Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật về hành nghề luật sư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM

PHÙNG VĂN HÀ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam” được thực
hiện từ tháng 06/2016 đến tháng 10/2016. Luận văn sử dụng những thông tin
từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin này đã được chỉ rõ nguồn gốc, có
một số thông tin thu thập từ thực tế ở địa phương, một số số liệu đã được
phân tích, tổng hợp và xử lý với mục đích nghiên cứu khoa học trong phạm vi
đề tài luận văn.
Tôi xin cam đoan:
1. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực
và có nguồn trích dẫn rõ ràng, đảm bảo.
2. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này hoàn toàn vì mục tiêu
khoa học, cống hiến, không có mục đích vụ lợi hoặc làm sai lệch thông tin ảnh
hưởng đến đường lối chính trị của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
3. Cam kết đã nghiêm túc nghiên cứu, minh bạch trong sử dụng thông


tin, không làm ảnh hưởng đến uy tín của bất cứ nhà nghiên cứu nào có liên
quan đến đề tài của luận văn.
HỌC VIÊN CAO HỌC

Phùng Văn Hà


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hành nghề
luật sư ở Việt Nam”, em xin cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy
cô giáo và cán bộ quản lý - Viện Đại học Mở Hà Nội, các cán bộ, công chức
đồng nghiệp Sở Tư pháp tỉnh Sơn La, bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện
thuận lợi, cung cấp tài liệu và giúp đỡ em trong quá trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Bùi Ngọc Cường đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, cung cấp những thông tin và kiến thức
quý báu trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu bằng tất
cả sự nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu của
thầy, cô và các đồng nghiệp để hoàn thiện hơn nữa luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Stt

Viết tắt

Cụm từ


1.

DVPL

Dịch vụ pháp lý

2.

ĐLS

Đoàn luật sư

3.

HNLS

Hành nghề luật sư

4.

LĐLS

Liên đoàn luật sư

5.

THTT

Tiến hành tố tụng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ..................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 3
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài ............................................................... 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu ................................................................. 4
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 5
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HNLS................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư ............................................................... 6
1.1.1. Khái niệm nghề luật sư .................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của nghề luật sư ............................................................................. 9
1.1.3. Vai trò của nghề nghiệp luật sư trong đời sống xã hội .................................. 13
1.2. Khái niệm pháp luật về HNLS ........................................................................ 15
1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về HNLS ................................................... 15
1.2.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật của hoạt động HNLS ............................. 17
1.3. Những vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật về nghề luật sư............................ 19
1.3.1. Những vấn đề pháp lý chung........................................................................ 20
1.3.2. Những vấn đề pháp lý cụ thể........................................................................ 21
1.4. Lịch sử phát triển nghề luật sư tại Việt Nam và quá trình hoàn thiện pháp luật
về nghề luật sư....................................................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 38
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HNLS Ở VIỆT NAM ............... 39
2.1. Nội dung của pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay ................. 39
2.1.1. Những quy định liên quan đến luật sư .......................................................... 39
2.1.2. Những quy định liên quan đến hoạt động HNLS .......................................... 44
2.1.3. Quy định về thù lao, chi phí, tiền lương theo hợp đồng lao động.................. 46



2.1.4. Những quy định về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư........................ 48
2.1.5. Những quy định liên quan đến hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam .................................................................. 52
2.1.6. Những quy định về quản lý hành nghề luật sư............................................. 53
2.1.7. Những quy định về đến xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp ....................... 55
2.1.8. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư ........................................... 59
2.1.9. Các quy định của pháp luật Việt Nam về chấm dứt HNLS ........................... 61
2.2. Đánh giá thực trạng về pháp luật HNLS và thực hiện pháp luật về hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay .................................................................................. 63
2.2.1. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của luật sư............................................ 63
2.2.2. Đánh giá chung về ưu điểm, khuyết điểm về thực hiện pháp luật về luật sư ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................. 79
2.2.3. Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật về hành nghề luật sư ................... 87
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 91
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM ........................................................... 93
3.1. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về HNLS ......................................... 93
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư HNLS. ........................................... 93
3.2.2. Tạo ra môi trường pháp lý rộng rãi cho hoạt động luật sư phát triển. ........... 93
3.3.3. Pháp luật về luật sư cần thiết kế mô hình quản lý luật sư, hoạt động nghề
nghiệp luật sư phù hợp. ......................................................................................... 93
3.3.4. Dần rút ngắn khoảng cách tiến tới xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách về nhu cầu
thụ hưởng DVPL giữa các vùng, miền, địa phương trong cả nước. ........................ 94
3.3.5. Pháp luật về luật sư cần tạo ra cơ chế đối ngoại độc lập, ............................. 94
3.3.6. Tổ chức triển khai có hiệu quả các văn bản pháp luật hiện hành về luật sư... 94
3.2. Kiến nghị một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh pháp
luật về HNLS của nước ta trong thời gian tới......................................................... 94
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về HNLS ......................................... 94



3.2.2. Tiếp tục hướng dẫn thi hành Luật Luật sư và các quy định có liên quan của
BLTTHS, Bộ luật tố tụng dân sự..,. ....................................................................... 97
3.2.3. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các văn bản pháp luật hiện hành về luật sư và
HNLS .................................................................................................................... 97
3.2.4. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và HNLS.......... 98
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự vận động, phát triển của xã hội văn minh, tiến bộ đang ngày càng khẳng
định và đề cao vao trò, vị trí của nghề luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý, đảm bảo
công bằng xã hội ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Có thể nói, đây là thời điểm mà xã hội Việt Nam đã dần nhìn nhận sát gần
hơn đối với vai trò của nghề luật sư theo đúng chỗ đứng mà nghề này xứng đáng có
được. Người dân ngày càng tìm đến luật sư như một nhu cầu thiết thân, số lượng
luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngày một phát triển, nền tư pháp nước nhà đã tạo
điều kiện nhiều hơn để luật sư thể hiện tầm quan trọng của mình.
Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng
về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp và hội nhập quốc tế là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta. Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện hoạt động
và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khoá X về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, đồng thời để thực hiện Chỉ thị số 33CT/TW ngày 30/03/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động luật sư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1072/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” với
những chủ trương, chính sách lớn, các giải pháp cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm
định hướng và hỗ trợ cho việc phát triển nghề luật sư ở Việt Nam giai đoạn 2011
đến 2020, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp theo.
Cùng với đó là quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về nghề luật sư nhằm
thể chế chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước làm hành lang pháp lý phát
1


triển đội ngũ luật sư, nghề luật sư ở Việt Nam phục vụ tốt hơn yêu cầu của công
cuộc cải cách tư pháp, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong đó nhiệm vụ trọng tâm và trước mắt là
sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết theo hướng nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật sư; tăng cường tính chuyên nghiệp
trong hoạt động hành nghề của luật sư và các tổ chức HNLS; tăng cường vai trò đào
tạo, bồi dưỡng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tăng cường vai trò tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư trong công tác quản lý luật sư và
HNLS, đảm bảo tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư. Tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về tổ
chức, hoạt động và HNLS theo hướng tiếp thu, học hỏi có chọn lọc để phát triển
phù hợp với các điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày
càng cao của xã hội, để nghề luật sư ở Việt Nam phát triển ngang tầm với nghề luật
sư trên thế giới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về nghề luật sư trở nên đặc biệt
quan trọng, cấp thiết và thực tế là không hề dễ dàng.
Xuất phát từ ý nghĩa, yêu cầu và tầm quan trọng đó đối với xã hội, tôi chọn
đề tài “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn

của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội và sự phát triển khá nhanh của
nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn đề này. Có thể
kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
2.1. Luận án Tiến sĩ “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt
nam hiện nay” của Luật sư Phan Trung Hoài.
2.2. Đề tài “Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư” do Luật sư Phan
Trung Hoài - ĐLS Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện.
2.3. Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
tổ chức luật sư và HNLS trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Chủ nhiệm đề tài:
Nguyễn Văn Thảo - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
2.4. Đề tài “Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính hiện
nay”, Chủ nhiệm đề tài: Thạc sỹ Nguyễn Sỹ Giao - Viện Khoa học thanh tra.

2


2.5. Chuyên đề “Pháp luật về luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước ngoài
tại Việt Nam - thực trạng và kiến nghị” do Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy
ban thường vụ Quốc hội thực hiện.
2.6. Đề tài khoa học cấp cơ sở “Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế
quốc tế” do Học viện Tư pháp tiến hành.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các báo và tạp chí, như:
- Bài viết “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hành chính” - Luật sư
Nguyễn Thành Vĩnh.
- Bài viết “Chiến lược phát triển nghề luật sư còn thiếu sót” của luật sư
Ngô Ngọc Trai.
- Bài viết “Xóa bỏ rào cản với nghề Luật sư” của Vạn Bảo.
- Bài viết “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” của Luật sư Phan Trung Hoài.

Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa một
khía cạnh về HNLS ở Việt Nam. Chưa có đề tài nào khái quát chung được vấn đề
“Pháp luật về HNLS ở Việt Nam”.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm rõ được các quy chế về nghề luật sư
và HNLS, hệ thống được các quy định pháp luật về HNLS ở Việt Nam, chỉ ra
những điểm bất cập đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần phải hoàn thành các
mục tiêu cụ thể sau:
3.2.1. Khái quát một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về luật sư và HNLS.
3.2.2. Nắm bắt được thực trạng pháp luật về vấn đề này.
3.2.3. Thông qua thực tiễn áp dụng để thấy được những bất cập của pháp luật.
3.2.4. Đề ra hướng hoàn thiện pháp luật.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
4.1. Tính mới của đề tài
Vấn đề HNLS đang nhận được rất sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân
trong xã hội với khá nhiều đề tài khoa học và các bài viết về vấn đề này. Tuy nhiên

3


các công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến một lĩnh vực, một khía cạnh của vấn đề
HNLS. Chưa có một công trình nào khái quát được vấn đề pháp lý của các lĩnh vực,
các khía cạnh nêu trên. Đề tài “Pháp luật về HNLS ở Việt Nam” nghiên cứu một
cách toàn diện, có tính hệ thống về luật sư và HNLS, các quy định pháp luật liên
quan đến mọi khía cạnh của HNLS ở Việt Nam. Đề tài có tính mới, và tính khái
quát cao hơn các đề tài đã được thực hiện.
4.2. Những đóng góp của đề tài

Đề tài giúp người nghiên cứu và những người đọc có được sự hiểu biết bao
quát về HNLS ở Việt Nam cùng với những quy định của pháp luật về vấn đề này.
Bên cạnh đó, đề tài còn mang đến cái nhìn thực tế trong thực trạng HNLS ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Từ kết quả nghiên cứu vận
dụng đưa ra kiến nghị xây dựng pháp luật nhằm điều chỉnh một cách toàn diện
những quan hệ của nghề luật sư hướng tới phục vụ tốt nhu cầu trợ giúp pháp lý của
các cá nhân, tổ chức trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về HNLS đang tồn tại một số khái niệm chưa
được làm rõ hoàn toàn như: Khái niệm HNLS, khái niệm cung cấp DVPL. Vì vậy
khái niệm HNLS theo pháp luật Việt Nam hiện nay thường được bao trùm trong
khái niệm cung cấp DVPL. Trên cơ sở phân biệt các khái niệm đã nêu và cố gắng
làm rõ khái niệm về cung cấp DVPL, Luận văn tập trung giải quyết vấn đề pháp lý
của giao dịch cung cấp DVPL. Đây là hoạt động thương mại của tổ chức HNLS,
thuộc phạm vi nghiên cứu trong mã nghành luật kinh tế. Việc Luận văn đôi chỗ đề
cập đến vấn đề quy chế hành nghề, quy tắc nghề nghiệp chỉ với mục đích đơn thuần
là làm rõ thêm thực trạng về pháp luật luật sư ở Việt Nam.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Những vấn đề lý luận về HNLS;
Thực trạng pháp luật về HNLS ở Việt Nam; Định hướng và các giải pháp hoàn
thiện pháp luật HNLS ở Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn
được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.

4


Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: Phương pháp phân tích
quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thống kê,
tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa

các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương
pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương
pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện
hành về HNLS, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập. Khi phân tích vụ việc, luận
văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng
hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả
nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng
lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn
chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước
ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật
hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý luận của pháp luật về HNLS.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về HNLS ở Việt Nam. Chương 3: Định hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về HNLS ở Việt Nam.

5


Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HNLS
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm nghề luật sư
Sơ lược về sự hình thành và phát triển của nghề luật trên thế giới và ở Việt
Nam có thể thấy nghề luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội từ rất sớm, bắt đầu
hình thành từ thời Hi Lạp cổ đại (khoảng 3500 - 3000 năm TCN) và bắt đầu phát
triển vào thời Trung đại (khoảng từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 15 sau CN). Ở thời
Hy Lạp cổ đại, nghề luật sư chỉ mới được manh nha hình thành, các bị cáo phải tự

bào chữa cho mình dựa trên gợi ý từ bàn diễn văn của người biện sư nào đó (biện sư
là người được coi như làm công việc viết hộ văn bản cho người khác). Tại Roma,
dù đã có nhiều người chuyên viết bài bào chữa nổi tiếng như Tillius Ciceron (-106
trc JC - 46 sau JC, ông có thể được coi như ông tổ của nghề luật sư).
Thời kỳ Trung đại là thời kỳ đặt nền móng cho nghề luật sư. Duới triều đại
của Hoàng đế Justin đề nhất, các nguyên tắc của một ĐLS được hình thành. Việc
soạn thảo và hoàn thiện những bộ quy tắc đạo đức trải dài hàng thế kỷ và thường
được viết bởi các luật sư gạo cội của Đoàn. Thời kỳ này, muốn HNLS, cá nhân
người đó phải có trình độ hiểu biết nhất định và phải được Nhà nước công nhận. Từ
đó mới hình thành nên thuật ngữ “luật sư”, theo tiếng pháp gọi là “Maitre” và tạm
dịch là “bậc thầy”, đồng thời cũng hình thành nên các chế độ về thù lao. Sau đó, qua
quá trình hoạt động có sự phân loại theo các đặc thù: luật sư tư vấn, luật sư tranh
tụng, luật sư tập sự.
Thời kỳ Phục Hưng cho tới thế kỷ thứ 18, những nguyên tắc nghề luật sư cơ
bản vẫn được duy trì và phát triển. Các tổ chức luật sư tác khỏi các tổ chức thẩm
phán, đồng thời các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được luật hóa thông qua các sắc
lệnh. Các luật sư bắt đầu tham gia vào việc soạn thảo các bộ luật và các quy tắc ứng
xử khác nhau. Tuy nhiên, giai đoạn này, trong lĩnh vực hình sự, bị cáo vẫn phải tự
bào chữa và họ thường xuyên bị đánh đập, tra tấn. Vai trò của luật sư chưa được coi
trọng, hạn chế ở mức tư vấn ban đầu.

6


Cho đến khi bắt đầu cuộc cách mạng tại Pháp năm 1789, việc tra tấn tội
phạm bị cấm ở Pháp và tính độc lập của luật sư dần được khẳng định. Luật sư được
hưởng quyền miễn trừ khi tham gia bào chữa. Và từ năm 1851, luật sư phải bào
chữa miễn phí cho các đối tượng khó khăn. Thời kỳ Đệ tam Cộng hòa (1870 - 1940)
là thời kỳ phát triển rực rỡ của giới luật sư Pháp. Trong số 23 Tổng thống thời kỳ
này thì có 11 người là luật sư [21].

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm luật sư và HNLS:
Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh
định nghĩa, luật sư là “người có chức trách dùng pháp luật bào chữa cho bị can
trước Tòa án) [29, tr970]. Theo cách hiểu dân gian, Luật được hiểu là luật pháp,
“sư” nghĩa là “thầy”, luật sư được hiểu là người thầy về luật pháp. Ở cả hai cách
hiểu này, mới đề cập đến một khía cạnh cụ thể luật sư trong hoạt động bào chữa tại
Tòa án hay trình độ của người luật sư mà chưa giải thích được toàn diện về nghề
luật sư.
Một quan điểm khác cho rằng “luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh
vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của mỗi quốc
gia” [21]. Ở khái niệm này, việc chỉ ra rằng luật sư là người hành nghề liên quan
đến lĩnh vực pháp luật nói chung đã đồng hóa nghề luật sư với những người làm
pháp luật khác như thẩm phán, kiểm sát viên (ở Việt Nam), công tố viên (ở Mỹ), ủy
viên công tố (ở Cộng hòa Czech)…
Tại Điều 2 Luật Luật sư 2006 định nghĩa về Luật sư như sau: “Luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện
DVPL theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách
hàng).” [51]. Ở khái niệm này, có đề cập tới công việc cụ thể của luật sư đó là
“DVPL”, vậy DVPL là gì? Theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO
(viết tắt là GATS) liệt kê các loại DVPL, trong khuôn khổ này, các loại DVPL được
đề cập đến đều mang tính thương mại. Theo WTO, DVPL là một phân ngành của
Dịch vụ kinh doanh. Tại Bảng phân loại các ngành dịch vụ này, dịch vụ pháp luật
được chia thành nhiều loại: Dịch vụ tư vấn và tranh tụng trong nhiều lĩnh vực pháp
luật; dịch vụ tư vấn và tranh tụng liên quan đến luật hình sự; dịch vụ tư vấn và tranh
tụng về các thủ tục tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác; dịch vụ tư

7


vấn và tranh tụng về các thủ tục theo quy định của luật thành văn tại các tổ chức

mang tính chất tòa án; dịch vụ cung cấp và chứng nhận hồ sơ pháp luật; dịch vụ
khác về thông tin pháp luật và tư vấn [40].
Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, “DVPL là loại hình dịch
vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật
được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu
được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong
xã hội” [29].
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn, “DVPL là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp
luật và dịch vụ đại diện pháp lý… những người đủ tiêu chuẩn để cung cấp DVPL
chỉ có thể là luật sư”. Theo đó, phạm vi DVPL được xác định gồm: Dịch vụ tư vấn
pháp luật; dịch vụ đại diện pháp lý (trong tố tụng tư pháp, trong thủ tục hành chính,
tố tụng trọng tài và đại diện theo ủy quyền về những vấn đề liên quan đến pháp luật;
các hoạt động DVPL khác như soạn thảo hợp đồng, các giấy tờ pháp lý… [35, tr46].
Theo TS. Nguyễn Văn Tuân thì “phạm vi DVPL bao gồm DVPL của luật sư
với bốn lĩnh vực hành nghề như pháp luật hiện hành quy định đó là: Tư vấn pháp
luật, tranh tụng, đại diện, DVPL khác và DVPL của tổ chức, đoàn thể xã hội với
hoạt động chủ yếu là tư vấn pháp luật theo Nghị định 65/NĐ-CP ngày 11/6/2003
của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật” [34, tr18].
Theo TS. Đặng Vũ Huân “DVPL là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và
dịch vụ đại diện pháp lý được định lập và thực hiện theo quy định của pháp luật của
nước nơi các dịch vụ đó được định lập và có thể được thực hiện trong các lĩnh vực
pháp luật nội dung và thủ tục tố tụng khác nhau của hệ thống pháp luật quốc gia”
[18, tr10].
Tác giả Nguyễn Như Chính có quan điểm rằng “dịch vụ thương mại pháp lý là
loại hình dịch vụ liên quan tới lĩnh vực pháp luật mà công việc của bên cung ứng dịch
vụ cho khách hàng để hưởng lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với các vấn đề pháp
luật, quyền và nghĩa vụ theo pháp luật mà bên sử dụng dịch vụ quan tâm’’ [27].
Có thể nhận thấy rằng, các quan điểm nêu trên đều tiếp cận DVPL dưới góc
độ thương mại. Theo đó các đặc điểm cơ bản của DVPL là một hoạt động thương
mại, có cung có cầu, chủ thể thực hiện DVPL phải đáp ứng được những điều kiện


8


theo quy định của pháp luật, đối tượng mà DVPL hướng đến là quy định của các
lĩnh vực pháp luật và quá trình thi hành pháp luật trong đời sống. Với quan niệm về
DVPL như vậy thì hiện nay, chủ thể cung cấp DVPL bao gồm cả tổ chức HNLS, tổ
chức công chứng, tổ chức thừa phát lại… Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác
giả chỉ nghiên cứu hoạt động cung cấp DVPL của nghề luật sư, các vấn đề phát sinh
và liên quan đến DVPL do nghề luật sư cung cấp.
Từ sự phân tích những quan điểm, khái niệm về luật sư và DVPL nêu trên,
trong phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả có thể đưa ra khái niệm về
nghề luật sư như sau: Nghề luật sư là hoạt động nghề nghiệp của luật sư và tổ chức
HNLS trong việc cung ứng DVPL cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng
DVPL với mục đích nhận thù lao.
Như vậy, tác giả loại trừ hoạt động của luật sư, tổ chức HNLS khi thực hiện
trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý với trách nhiệm
xã hội của luật sư, tổ chức HNLS và các hoạt động khác không nhằm cung cấp
DVPL để nhận thù lao.
1.1.2. Đặc điểm của nghề luật sư
Thứ nhất, hoạt động HNLS mang tính chất thương mại hành nghề chủ yếu
bằng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm chuyên môn chứ không phải là vốn vật
chất. Đây là hoạt động nghề nghiệp có sinh lợi nhuận. Đặc điểm này biểu hiện ở chỗ
nghề nghiệp mà luật sư hoạt động mang tính chất dịch vụ (DVPL) và là loại hình
dịch vụ có thù lao, theo đó người sử dụng DVPL phải trả cho người hoạt động nghề
luật sư một khoản thù lao theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Người
hoạt động nghề nghiệp sử dụng thù lao này như một nguồn thu nhập và phải nộp
thuế. Mặt khác, tổ chức HNLS cung cấp DVPL được tổ chức và hoạt động như loại
hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, ở hầu hết các nước trong đó có cả Việt Nam
đều ghi nhận mô hình hoạt động nghề nghiệp luật sư dưới dạng này trong Hiệp định

chung về thương mại, dịch vụ GATS của WTO, hiệp định thuơng mại Việt Mỹ hay
hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động nghề nghiệp này vẫn
được hưởng một cơ chế đặc thù riêng so với các loại hình dịch vụ thông thường do
đây là lọai hình kinh doanh dịch vụ về pháp luật (một trong những vấn đề cơ bản,
quan trọng của một quốc gia, là cầu nối giữa Nhà nước và người dân).

9


Thứ hai, hoạt động HNLS trên cơ sở quy định của pháp luật và quy tắc đạo
đức nghề nghiệp luật sư. Là loại hình kinh doanh các dịch vụ về pháp luật, tuy
nhiên, HNLS cũng phải tuân theo hành lang quy định của pháp luật. Luật sư được
cấp chứng chỉ hành nghề hay tổ chức HNLS đăng ký hoạt động phải đáp ứng điều
kiện, tiêu chuẩn được quy định trong các văn bản pháp luật, hoạt động HNLS trong
phạm vi pháp luật quy định, không được vi phạm những điều pháp luật cấm, đồng
thời hoạt động HNLS được quản lý bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Luật sư, tổ chức HNLS trong quá trình hành nghề phải ứng xử theo quy tắc đạo đức
nghề nghiệp trong các quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, tổ chức và xã hội. Đây
là các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật
sư, các quy tắc này do tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư đặt ra và được thực
hiện trước hết bởi sự tôn trọng của mỗi thành viên luật sư với nghề nghiệp của
mình. Đồng thời, các quy tắc ứng xử này có sức chi phối mạnh mẽ đến uy tín, danh
dự của luật sư. Việc tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư có tính chất quyết định đến chất lượng DVPL và luật sư cung
cấp cho khách hàng.
Thứ ba, hoạt động HNLS mang tính nhân văn sâu sắc.
Giống như các hoạt động nghề nghiệp khác, nghề luật sư hình thành, tồn tại
và phát triển trong lịch sử xã hội loài người để nhằm phục vụ con người. Sự hình
thành của nhà nước đặt ra yêu cầu quản lý xã hội và pháp luật được lựa chọn là
công cụ thực hiện nhiệm vụ quản lý đó. Các quan hệ phát sinh trong xã hội được

Nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật. Luật sư, với tư cách một nghề cung cấp DVPL
cho cá nhân, tổ chức sẽ phổ biến pháp luật, giải thích, trang bị cho khách hành của
mình tri thức pháp luật, củng cố ý thức chấp hành pháp luật cho khách hành của
mình. Đồng thời, với sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật, luật sư bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp của mình trong các quan hệ của đời sống xã hội khi phát sinh
tranh chấp hoặc phòng ngừa rủi ro về pháp lý khi tham gia các quan hệ đó. Các
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng ở đây chính là nhân quyền, các quyền của công
dân được pháp luật tôn trọng, thừa nhận và bảo đảm, là tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản… quyền của tổ chức được pháp luật quy định. Là một nghề
pháp luật trong hệ thống tư pháp, nghề luật sư giống như các nghề khác như: Tòa

10


án, kiểm sát, thi hành án… luật sư có chức năng và sứ mạng bảo vệ pháp luật, bảo
vệ pháp chế trong nhà nước pháp quyền đảm bảo cho pháp luật được thực thi một
cách nghiêm minh, công bằng với đầy đủ bản chất nhân văn của pháp luật. Luật sư,
khi tham gia tố tụng dù ở vai trò bào chữa hay bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
các đương sự thì đều góp phần phân tích, đánh giá các tình tiết vụ án, chứng cứ, các
yếu tố pháp lý khác nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan, từ đó giúp cho pháp luật
được áp dụng đúng đắn, xét xử đúng người, đúng tội. Người có quyền, lợi ích bị
xâm phạm thì được bồi thường xứng đáng, người vi phạm phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ và chấp hành các hình phạt mà pháp luật quy định. Như vậy, vai trò bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật trong quan hệ mà Nhà nước điều
chỉnh thông qua pháp luật và vai trò bảo về pháp luật, pháp chế trong nhà nước
pháp quyền là hai nhiệm vụ song hành có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Bởi vậy,
tính nhân văn của nghề nghiệp luật sư bất luận trong trường hợp nào cũng được coi
là đặc tính vốn có mang tính bản chất nghề nghiệp. Đối tượng của nghề nghiệp luật
sư, vì thế không đơn thuần mang tính dịch vụ mà trước hết chính là nhằm đáp ứng
nhu cầu chính đáng, sự bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cá nhân cần được sự trợ

giúp pháp lý.
Thứ tư, nghề nghiệp luật sư là nghề tự do và đề cao vai trò cá nhân. Đặc
điểm này thể hiện ở việc các luật sư có hoạt động hành nghề độc lập với nhau, luật
sư khi hành nghề trên cơ sở kiến thức, trình độ, năng lực, kinh nghiệm và kỹ năng
nghề nghiệp tự mình đưa ra quan điểm và sự trợ giúp của cá nhân mình với khách
hàng, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả trợ giúp ấy trước pháp luật và
trước khách hàng. Tùy theo nhu cầu của mình, khách hàng có thể mời một hay
nhiều hơn một luật sư cùng tham gia cung cấp DVPL cho mình, tuy nhiên các luật
sư này khi thực hiện DVPL đều phải chịu trách nhiệm cá nhân về dịch vụ mình đã
thực hiện hoặc nếu có sự thỏa thuận khác thì các luật sư cùng tham gia cung cấp
DVPL cùng liên đới chịu trách nhiệm về kết quả của dịch vụ, tuy nhiên, sự liên đới
này chỉ trong phạm vi những luật sư được mời tham gia và có sự thỏa thuận với
nhau. Hơn nữa, trong hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư không bắt buộc phụ
thuộc vào quan điểm, ý kiến của cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào. Trong một số
trườn hợp, luật sư có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia, người có thẩm quyền

11


… tuy nhiên luật sư không bắt buộc phải tuân theo mà hoàn toàn có thể đưa ra quan
điểm của riêng mình trên cơ sở phân tích, đánh giá, sự am hiểu pháp luật và kỹ năng
vận dụng pháp luật của mình để đạt được hiệu quả hành nghề cao nhất. Bên cạnh
đó, trong hoạt động nghề nghiệp luật sư uy tín nghề nghiệp của cá nhân luật sư đóng
vai trò quan trọng trong hiệu quả hành nghề của luật sư đó, tức là vai trò cá nhân
luôn luôn được xem trọng và đề cao.
Thứ năm, nghề nghiệp luật sư mang tính xã hội rộng rãi. Có thể nói trong bất
cứ mối quan hệ nào trong đời sống pháp luật để được điều chỉnh bằng pháp luật, vì
vậy, liên quan đến bất cứ lĩnh vực nào, quan hệ nào trong trường hợp nhất định đều
cần sử dụng DVPL của luật sư. Như vậy, đối tượng hướng đến của nghề luật sư bao
gồm hấu hết các đối tượng là cá nhân hay tổ chức bất cứ khi nào đều có thể gặp vấn

đề về pháp lý cần được hỗ trợ, bất cứ lĩnh vực nào, mối quan hệ nào cũng cần đến
DVPL của nghề luật sư, bên cạnh những quan hệ thông thường như: dân sự, hình
sự, thương mại, lao động, hành chính … thậm chí cả những quan hệ quốc tế giữa
các quốc gia cũng cần đến DVPL của luật sư. Lúc này, DVPL của luật sư không chỉ
bó hẹp trong phạm vi pháp luật của một quốc gia nữa mà là pháp luật nước ngoài
khi khách hàng có hoạt động đầu tư, giao dịch thương mại, vi phạm pháp luật nước
ngoài… và pháp luật quốc tế trong phạm vi các Điều ước quốc tế, công ước quốc tế,
Hiệp định… mà quốc gia mình hoặc quốc gia có yêu cầu DVPL của mình ký kết.
Thứ sáu, người HNLS đòi hỏi phải có tính chuyên nghiệp, có trình độ
chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội và kỹ năng hành nghề. Với
vai trò bảo về quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể pháp lý, nghề luật
sư yêu cầu người hành nghề phải đạt được trình độ chuyên môn về pháp lý sâu,
rộng, trình độ pháp lý của luật sư không dừng lại ở mức độ biết, hiểu quy định của
pháp luật mà đòi hỏi phải giải thích, phân tích, đánh giá được để vận dụng trong
thực tế cho từng sự kiện pháp lý cụ thể, đồng thời, luật sư còn đánh giá được mức
độ hợp lý, hợp pháp của quy định pháp luật đó. Các chủ thể pháp luật mà luật sư
bảo vệ có thể là bất cứ cá nhân, tổ chức nào thuộc các đối tượng khác nhau, sự kiện
pháp lý mà họ đang yêu cầu luật sư trợ giúp có thể thuộc bất cứ ngành, nghề, lĩnh
vực hay quan hệ xã hội nào, vì vậy bên cạnh kiến thức chuyên sâu về pháp luật, luật
sư cần phải có tích lũy hiểu biết về kiến thức xã hội để phục vụ cho hoạt động hành

12


nghề của mình. Trên thực tế cho thấy, kỹ năng hành nghề của luật sư là yếu tố đặc
biệt quan trọng bên cạnh kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội để luật sư có thể đánh
giá, nhận định sự thật khách quan về sự kiện pháp lý của khách hàng mình để đưa ra
dịch vụ hiệu quả nhất cho khách hàng.
1.1.3. Vai trò của nghề nghiệp luật sư trong đời sống xã hội
Với hoạt động cung cấp DVPL, nghề nghiệp luật sư thể hiện vai trò quan

trọng trong đời sống xã hội. Trước hết, là loại hình nghề nghiệp dịch vụ, nghề
nghiệp luật sư cũng giống như các loại hình dịch vụ khác có vai trò thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, phục vụ nhu cầu của con người, giải quyết việc làm, đóng góp
cho ngân sách nhà nước… Tuy nhiên, với đặc thù nghề nghiệp, nghề luật sư còn
được ghi nhận với những vai trò sau:
Thứ nhất, trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước
Tòa.Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo và các đương sự tại tòa không phải mọi lúc, mọi nơi được tôn trọng.
Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm
linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển, ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề
luật sư ít phát triển, thâm chí không có nghề luật sư. Ngược lại, ở các nước dân chủ
và phát triển tiến bộ thì nghề luật sư lại giữ vai trò rất quan trọng để đảm bảo công
lý mọi người dân khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà pháp
luật chuyên nghiệp là luật sư. Theo người dân ở những đất nước này thì luật sư khi
tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá
nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng
xuất phát và tùy theo đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống
pháp luật của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật sư
nhưng đều có chung một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ
hữu hiệu góp phần bảo đảm công lý. Thông thường người dân bị hạn chế bởi trình
độ văn hóa, nhận thức, điều kiện sống, tập tục… đặc biệt là không được đào tạo bài
bản, chuyên nghiệp dẫn đến sự hiểu biết pháp luật cũng hạn chế, trong những sự
kiện pháp lý nhất định không tự bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

13


mình. Tổ chức HNLS được thành lập để giải quyết nhu cầu được hỗ trợ về mặt pháp
lý bằng những DVPL chuyên nghiệp, trình độ am hiểu pháp luật chuyên sâu.

Thứ hai, trong hoạt động tư vấn pháp luật. Luật sư trước hết là một chuyên
gia pháp luật, họ vận dụng pháp luật bằng tư duy pháp lý khoa học, trình độ hiểu
biết sâu sắc các quy định của pháp luật và bằng kỹ năng nghề nghiệp. Sự hội tụ của
các yếu tố đó khiến luật sư trở thành nhà cố vấn pháp luật tin tưởng cho các cá
nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội hay trong một sự kiện pháp lý cụ
thể. Hoạt động tư vấn pháp luật là hoạt động thường xuyên của luật sư, tùy từng sự
việc cụ thể, hoạt động tư vấn của luật sư có thể là đưa ra ý kiến pháp lý bằng miệng,
bằng văn bản, hướng dẫn khách hàng hiểu biết đầy đủ về quyền, lợi ích cũng như
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, từ đó có những ứng xử
phù hợp theo đúng pháp luật. Hoạt động tư vấn của luật sư cũng có thể là hoạt động
soạn thảo các hợp đồng, di chúc, đơn hay các văn bản khác có liên quan đến pháp
luật phục vụ cho việc giải quyết sự kiến pháp lý của khách hàng.
Thông qua dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư trang bị cho các chủ thể quan
hệ pháp luật kiến thức pháp luật đầy đủ hơn, từ đó tăng cường ý thức tuân thủ pháp
luật, phòng ngừa các tranh chấp có thể phát sinh, ngăn chặn những hành vi vi phạm
pháp luật, giảm áp lực giải quyết cho các cơ quan quản lý nhà nước, tiết kiệm ngân
sách… và một vai trò quan trọng hơn đó là, hoạt động tư vấn pháp luật tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, minh bạch, ít rủi ro góp phần thu hút đầu tư cho các tổ
chức trong và ngoài nước thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là trong giai
đoạn nền kinh tế phẳng, các quốc gia có xu hướng hội nhậo quốc tế sâu, rộng thì
nhu cầu tư vấn pháp luật của nước sở tại là cấp thiết hơn bao giờ. Đây cũng là một
trong những DVPL quan trọng mà chỉ có các tổ chức HNLS mới đủ sức cung cấp
một cách chuyên nghiệp và đáp ứng đầy đủ niềm tin, sự mong đợi của khách hàng.
Ở khía cạnh quản lý nhà nước, hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư góp
phần tích cực trong việc đưa pháp luật vào trong đời sống xã hội một các toàn diện,
chính xác, bảo đảm được sự công bằng, dân chủ với đúng bản chất, ý nghĩa, vai trò
vốn có của pháp luật.
Thứ ba, hoạt động HNLS là nhân tố tích cực tham gia tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Có thể nói, bất cứ một quan


14


hệ pháp luật thuộc lĩnh vực nào, khi có sự kiện pháp lý xảy ra, luật sư tiếp nhận yêu
cầu của khách hàng và phải nghiên cứu, tìm tòi, phân tích kỹ lưỡng, đánh giá khách
quan cả về mặt khoa học pháp lý và hoàn cảnh thực tiễn. Luật sư, ngoài việc đánh
giá sự việc theo con mắt của người làm luật thì còn một góc nhìn khác đó là sự thật
khách quan mà ở đó, có thể luật pháp đã điều chỉnh đúng hoặc không đúng, đầy đủ
hoặc chưa đầy đủ và cũng có thể là chưa được điều chỉnh bởi pháp luật. Lúc này, ý
kiến của luật sư mang tính phản biện thiết thực tới các cơ quan quản lý nhà nước,
các nhà làm luật và đây chính là nguồn tài liệu thực tiễn vô cùng phong phú để giúp
các nhà làm luật ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn.
1.2. Khái niệm pháp luật về HNLS
1.2.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về HNLS
Cho đến nay, ít có quan điểm nào đưa ra xem xét pháp luật về HNLS dưới
dạng một định nghĩa hoàn chỉnh. Từ định nghĩa về nghề luật sư và những tính chất
đặc thù, trên cơ sở phân lý luận chung về pháp luật, Tiến sĩ Phan Trung Hoài đã đưa
ra Khái niệm pháp luật về luật sư như sau: “Pháp luật về luật sư là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt
động nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng, các cơ quan THTT và cơ quan có
thẩm quyền khác, về việc quản lý Nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội nghề
nghiệp luật sư do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thi hành” [41].
Ở đây, mặc dù có sự khác nhau về câu từ, chữ mà tác giả sử dụng, “pháp luật
về luật sư” và “pháp luật về HNLS”, tuy nhiên, xem xét tổng thể nội dung nghiên
cứu có thể thấy sự tương đồng . Khi nghiên cứu pháp luật về luật sư, trong luận án
của mình, tiến sĩ Phan Trung Hòai cũng xem xét tổng thể các quy định của pháp
luật về tổ chức, hoạt động của luật sư. Luật sư, đặt trong các mối quan hệ mà pháp
luật điều chỉnh gắn liền với hoạt động HNLS. Người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn
được làm luật sư theo quy định thì trong hoạt động hành nghề được điều chỉnh bởi
các quy định pháp luật về luật sư hay có thể gọi là pháp luật về HNLS.

Với khái niệm như nêu ở trên, Tiến sĩ Phan Trung Hoài đã liệt kê cụ thể các mối
quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động luật sư, lấy luật sư là trung tâm
trong các mối quan hệ với: Khách hàng, cơ quan THTT, cơ quan có thẩm quyền khác,
về quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.

15


Theo quan điểm của tác giả, giống như bất cứ loại hình nghề nghiệp nào, khi
pháp luật điều chỉnh thì trước hết cần xác định cho nó một vị trí pháp lý, tức là định
vị nó là cái gì? Nó có vai trò, chức năng như thế nào? Từ đó đặt ra hành lang pháp
lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh. Như vậy, như khái niệm mà Tiến sĩ Phan
Trung Hoài đưa ra, các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của
luật sư mà pháp luật cần điều chỉnh chỉ gói trong quan hệ giữa “luật sư với khách
hàng, với cơ quan THTT, và cơ quan có thẩm quyền khác, về việc quản lý Nhà nước
và sự tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư do Nhà nước đặt ra, thừa
nhận và bảo đảm thi hành”, sự liệt kê này chưa đầy đủ, bởi lẽ ngay bản thân “luật
sư”, “HNLS”, “tổ chức HNLS”… là những vấn đề rất cơ bản mà pháp luật phải
định vị để xác định các mối quan hệ xã hội phát sinh. Có nghĩa là, việc định vị “luật
sư”, các chủ thể của pháp luật về HNLS mới có vai trò quan trọng và trung tâm.
Hơn nữa, với những đặc điểm rất riêng của nghề luật sư, với vai trò và vị trí quan
trọng trong nền tư pháp cùng các chức danh tư pháp khác, việc điều chỉnh các điều
kiện, tiêu chuẩn để trở thành luật sư, để HNLS cũng như các quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của luật sư, phạm vi hoạt động, hình thức hành nghề …. cũng là những vấn
đề rất cần thiết.
Vì vậy, trên cơ sở quan điểm của Tiến sĩ Phan Trung Hoài về pháp luật về
Luật sư, đứng dưới góc nhìn kinh tế, tác giả đưa ra quan điểm của mình như sau:
“Pháp luật về HNLS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan
hệ phát sinh liên quan đến luật sư, tổ chức HNLS và hoạt động cung cấp dịch vụ
vụ pháp lý của luật sư, tổ chức HNLS do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm

thi hành” .
Nhiều nước trên thế giới có đạo luật riêng điều chỉnh về tổ chức và HNLS
với tên gọi gắn với thuật ngữ “luật sư” hoặc “HNLS”, ví dụ: Đạo luật về HNLS năm
1984 (được sửa đổi năm 2011) của Singapore; Đạo luật về luật sư (B.E 2528) năm
1995 của Thái Lan; Luật về luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
sửa đổi ngày 28/10/2007; Luật về HNLS số 205 năm 1949 của Nhật Bản, sửa đổi
ngày 24/6/201; Luật HNLS số 3594 năm 1982 của Hàn Quốc; Bộ luật về hành nghề
của ĐLS Vương quốc Anh và xứ Wales; Luật về cải cách HNLS năm 1991 của

16


Cộng hòa Pháp; Luật về hành nghề pháp lý số 109 năm 1987 của Bang New South
Wales của Australia sửa đổi ngày 19/8/2005 [41].
1.2.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật của hoạt động HNLS
Hoạt động HNLS trên thực tế phát sinh xung quanh nó rất nhiều quan hệ xã
hội, có những quan hệ chỉ phát sinh trong trong hoạt động luật nhưng lại diễn ra
thường xuyên mà bất cứ cá nhân luật sư nào, tổ chức luật sư nào hay đều nằm trong
trong mối quan hệ ấy, nói cách khác, đây là những quan hệ mang tính chất điển
hình, phổ biến trong nghề luật sư, để có một chuẩn mực xử sự chung cho các chủ
thể đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những
quan hệ phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp luật sư nhưng mang bản chất của
quan hệ pháp luật khác và đã được điều chỉnh bởi các các quy phạm pháp luật
chuyên ngành khác hoặc được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, quy pháp xã
hội khác thì không nhất thiết phải điều chỉnh trong quy định pháp luật luật sư. Có
nhiều cơ sở, tiêu chí để xác định những mối quan hệ phát sinh trong HNLS cần điều
chỉnh bởi pháp luật về nghề luật sư và những mối quan hệ không cần thiết phải điều
chỉnh bằng pháp luật, chúng ta có thể xác định trên các cơ sở cơ bản như sau:
Về cơ sở chính trị, từ phía nhà nước đặt ra những yêu cầu cần điều chỉnh hoạt
động HNLS trước hết là để thể hiện vai trò trò đại diện quản lý, duy trì một trật tự xã

hội của một quốc gia và thực hiện trách nhiệm bảo đảm các quyền tự do cơ bản của
công dân và con người, đặc biệt trong nhà nước pháp quyền, các giá trị công bằng và
dân chủ luôn được coi trọng và bảo đảm thi hành, khi các quyền con người và quyền
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp thì tất yếu đòi hỏi một hệ thống quy định
pháp luật dành cho nghề luật sư với vai trò là phương tiện để thực thi dân chủ và thực
hành công lý, bảo đảm công bằng và khuyến khích tôn trọng quyền của con người,
quyền của công dân trong vị trí là đối tượng quản lý của nhà nước.
Tiếp theo, sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động nghề nghiệp là
một sự bảo đảm của nhà nước cho sự phát triển ổn định, lâu dài với hoạt động nghề
nghiệp này phù hợp với định hướng của nhà nước và phù hợp với thể chế chính trị,
sao cho người HNLS, tổ chức HNLS được đảm bảo các giá trị thụ hưởng quyền lợi
vật chất, tinh thần, sự tôn vinh xứng đáng của xã hội nhằm tạo ra sự phát triển ổn
định phù hợp với mục tiêu, chức năng nghề nghiệp. Theo đó, các vấn đề cơ bản như

17


điều kiện, tiêu chuẩn để HNLS, phạm vi HNLS, quyền và nghĩa vụ của luật sư, các
hành vi bị cấm, các yêu cầu về chất lượng cung cấp DVPL và tuân thủ quy tắc ứng
xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư, các điều kiện đảm bảo cho luật sư hành nghề,
nội dung quản lý nhà nước về HNLS…. Sự điều chỉnh này nhằm xây dựng và phát
triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng. Có thể nói, ở đa số các quốc gia,
tiêu chuẩn để một người có thể hành nghề luật là rất cao. Để trở thành luật sư, người
đó phải trải qua đào tạo cử nhân chuyên ngành luật, đào tạo nghiệp vụ luật sư và
phải có quá trình tập sự HNLS. Quá trình này kéo dài liên tục ít nhất khoảng 8 năm,
sau 8 năm ấy, người tập sự HNLS phải trải qua kì kiểm tra ngặt nghèo về cả kiến
thức chuyên môn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, vựơt qua được kì kiểm tra này
mới đáp ứng được điều kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư và được phép HNLS.
Một nhu cầu nữa xuất phát từ phía nhà nước đó là tận dụng vai trò của nghề
luật sư trong việc đóng góp cho ngân sách (tiền thuế, phí, lệ phí, ủng hộ, tài trợ…)

và những giá trị xã hội mà nghề luật sư mang lại như: góp phần nâng cao nhận thức,
ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân; góp phần tạo ra môi trường đầu tư lành
mạnh, ít rủi do và đối với hoạt động tư pháp, nghề luật sư là nhân tố quan trọng góp
phần giảm oan sai, tiết kiệm kinh phí cho việc xét xử, bảo đảm sự công bằng, khách
quan trong việc thực hiện pháp luật.
Cơ sở kinh tế, dưới góc nhìn thương mại, nghề nghiệp luật sư cũng giống
như các loại hình nghề nghiệp khác cần được điều chỉnh bằng pháp luật trước hết để
bảo đảm một trật tự khi hành nghề, đảm bảo duy trì quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ
thế trong quan hệ ấy và đảm bảo cho việc quản lý nhà nước. Đặc biệt trong nền kinh
tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các chủ thể. Trong bất cứ hoạt động thương mại
nào thì hiệu suất và hiệu quả kinh tế của các chủ thể được đặt lên hàng đầu, nghề
luật sư cũng không nằm ngòai sự vận hành đó, tuy nhiên với đặc thù nghề nghiệp,
pháp luật cần đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và công bằng xã hội trong HNLS. Với
sự điều chỉnh của pháp luật, hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động nghề nghiệp
này sinh ra lợi ích vật chất và giá trị tinh thần xứng đáng và phù hợp với cơ chế vận
hành trong nền kinh tế thị trường bằng việc quy định cơ chế linh hoạt để luật sư
hưởng thù lao từ DVPL của mình trong từng vụ việc cụ thể. Thù lao này được ước
tính trên cơ sở giá trị đầu tư, giá trị công sức, thời gian, giá trị kiến thức của luật sư

18


×