc làm).
So với luật Bảo hiểm năm 2006 thì đối tượng NSDLĐ tham gia BHTN theo
luật việc làm được mở rộng hơn. Tại luật BHXH thì chỉ những NSDLĐ có đủ từ 10
người lao động trở lên có người lao động giao kết hợp HĐLĐ hoặc HĐLV không
xác định thời hạn và hợp đồng xác định thời hạn từ đủ từ 12 tháng đến 36 tháng mới
thuộc đối tượng tham gia BHTN. Luật việc làm năm 2013 đã bỏ quy định giới hạn
10


số lượng NLĐ trong doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia BHTN, tạo điều kiện hơn
cho người lao động.
Khi tham gia BHTN, trước hết các chủ thể có nghĩa vụ đóng vào quỹ BHTN.
Theo kh.1 Đ. 57 Luật Việc làm, NLĐ đóng bằng 1% tiền lương tháng; NSDLĐ
đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những NLĐ đang tham gia BHTN. Ngoài
ra, một chủ thể khác cũng tham gia đóng góp, hỗ trợ vào quỹ là Nhà nước. Theo đó,
Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang
tham gia BHTN và do ngân sách Trung ương đảm bảo.
Như vậy hai chủ thể là NLĐ và NSDLĐ có tỉ lệ mức đóng bằng nhau là 1%
tiền lương hoặc quỹ tiền lương; Nhà nước hỗ trợ cao nhất là 1% quỹ lương. Điều
này nếu so sánh với mức đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế thì có sự khác biệt.

Đây cũng là điều cần được trao dổi thêm.
1.2.2. Các chế độ hưởng
Các chế độ BHTN được quy định tại điều 42 Luật việc làm gồm bốn chế độ:
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm.
- Hỗ trợ học nghề.
- Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho người lao động.
1.2.2.1 Trợ cấp thất nghiệp
a) Điều kiện hưởng
Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định tại điều 49 Luật Việc
làm. Xuất phát từ đặc trưng của BHTN nên điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm cũng
khá phức tạp hơn các chế độ khác.2
Người lao động theo quy định tại khoản 1 điều 43 của luật này đang đóng
bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau
đây:
11


- Người lao động chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động, trừ
các trường hợp sau đây:
+ Người lao động đơn phương chấm dứt hợp động lao động, hợp đồng làm
việc trái pháp luật;
+ Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;
- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24
tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn; HĐLĐ, HĐLV xác định thời hạn đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ
12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động
theo mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn từ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
- Người LĐ đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ

việc làm tại khoản 1 điều 46;
+ Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc, người lao động đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm
dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc thành lập.
- NLĐ chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng
BHTN, trừ các trường hợp;
+ Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;
+ Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;
+ Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
+ Tạm giam chấp hành hình phạt tù;
+ Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;
+ Chết

2

Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm

việc không xác định thời hạn; HĐLĐ, HĐLV xác định thời hạn đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36
tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn từ 03 tháng đến dưới 12 tháng.

12


So với các quy định trong luật BHXH 2006 thì các quy định về điều kiện thưởng
BHTN theo luật việc làm năm 2013 có một số khác biệt.
- Thứ nhất trong luật việc làm đã có sự phân loại về điều kiện khoảng thời
gian đóng đủ 12 tháng BHTN trước khi thất nghiệp thành 2 trường hợp cụ thể: NLĐ
thuộc trường hợp tại điểm a, b khoản 1 điều 43 sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp
nếu đóng đủ 12 tháng BHTN trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; còn

NLĐ thuộc điểm c khoản 1 điều 43 thì người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thất
nghiệp nếu đóng đủ 12 tháng BHTN trong thời gian 36 tháng trước khi thất nghiệp.
Còn trong luật BHXH thì người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp nếu
đóng đủ 12 tháng BHTN trước khi thất nghiệp. Sở dĩ có sự khác biệt này là do trong
luật việc làm đã mở rộng thêm đối tượng là những người lao động làm việc theo
hợp đồng mùa vụ hoặc một công việc xác định có thời hạn từ 03 đến dưới 12 tháng
(điểm c khoản 1 điều 43 luật việc làm). Đây là nhóm đối tượng không có việc làm
ổn định và dễ lâm vào tình trạng thất nghiệp nhất, chính vì vậy việc kéo dài khoảng
thời gian đóng đủ 12 tháng BHTN trước khi nhóm thất nghiệp này lâm vào tình
trạng thất nghiệp là hoàn toàn hợp lý đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đối tượng
tham gia BHTN
- Thứ hai, nếu trong luật việc làm NLĐ chỉ cần đăng ký thất nghiệp với tổ
chức BHTN để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì trong luật việc làm, NLĐ muốn
được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì cần phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp
trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV. Quy định này của
luật việc làm hợp lý hơn bởi một mặt giúp các cơ quan lắm bắt chính xác được tình
hình thất nghiệp của người lao động thông qua hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất
nghiệp qua đó sẽ chi trả trợ cấp thất nghiệp kịp thời cho người lao động, mặt khác
nâng cao được ý thức cho người lao động trong việc chủ động thực hiện các thủ tục
về BHTN nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Thứ ba, luật việc làm đã loại trừ 1 số trường hợp không thuộc đối tượng
hưởng trợ cấp thất nghiệp (điểm a,b khoản 1 và điểm a,b,c,d,đ,e khoản 4 điều 49
Luật việc làm), sự thay đổi mang tính sàng lọc này của luật việc làm so với luật
BHXH 2006 nhằm đảm bảo cho việc công bằng khi tri trả trợ cấp thất nghiệp cho
13


NLĐ, hạn chế được việc chi trả trợ cấp tràn lan dẫn đến hoạt động kém hiệu quả của
quỹ BHTN ảnh hưởng đến người tham gia và thụ hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
b) Mức hưởng

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định tại khoản 1 điều 50 của luật
việc làm năm 2013. Theo quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng
60 % mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền
kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với
người lao động thuộc đối tượng thực hiện tiền lương do nhà nước quy định hoặc
không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của bộ luật lao động đối
với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử
dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định trên là phù hợp vì nó không
quá thấp và cũng không quá cao sẽ gây khó khăn cho quỹ BHTN trong quá trình
thực hiện. Quy định này cũng tương đối phù hợp với khuyến nghị của ILO và pháp
luật của quốc gia trên thế giới. Giới hạn mức trợ cấp tối đa chính là điểm mới của
Luật Việc làm so với Luật BHXH 2006 khi quy định về mức trợ cấp thất nghiệp.
Đây là sự thay đổi hợp lý bởi nó đảm bảo được sự công bằng khi chi trả trợ cấp thất
nghiệp, đảm bảo nguyên tắc chia sẻ rủi ro trong BHTN và duy trì được hoạt động
lâu dài của quỹ BHTN.
c) Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo khoản 2 điều 50 Luật Việc làm năm 2013, thời gian hưởng trợ cấp thất
nghiệp được tính theo số tháng đóng BHTN, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng
thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì
được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Người lao động có thời gian đóng BHTN trên 36 tháng thì những tháng lẻ chưa giải
quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng
trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện
hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy Định So với Luật BHXH năm 2006, thời gian
hưởng trợ cấp thất nghiệp vẫn bị khống chế tối đa là 12 tháng. Nếu như luật BHXH
14


2006 chia thời gian đóng bảo hiểm thành 4 khung khá rộng để xác định 4 mức thời

gian hưởng trợ cấp tương ứng5 thì luật việc làm năm 2013 chỉ chia khung đầu tiên,
sau đó sau đó tăng dần thời gian hưởng trợ cấp tương ứng với thời gian đóng BHTN
tăng thêm đủ 12 tháng so với mức liền kề như đã nêu. Nghị định 28/2015/NĐ-CP
cũng đã bổ sung quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN;
Người lao động có thời gian đóng BHTN trên 36 tháng thì những tháng lẻ chưa giải
quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng
trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện
hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định. Cách xác định thời gian hưởng trợ cấp thất
nghiệp đã đảm bảo quyền lợi của người lao động và có tính hợp lý hơn phù hợp
hơn.
d, Tạm dừng trợ cấp thất nghiệp
Tạm dừng trợ cấp thất nghiệp được quy định ở khoản 1 điều 53 của Luật
Việc làm. Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất
nghiệp khi không thông báo về việc tìm kiếm việc làm hàng tháng theo quy định tại
Điều 52 của Luật này. Sự thay đổi so với luật BHXH về vấn đề này ở chỗ Luật việc
làm đã bỏ đi trường hợp người đang hưởng thất nghiệp bị tạm giam sẽ bị dừng
hưởng trợ cấp thất nghiệp. NLĐ trong tình trạng thất nghiệp sẽ tiếp tục được hưởng
trợ cấp thất nghiệp vào tháng tiếp theo nếu họ vẫn trong khoảng thời gian được trợ
cấp thất nghiệp và họ tiếp tục thực hiện thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc.
làm của mình với cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Thời gian bị tạm ngừng hưởng
trợ cấp thất nghiệp sẽ không được truy lĩnh hưởng trợ cấp thất nghiệp. Quy định này
giúp cơ quan quản lý lao động có thể quản lý chặt chẽ được tình hình việc làm của
người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, nâng cao ý thức cho họ trong việc tìm kiếm
việc làm cũng như đảng bảo được công bằng trong việc chi trả trợ cấp thất nghiệp.
đ, Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 điều 53 Luật Việc làm và theo Nghị
định 28/2015/NĐ-CP như sau; i) Hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quyết
15



định hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động; ii) Có việc làm, người lao động
được coi là có việc làm thuộc một trong các trường hợp sau:
Đã giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc từ đủ 3 tháng trở lên.
Ngày mà người lao động được xác định có việc làm là ngày hợp đồng lao động
hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực theo quy định của pháp luật; Có quyết định
tuyển dụng đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết hợp đồng lao
động hoặc hợp đồng làm việc. Ngày có việc làm trong trường hợp này được xác
định là ngày bắt đầu làm việc của người đó ghi trong quyết định tuyển dụng;
Người lao động thông báo đã có việc làm cho trung tâm Dịch vụ việc làm
theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định. Ngày mà
người lao động được xác định có việc làm là ngày ghi trong thông báo có việc làm
của người lao động. iv)Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Ngày mà
người lao động được xác định thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an là ngày
người lao động nhập ngũ. v) Hưởng lương hưu hàng tháng; Ngày mà người lao
động được xác định nghỉ hưu là ngày đầu tiên tính hưởng lương hưu được ghi trong
quyết định hưởng lương hưu hàng tháng của cơ quan có thẩm quyền. vi) Sau hai lần
người lao động từ chối việc làm do Trung tâm Dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ
cấp thất nghiệp giới thiệu mà không có lý do chính đáng; Người lao động đang
hưởng trợ cấp thất nghiệp từ chối việc làm thuộc một trong các trường hợp sau,
được xác định là không có lý do chính đáng; Việc làm làm phù hợp với ngành nghề,
trình độ của người lao động đã được đào tạo, việc làm mà người lao động đó đã
từng làm. vii) Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, ba tháng liên tục không
thực hiện thông báo hàng tháng về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch vụ
việc làm theo quy định; iix) Ra nước ngoài định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài theo hợp đồng; ngày mà người lao động được xác định ra nước ngoài định cư,
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là ngày người lao động xuất
cảnh theo quy định của pháp luật về xuất, nhập cảnh. ix) Đi học tập có thời hạn đủ
12 tháng trở lên; Ngày mà người lao động được xác định đi học tập có thời hạn 12
tháng trở lên là ngày nhập học được ghi trong giấy báo nhập học đối với học tập

trong nước. Trường hợp học tập ở nước ngoài thì ngày người lao động được xác
16


định đi học tập có thời hạn 12 tháng trở lên là ngày xuất cảnh theo quy định của
pháp luật về xuất, nhập cảnh. x) Bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm
pháp luật bảo hiểm thất nghiệp; ngày mà người lao động được xác định bị xử phạt
vi phạm hành chính nêu trên là ngày người lao động bị xử phạt theo quyết định của
cơ quan có thẩm quyền. xi) Chết; Ngày xác định người lao động chết là ngày ghi
trong giấy chứng tử. xii) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc là ngày bắt đầu thực hiện biện pháp sử lý hành
chính được ghi trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền. xiii) Bị tòa án tuyên
bố mất tích; Ngày mà người lao động mất tích được xác định trong quyết định của
tòa án. iix) Bị tạm giam chấp hành hình phạt tù; Ngày mà người lao động được xác
định bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù là ngày bắt đầu thực hiện quyết định tạm
giam, chấp hành hình phạt tù của cơ quan có thẩm quyền;
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất
nghiệp theo quy định tại các điểm ii,iii, vi và vii khoản 1 điều này, người lao động
phải thông báo với Trung tâm Dịch vụ việc làm nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp
theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định và kèm
theo giấy tờ có liên quan đến việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp (bản chụp),
trường hợp gửi theo đường bưu điện thì tính ngày ghi trên dấu bưu điện.
Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp
thất nghiệp trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này thì trung tâm dịch
vụ việc làm nơi người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp trình Giám đốc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất
nghiệp của người lao động. Quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp
được trung tâm dịch vụ việc làm gửi 1 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực
hiện việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người lao động; 01 bản đến
người lao động. Quyết định về việc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thực hiện

theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định.
Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp
thất nghiệp vào những ngày của tháng đang hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao
động vẫn được hưởng trợ cấp thất nghiệp của cả tháng đó.
17


Người lao động bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thuộc các trường hợp;
có việc làm, thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, đi học tập có thời hạn đủ
12 tháng trở lên, chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở bắt buộc
giáo dục, cơ sở cai nghiện bắt buộc, bị tòa án tuyên bố mất tích, bị tạm giam chấp
hành hình phạt tù. Thì thời gian đóng BHTN tương ứng với thời gian còn lại mà
người lao động chưa nhận trợ cấp thất nghiệp được bảo lưu làm căn cứ để tính thời
gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ
điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định. Thời gian bảo lưu được tính
bằng tổng thời gian đóng BHTN trừ đi thời gian đóng đã được hưởng trợ cấp thất
nghiệp theo nguyên tắc mỗi tháng đã hưởng trợ cấp thất nghiệp tương ứng với 12
tháng đã đóng BHTN.
Quy định này của Luật việc làm nhằm hướng tới bảo vệ quyền lợi cho người
lao động bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp một cách bị động, tạo mọi điều kiện
tốt nhất bảo lưu cho họ hưởng trợ cấp thất nghiệp trong lần tiếp theo.
1.2.2.2 Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm
Đây là một chế độ quan trọng của BHTN nhằm đưa người lao động đang
trong tình trạng thất nghiệp, mất việc làm quay trở lại thị trường lao động. Chế độ
này được quy định tại điều 54 của Luật Việc làm 2013, theo đó " Người lao động
quy định tại khoản 1 điều 43 của Luật này đang đóng BHTN bị chấm dứt hợp đồng
lao động hoặc hợp đồng làm việc mà có nhu cầu tìm kiếm việc làm được tư vấn giới
thiệu việc làm miễn phí". Khi người lao động bị mất việc làm đồng nghĩa với nguồn
thu nhập sẽ bị gián đoạn, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của NLĐ và gia đình
họ. BHTN ra đời nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất

việc làm. Tuy nhiên đó chỉ là biện pháp khắc phục tạm thời, biện pháp khắc phục
lâu dài chính là của BHTN là giới thiệu việc làm lại, việc làm mới cho người lao
động bị thất nghiệp tái hòa nhập sớm trở lại thị trường lao động thông qua việc tư
vấn vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho NLĐ. Việc giới thiệu việc làm do các
Trung tâm Dịch vụ việc làm là cầu nối trực tiếp kết nối cho người lao động đến với
các nhà tuyển dụng thông qua sàn giao dịch việc làm.
18


×