Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại toà án nhân dân tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
“ Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng

thương mại với khách hàng doanh nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại Tòa án
nhân dân tỉnh Hải Dương”

NGUYỄN THIỆN PHÁN
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI – 2016

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ luật học đề tài “ Pháp luật

về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với
khách hàng doanh nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương” là do tôi thực hiện trên cơ sở hướng dẫn khoa học của TS. Giảng viên
Nguyễn Văn Tuyến.
Các số liệu, kết quả, ví dụ trong Luận văn đảm bảo độ chính xác và tin cậy. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng đươc ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.


Tác giả

Nguyễn Thiện Phán

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và nghiên cứu đề tài luận văn này tôi xin
chân thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo – Viện Đại học
Mở Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến cô giáo hướng dẫn khoa
học: TS. Nguyễn Văn Tuyến người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tình hướng
dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành
nhiều thời gian và công sức chỉ bảo giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn
này.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương,
các bạn bè, đồng nghiệp nơi tôi công tác đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh, song do lần đầu
làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi mong được sự góp ý của quý Thầy,
Cô giáo và các bạn bè đồng nghiệp để luận ăn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này
Học viên

3



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐTD:

Hợp đồng tín dụng

TMCP

Thương mại cổ phần

CTCP

Công ty cổ phần

NQ

Nghị quyết

TW

Trung ương.

VIAC

Phòng Thương mại và công nghiệp Việt
Nam .

GCNQSDĐ:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


NQ:

Nghị quyết.

4


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .............................................. 8
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 8
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của
đề tài .................................................................................................................. 9
Chương 1....

12

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP.................................................
12
1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ....................................... 12
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ...................... 12
1.1.2. Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng

thương mại với khách hàng doanh nghiệp ........................................................ 15
1.1.3. Hậu quả kinh tế và hậu quảpháp lý của tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp......... 17
1.1.4. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp....... 181

5


1.1.5. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân
hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp.............................................. 214
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp .................... 258
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấphợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ..................................... 258
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ............................... 19
Chương 2....

281

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG ................................................. 28
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ở Việt Nam .................... 28
2.1.1. Thực trạng quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ................. 28
2.1.2. Thực trạng quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ...................... 30
2.1.3. Thực trạng quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ................. 50
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương
mại với khách hàng doanh nghiệp tại Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương................. 57
2.2.1. Các kết quả đạt được..................................................................... 57
Chương 3...................................................................................................

6


CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM ..................................... 59
3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp......... 59
3.2. Các giải pháp tổ chức thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp......... 67
Kết luận .........................................................................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............

7

63


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy rằng hệ thống pháp luật Việt
Nam về giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp HĐTD nói riêng đã

và đang được quan tâm nhiều hơn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngành càng mạnh
mẽ của nền tư pháp nước nhà. Tuy nhiên, do số lượng tranh chấp phát sinh từ HĐTD
đang có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng và tính phức tạp thì tình trạng tranh
chấp chưa hoặc chậm được giải quyết có xu hướng ngày càng nhiều. Điều này đã phần
nào phản ánh một nguyên nhân quan trọng – đó là sự hạn chế, bất cập của pháp luật
hiện hành về giải quyết tranh chấp hợp đồng nói chung và tranh chấp hợp đồng tín
dụng nói riêng.
Từ những vấn đề đã và đang nảy sinh trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về
HĐTD giữa ngân hàng với khách hàng vay là doanh nghiệptrong thời gian qua, nhiều
câu hỏi được đặt ra cần có lời giải đáp thỏa đáng như: quan niệm như thế nào về bản
chất đích thực của các tranh chấp và cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng là doanh nghiệp vay vốn; bằng cách nào
để hạn chế các tranh chấp này phát sinh hoặc pháp luật cần có quy định như thế nàovề
cơ chế giải quyết tranh chấp để từ đó làm giảmchi phí cho các bên liên quan đến hợp
đồng này?
Ý thức rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh
chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại với khách hàng vay là doanh
nghiệp hiện nay, tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp từ
thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nói chung và giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTM với khách hàng nói riêng, trong đó có
khách hàng doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều người,
trong đó có những công trình nghiên cứu là luận văn thạc sĩ.

8


Ở mức độ khái quát, có thể kể tên một số công trình nghiên cứu là luận văn thạc

sĩ sau đây:
- Hoàng Thanh Thúy (2010),Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Pháp luật về
giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương
mại ở Việt Nam”;
- Trần Thu Lan (2011), Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Hợp đồng cho vay
tại ngân hàng thương mại – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”;
- Nguyễn Thị Liên Hương (2012), Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài:“Mối
quan hệ pháp lý giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt
động cho vay tại các tổ chức tín dụng”;
-Phạm Thị Thanh Hà (2013), Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài:“Tranh chấp
phát sinh từ hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng”;
-Nguyễn Thị Hà (2014), Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Thực tiễn giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Ngân hàng TMCP
xuất nhập khẩu Việt Nam”…
Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu một cách
tương đối đầy đủ và có tính chuyên sâu về giải quyết tranh chấp hợp đồng và pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có công trình nghiên cứu nào là luận văn thạc sĩ nghiên cứu riêng về vấn đề
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTM với khách hàng doanh nghiệp và
pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa NHTM với doanh nghiệp
qua thực tiễn thực hiện tại một địa phương cụ thể là tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Vì thế, có thể cho rằng đề tài này đáp ứng được các yêu cầu về tính mới so với các
công trình nghiên cứu là luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của
đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tranh chấp và giải quyết tranh chấp HĐTD phát sinh giữa NHTM với khách hàng
doanh nghiệp thông qua việc nghiên cứu các cơ sở pháp lý, khảo sát thực trạng pháp

9



luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa
NHTM với khách hàng doanh nghiệp tại Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa NHTM với khách hàng
doanh nghiệp ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan điểm, tư tưởng, học thuyết về
tranh chấp và giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với khách hàng doanh
nghiệp;các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân
hàng với doanh nghiệp và thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với
khách hàng doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số vấn đề lý luận và thực tiễn
sau đây:Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐTD giữa ngân hàng với khách hàng doanh nghiệp; thống kê, khảo sát và phân tích
thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng với doanh nghiệp
tại Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu trong khoa học xã hội, ví dụ như: phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp đối chiếu, so sánh luật học; phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương
pháp thống kê, khảo sát… để giải quyết các yêu cầu của đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp và pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh
nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện tại

10


Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ở Việt Nam.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Theo Từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị, thuật ngữ tranh chấp được giải
nghĩa là sự tranh cãi, tranh giành nhau1. Còn theo Từ điển tiếng Việt, tranh chấp được
giải thích là “sự giành giật, giằng co nhau một cái gì không rõ thuộc về ai hoặc của ai;
tranh chấp là giằng co những gì mà không biết ai đúng, ai sai, là sự giằng co nhau về
mặt lợi ích, có thể về vật chất hoặc tinh thần, hoặc xung đột về quyền lợi”.
Xét về khía cạnh luật học, khái niệm “tranh chấp”được hiểu là sự bất đồng, mâu
thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan đến đối tượng tranh

chấp. Sự bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau và
vì vậy,tên gọi của tranh chấp thường gắn với lĩnh vực phát sinh tranh chấp, chẳng hạn
như: tranh chấp đất đai, tranh chấp về thuế, tranh chấp về đầu tư, tranh chấp về hợp
đồng vận chuyển hàng hóa, tranh chấp về hợp đồng tín dụng…
Thực tế cho thấy rằng, phần lớn các tranh chấp phát sinh trong đời sống kinh tế
- xã hội đều liên quan đến vấn đề phân tranh lợi ích giữa các chủ thể có liên quan đến
đối tượng tranh chấp. Sự phân tranh về quyền và lợi íchgiữa các bên thường gắn với
nguyên nhân chủ yếu là một bên có hành vi gây tổn hại về lợi ích cho bên kia và

1

Xem thêm: Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, NXB Thời Thế, trang 1369.

12


ngược lại. Trong số các loại hình tranh chấp rất đa dạng thường diễn ra trong đời sống
hiện nay, tranh chấp hợp đồng được xem là loại tranh chấp phổ biến và do đó cũng
nhận được nhiều sự quan tâm nhất của giới nghiên cứu học thuật.
Với tư cách là một loại tranh chấp khá phổ biến và có tính điển hình trong nền
kinh tế thị trường, tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách
hàng doanh nghiệp có thể được hiểu như sau:
Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng
doanh nghiệp là tình trạng pháp lý đặc biệt của quan hệ hợp đồng tín dụng giữa
NHTM với khách hàng doanh nghiệp, theo đó các bên có sự bất đồng chính kiến, sự
mâu thuẫn hay xung đột về quyền và lợi ích giữa họ với nhau và được thể hiện ra bên
ngoài thông qua những bằng chứng nhất định.
Như vậy, tranh chấp HĐTD giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp luôn
phản ánh một tình trạng pháp lý đặc biệt của quan hệ hợp đồng tín dụng, theo đó các
bên tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng có sự xung đột về quyền lợi, bất đồng quan

điểm trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng tín dụng2.
Về phương diện học thuật, tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể tham gia tranh chấp (các bên tranh chấp) luôn luôn có một
bên là tổ chức tín dụng, còn bên kia là doanh nghiệp vay vốn, với tư cách là bên vay.
Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, chủ thể tham gia tranh chấp còn có thể
bao gồm người thứ ba, chẳng hạn như bên bảo lãnh, bên thế chấp tài sản là người thứ
ba chứ không phải là các bên tham gia hợp đồng. Riêng đối với chủ thể vay vốn là
doanh nghiệp, việc vay vốn của chủ thể này chủ yếu nhằm mục đích kinh doanh nên
các tranh chấp này luôn có tính chất là tranh chấp kinh doanh thương mại.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp có đối tượng là khá đa dạng, bao gồm các yêu cầu của
2

Xem thêm: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà
Nội – 2012, trang 175, 176.

13


bên này đối với bên kia và ngược lại3.Như vậy, theo pháp luật tố tụng của Cộng hòa
Pháp thì đối tượng của tranh chấp nói chung và tranh chấp hợp đồng tín dụng nói riêng
luôn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp và lợi ích đó
được thể hiện qua yêu cầu cụ thể của các bên, đặc biệt là bên nguyên đơn trong hồ sơ
khởi kiện tại tòa án. Nói cách khác, đa số các tranh chấp hợp đồng là loại tranh chấp
về lợi ích tư, do luật tư điều chỉnh, trong đó quyền tự định đoạt của các bên tham gia
tranh chấp được pháp luật công nhận, tôn trọng và bảo vệ. Quyền tự định đoạt của các
bên là yếu tố then chốt, quyết định đến cách thức giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Điều đó thể hiện ở chỗ, các bên tranh chấp có thể tự lựa chọn cách thức giải quyết
tranh chấp giữa họ với nhau, chẳng hạn như có thể giải quyết tranh chấp hợp đồng tín

dụng bằng phương thức hòa giải, thương lượng, trọng tài, tòa án. Việc lựa chọn
phương thức nào phù hợp nhất là quyền của các bên nhưng phải dựa trên nền tảng
nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, tôn trọng, bảo đảm thực hiện
đúng pháp luật. Đặc điểm này cho phép phân biệt giữa tranh chấp hợp đồng tín dụng
với các loại tranh chấp liên quan đến lợi ích công như tranh chấp giữa các cơ quan nhà
nước với nhau; tranh chấp giữa các quốc gia với nhau hoặc với các tổ chức quốc tế;
tranh chấp giữa nhà nước với tư nhân.
Nói một cách cụ thể hơn, đối tượng của tranh chaps hợp đồng tín dụng giữa
NHTM với khách hàng doanh nghiệp thực chất là các yêu cầu của các bên liên quan
đến số tiền vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, nghĩa vụ hoàn trả tiền vay, tài sản
bảo đảm và vấn đề xử lý tài sản bảo đảm…
Thứ ba, tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách
hàng doanh nghiệp luôn được giải quyết trên tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên. Nói cách khác, việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng được thực hiện theo
nguyên tắc ưu tiên sự thỏa thuận hợp pháp của các bên có tranh chấp. Trong trường
3

Theo Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp, nhà làm luật nước này quy định rằng “đối tượng của tranh
chấp được xác định qua các yêu cầu của bên này đối với bên kia. Các yêu cầu này được xác định trong đơn khởi
kiện và trong các văn bản lý giải để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, đối tượng của tranh chấp cũng có thể
thay đổi trên cơ sở các yêu cầu bổ sung khi các yêu cầu bổ sung có quan hệ chặt chẽ với những yêu cầu ban
đầu”. Dẫn bởi nguồn: Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998,
trang 8.

14


hợp các bên không có thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp và phương thức giải
quyết tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp mới được thực hiện theo quy định của
pháp luật.

1.1.2. Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Việc phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với
khách hàng doanh nghiệp tuy là vấn đề có tính lý thuyết thuần túy nhưng lại có ý nghĩa
thực tiễn rất sâu sắc. Điều này thể hiện ở chỗ, nhờ có kết quả phân loại mà cá nhà làm
luật mới có cơ sở lý thuyết để đưa ra các quy định hợp lý, khách quan và hiệu quả về
từng loại tranh chấp và cơ chế cụ thể để giải quyết các tranh chấp đó.
Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy rằng các tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa
ngân hàng thương mại với doanh nghiệp thường rất đa dạng và phức tạp.
Có thể phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí cơ bản như:
Thứ ba, nếu dựa vào tiêu chí đối tượng của tranh chấp phát sinh từ HĐTD, có
thể phân loại tranh chấp này bao gồm các loại chủ yếu như:
- Tranh chấp về quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp
đồng bảo đảm tiền vay; tranh chấp về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng
hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay;
- Tranh chấp về số tiền vay và lãi suất cho vay;
- Tranh chấp về thời hạn vay vốn, thời hạn tính lãi quá hạn, thời hạn bảo đảm
tiền vay;
- Tranh chấp về tiền phạt vi phạm hợp đồng và/hoặc tiền bồi thường thiệt hại
phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
Thứ hai, nếu dựa vào tiêu chí thành phần chủ thể của quan hệ tranh chấp, có thể
phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng thành các loại chủ yếu sau đây:
- Tranh chấp phát sinh giữa hai bên là ngân hàng cho vay với bên kia là khách
hàng vay vốn. Đây là loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay trong lĩnh vực cho vay

15


của NHTM vì quan hệ hợp đồng tín dụng có bản chất là giao dịch phát sinh giữa hai

chủ thể này với nhau.
- Tranh chấp phát sinh giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn và với bên thứ
ba (ví dụ: bên thế chấp, bên bảo lãnh, bên được ủy quyền quản lý tài sản bảo đảm…).
Loại tranh chấp này ít xảy ra hơn vì các xung đột lợi ích nhiều bên thường ít xảy ra
hơn và nếu có xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp cũng sẽ rất phức tạp.
- Tranh chấp phát sinh giữa ngân hàng (với tư cách là bên nhận bảo đảm) với
bên bảo đảm trong giao dịch bảo đảm tiền vay ngân hàng. Loại tranh chấp này tuy
không phổ biến như loại tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn nhưng
cũng thường xảy ra trên thực tế do phần lớn các hợp đồng tín dụng đều là hợp đồng
cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Thứ ba, nếu dựa vào tiêu chí nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, có thể phân chia
tranh chấp hợp đồng tín dụng thành hai loại gồm:
- Tranh chấp phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng từ phía ngân hàng thương
mại: HĐTD là một dạng của hợp đồng ưng thuận có hình thức bắt buộc thể hiện bằng
văn bản. Vì thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân vốn mà hai bên đã thoả
thuận là nghĩa vụ của các NHTM. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà NHTM đã không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân đối với khách hàng. Điều
này làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp, làm chậm tiến độ xây dựng, phá vỡ
kế hoạch, mất cơ hội kinh doanh... của khách hàng vay vốn, dẫn tới những tổn thất lớn
về kinh tế, về uy tín và thương hiệu của khách hàng. Do đó, khách hàng có thể kiến
nghị, đòi bồi thường cho những tổn thất đó, vì vậy mà tranh chấp HĐTD đã xảy ra.
- Tranh chấp phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng từ phía khách
hàng vay vốn. Phần lớn các tranh chấp phát sinh từ HĐTD đều bắt nguồn từ hành vi vi
phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của khách hàng với nhiều ký do khác nhau như sự tác
động của tình hình suy thoái kinh tế khiến các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc do
doanh nghiệp cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng; do doanh nghiệp phá sản dẫn
đến việc không có khả năng trả nợ cho NHTM khi đến hạn.

16



1.1.3. Hậu quả kinh tế và hậu quả pháp lý của tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Như đã đề cập ở trên, tranh chấp hợp đồng nói chung và tranh chấp hợp đồng
tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp luôn phản ánh một quan hệ đặc biệt mà ở
đó, quyền và lợi ích giữa các bên đang ở trong trạng thái mâu thuẫn với nhau, thậm chí
đối lập nhau. Tình trạng này chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả bất lợi cho các bên
liên quan, cả về khía cạnh kinh tế lẫn khía cạnh pháp lý.
Ở mức độ khái quát, tác giả luận văn cho rằng những hậu quả bất lợi xảy ra cho
các bên liên quan do tình trạng tranh chấp hợp đồng tín dụng được thể hiện ở những
phương diện sau đây:
Thứ nhất, về hậu quả kinh tế. Tình trạng tranh chấp giữa các bên liên quan đến
hợp đồng tín dụng chắc chắn sẽ gây tốn kém về tiền bạc, gia tăng chí phí cho các bên
do phải tìm cách để loại trừ mâu thuẫn, xóa bỏ xung đột lợi ích. Việc áp dụng những
phương pháp, cách thức khác nhau để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể
gây ra mức độ tốn kém khác nhau. Chẳng hạn, qua khảo sát cho thấy việc các bên giải
quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải chắc chắn sẽ ít tốn kém hơn so với việc
giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán (trọng tài hoặc tòa án), trong đó cơ chế tòa
án luôn được đánh giá là tốn kém nhất cho các bên tranh chấp, thậm chí cho cả Nhà
nước là chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, thông qua cơ quan đặc biệt là tòa
án do Nhà nước thành lập.
Ngoài ra, hậu quả kinh tế bất lợi xảy ra cho các bên liên quan do tình trạng
tranh chấp còn thể hiện ở chỗ, sự tranh chấp sẽ làm mất đi các cơ hội kinh doanh của
các bên (ngân hàng và doanh nghiệp vay vốn), vốn dĩ rất khó lấy lại. Chính điều này
khiến cho cả ngân hàng cho vay và doanh nghiệp vay vốn đều bị thiệt hại về mặt kinh
tế, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng và doanh nghiệp trên thương
trường.
Thứ hai, về hậu quả pháp lý. Tình trạng tranh chấp giữa các bên liên quan đến
hợp đồng tín dụng chắc chắn sẽ là một rào cản pháp lý đối với việc “hàn gắn” và phát


17


triển mối quan hệ giao dịch, quan hệ hợp đồng giữa ngân hàng thương mại với khách
hàng doanh nghiệp. Bởi lẽ, khi quan hệ hợp đồng tín dụng giữa các bên bị rạn nứt do
tình trạng có tranh chấp,chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của các bên đối với nhau
và sự mất lòng tin đó chính là nguy cơ đẩy các bên ra xa nhau hơn, thậm chí là tình
trạng “tuyệt giao” vì sự mâu thuẫn, xung đột hay bất đồng đã ở mức độ quá sâu sắc.
Thực tiễn cho thấy nhiều ngân hàng và doanh nghiệp vay vốn khi phát sinh tranh chấp
và kể cả sau khi tranh chấp đã được giải quyết thì mối quan hệ thiện chí trong kinh
doanh giữa họ với nhau không còn như giai đoạn trước đó, thậm chí là sẵn sàng từ
chối việc giao kết hợp đồng tín dụng, cho dù cả hai bên đều có nhu cầu cho vay hoặc
đi vay.
Ngoài ra, khi đã phát sinh tranh chấp hợp đồng tín dụng, hậu quả pháp lý tất
yếu của tình trạng này là các bên bị buộc phải tham gia vào một “cuộc chiến pháp lý”
mà có thể cả hai bên đều không mong muốn. Trong “cuộc chiến pháp lý” này, tất yếu
sẽ có người thắng kẻ thua và cho dù bên nào thắng kiện thì cũng đều gây ra những bất
lợi về pháp lý cho các bên, đó là việc giảm uy tín và lòng tin giữa các bên đối với nhau
trong quan hệ giao dịch, từ đó làm giảm sút việc xác lập quan hệ hợp đồng - vốn dĩ là
mục đích sống còn của các nhà kinh doanh khi gia nhập thị trường.
1.1.4. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Như đã khẳng định ở trên, tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn phát
sinh trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ hợp
đồng tín dụng.Hệ quả tất yếu của tình trạng tranh chấp là các bên phải tìm được
phương cách phù hợp nhất để giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau nhằm đảm bảo
các quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của mình. Vì thế mà phát sinh một loại
quan hệ xã hội đặc biệt khác – đó là quan hệ pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp.

Trong các từ điển tiếng Việt hiện nay, các nhà từ điển học chưa đưa ra bất kỳ

18


một sự giải nghĩa chính thức nào về thuật ngữ “giải quyết tranh chấp”. Tuy nhiên, về
lý thuyết có thể dễ dàng hình dung rằng việc giải quyết tranh chấp nói chung và tranh
chấp hợp đồng nói riêng (trong đó có hợp đồng tín dụng) là một dạng hoạt động đặc
thù liên quan đến chính các bên tranh chấp, theo đó các bên tự mình hoặc thông qua
bên thứ ba(chủ thể hòa giải, trọng tài hoặc tòa án) đề xuất những phương án cụ thể
nhằm xóa bỏ sự mâu thuẫn, xung đột, bất đồng giữa họ với nhau trên tinh thần đảm
bảo tốt nhất, hài hòa nhất các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tất cả các bên.
Từ kết quả phân tích trên đây, tác giả luận văn cho rằng có thể đưa ra một khái
niệm về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại và khách
hàng doanh nghiệp như sau:
Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách
hàng doanh nghiệp là hoạt động tố tụng hoặc phi tụng, theo đó tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại và doanh nghiệp được giải quyết
bằng phương thức thương lượng trực tiếp giữa các bên hoặc bằng phương thức giải
quyết thông qua bên thứ ba(trung gian hòa giải hoặc tòa án và trọng tài) nhằm khắc
phục các mâu thuẫn, xung đột và bất đồng về quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh
trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Định nghĩa trên đây cho thấy việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp thể hiện những đặc trưng cơ bản
sau đây:
Thứ nhất,về phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp: do tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
luôn có bản chất là tranh chấp kinh doanh thương mại nên việc giải quyết tranh chấp
này bằng con đường tố tụng sẽ do tòa án (cụ thể là tòa chuyên trách về giải quyết các
tranh chấp kinh tế) hoặc trọng tài giải, trừ trường hợp các bên thỏa thuận việc giải

quyết tranh chấp bằng phương thức thương lượng hoặc hòa giải (ngoài tố tụng).
Thứ hai,về luật áp dụng để giải quyết tranh chấp: do tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp luôn có bản
chất là tranh chấp kinh doanh thương mại nên việc giải quyết tranh chấp này sẽ dựa
trên việc áp dụng luật nội dung là luật chuyên ngành (Luật các tổ chức tín dụng và các

19


văn bản hướng dẫn thi hành), trong trường hợp luật chuyên ngành không quy định thì
áp dụng các quy định của luật chung (Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn đạo
luật này). Còn luật hình thức sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp là các quy định
về thủ tục thương lượng, thủ tục hòa giải tranh chấp thương mại (nếu tranh chấp được
giải quyết bằng con đường thương lượng hoặc hòa giải ngoài tố tụng), hoặc Bộ luật tố
tụng dân sự (nếu tranh chấp được giải quyết bằng con đường tòa án) và Luật trọng tài
thương mại (nếu tranh chấp được giải quyết bằng con đường trọng tài thương mại).
Thứ ba,về yêu cầu đối với việc giải quyết tranh chấp: do tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp luôn có
bản chất là tranh chấp kinh doanh thương mại nên việc giải quyết tranh chấp này phải
đáp ứng các yêu cầu cụ thể như:
(i) Tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại với khách hàng
doanh nghiệp phải được giải quyết một cách kịp thời, nhanh chóng, không làm hạn
chế, cản trở hoạt động kinh doanh, có thể tận dụng được những cơ hội kinh doanh, loại
trừ những rủi ro từ tác động của thị trường.
(ii) Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại với
khách hàng doanh nghiệp phải bảo đảm giữ được bí mật của hoạt động kinh doanh cũng
như uy tín, thương hiệu của các bên tham gia quan hệ kinh doanh đang có tranh chấp.
(iii) Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp phải có tác dụng khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác,
tín nhiệm giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng, không làm ảnh hưởng xấu

đến mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên trong quá trình kinh doanh của mỗi bên.
(iv) Việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng giảm chi phí về thời gian, chi phí
cơ hội và ít tốn kém về tiền bạc cho tất cả các bên có liên quan đến tranh chấp. Mỗi
bên đều phải cân nhắcnhững chi phí phải bỏ ra khi giải quyết tranh chấp, lợi ích kinh
tế và sự ổn định quan hệ kinh doanh để từ đó lựa chọn phương thức và đưa ra yêu cầu
giải quyết tranh chấp. Tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại với
khách hàng doanh nghiệpchỉ được giải quyết thỏa đáng khi các bên đã tìm ra phương
án dung hòa được quyền lợi và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhau.

20


Về phương diện lý thuyết, có thể nhận thấy rằng việc giải quyết thỏa đáng các
tranh chấp phát sinh từ HĐTD giữa ngân hàng thương mại và khách hàng doanh
nghiệp sẽ có ý nghĩa, tác dụng sau đây:
Một là,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, duy trì và củng cố mối
quan hệ, duy trì uy tín và thương hiệu của các bên.
Hai là, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ tranh chấp phát
sinh từ HĐTD ngân hàng trước pháp luật.
Ba là, tạo dựng môi trường kinh doanh tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính
tiền tệ nói chung lành mạnh và đảm bảo quyền tự do kinh doanh.
Bốn là,đánh giá được việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, nhận định và đánh
giá những bất cấp của pháp luật và áp dụng pháp luật để định hướng hoàn thiện hơn
nữa các chính sách pháp luật hiện hành.
1.1.5. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Về lý thuyết, để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và đúng pháp luật, cần xác
định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó như thế nào, đặc biệt là đối với trường

hợp tranh chấp được các bên lựa chọn giải quyết bằng con đường tòa án.
Trên nguyên tắc chung, thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp luôn được xác định theo
phương thức giải quyết tranh chấp. Nói cách khác, mỗi phương thức giải quyết tranh
chấp khác nhau thì việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ khác nhau.
Chẳng hạn:
Đối với trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp được giải quyết bằng con đường thương lượng thì thẩm
quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc về các bên tranh chấp.
Đối với trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp được giải quyết bằng con đường hòa giải thì thẩm quyền

21


giải quyết tranh chấp sẽ là các bên tranh chấp dựa trên sự hỗ trợ, hướng dẫn từ bên thứ
ba là trung gian hòa giải.
Đối với trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp được các bên lựa chọn giải quyết bằng con đường trọng
tài thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc về Trọng tài thương mại, theo các
quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
Riêng đối với trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương
mại với khách hàng doanh nghiệp được giải quyết bằng con đường tòa án thì thẩm
quyền giải quyết tranh chấp này sẽ được xác định theo Bộ luật tố tụng dân sự.Trong
mục này, tác giả luận văn chủ trương phân tích, luận giải sâu hơn về thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại
với khách hàng doanh nghiệp.
Thật vậy, mặc dù pháp luật tố tụng của mỗi nước có những quy định đặc thù
riêng nhưng về lý thuyết thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp ở hầu hết các nước trên thế giới

đều được xác định bao gồm hai loại sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền của tòa án theo tính chất vụ việc.
Nói đến thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án tức là nói đến những vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Cụ thể hơn, thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án
còn được hiểu bao gồm những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của loại
Tòa chuyên trách nào (ví dụ: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa lao động, Tòa kinh tế, Tòa
hôn nhân gia đình và vị thành niên…).
Chẳng hạn, theo Bộ luật tố tụng dân sự cộng hòa Pháp, các vụ tranh chấp về
kinh doanh thương mại (trong đó có tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại với khách hàng doanh nghiệp) sẽ do Tòa án thương mại giải quyết4. Còn
theo pháp luật Việt Nam, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng những tranh

4

Xem thêm: Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.

22


chấp sau đây sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án5:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia,

tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung
và tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh
nghiệp nói riêng sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, mà cụ thể hơn là thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế hoặc Tòa thương mại (tùy theo quy định về tên
gọi của từng nước).
Thứ hai, thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ.
Nói đến thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là nói đến thẩm quyền xét xử của
Tòa án nơi cư trú của bị đơn hoặc nguyên đơn, hoặc tòa án nơi tọa lạc bất động sản
(nếu đối tượng tranh chấp là bất động sản). Thực tế cho thấy pháp luật tố tụng của các
nước quy định tương đối khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn, theo Bộ luật tố tụng Cộng hòa Pháp, Tòa án có thẩm quyền theo

5

Xem thêm: Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2015.

23


lãnh thổ là Tòa án nơi bị đơn cư trú, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu
có nhiều bị đơn, nguyên đơn có thể lựa chọn Tòa án nơi cư trú của một trong số các bị
đơn6.Cũng theo Bộ luật này, nơi ở của bị đơn được xác định như sau: Nếu là thể nhân,
là nơi cư trú của họ, nếu họ không có nơi cư trú, thì là nơi ở của họ; nếu là pháp nhân,
là nơi pháp nhân đặt trụ sở7.
Ngoài ra, về thẩm quyền theo lãnh thổ, Bộ luật tố tụng dân sự Pháp còn quy
định rằng, ngoài Tòa án nơi bị đơn cư trú, nguyên đơn có thể khởi kiện trước Tòa án
nơi giao hàng hoặc nơi thực hiện dịch vụ, trong trường hợp kiện tụng về hợp đồng,

trong đó đương nhiên được hiểu bao gồm cả hợp đồng tín dụng8.
Còn theo pháp luật Việt Nam, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự (trong đó có tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân
hàng với doanh nghiệp) của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo nguyên tắc9:a)
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu
bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật tố tụng dân sự năm năm 2015;b) Các đương sự
có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa
án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.
Tóm lại, có thể hiểu rằng thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
bao gồm thẩm quyền theo vụ việc và thẩm quyền theo lãnh thổ. Ngoài ra, một số quốc
gia còn quy định thẩm quyền của tòa án theo cấp tòa án (cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm)
6

Xem thêm: Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
Xem thêm: Điều 43 Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
8
Xem thêm: Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
9
Xem thêm: Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2015.
7

24



hoặc thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn10.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấphợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp
Trên nguyên tắc, pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp luôn được coi là một bộ phận cấu
thành của pháp luật quốc gia nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp nói riêng.
Vì thế, trên phương diện lý thuyết có thể đưa ra khái niệm pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh
nghiệp như sau:
Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương
mại với khách hàng doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh quan hệ tranh chấp (phát sinh giữa tổ
chức tín dụng với khách hàng vay vốn là doanh nghiệp và quan hệ giải quyết tranh
chấp (phát sinh giữa chủ thể giải quyết tranh chấp với các bên có tranh chấp).
Định nghĩa trên đây cho thấy pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp có những đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất, nguồn pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng thương mại với khách hàng doanh nghiệp bao gồm chủ yếu là
các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Ngoài ra, một loại nguồn khác
là các tập quán, thông lệ quốc tế về giao dịch tín dụng ngân hàng và các án lệ có liên
quan trực tiếp đến tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp
được tòa án viện dẫn khi xét xử các vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng thương mại với khách hàng là doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Thứ hai, cấu trúc về hình thức củapháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
10


Xem thêm: Điều 35, 36, 37, 38 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2015.

25


×