Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CAO GIA DUY

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CAO GIA DUY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI – 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết luận, số liệu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực, đảm bảo độ
tin cậy và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Cao Gia Duy


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng biết ơn và cán ơn các thầy, cô giáo giảng viên khoa sau Đại
học - Trường Đại học Mở Hà Nội đã nhiệt tình giảng dậy và tạo mọi điều kiện thuận
lợi, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nguyên cứu viết đề tài luận văn
này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo và cán bộ Bảo hiểm xã hội Thành
phố Hà Nội, các nhà quản lý và các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin, số liệu cũng như kinh
nghiệm trong quá trình nguyên cứu luận văn này của bản thân tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn toàn thể học viên cùng lớp, người than trong gia
đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn
thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm,
người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn
thành luận văn Chuyên ngành Luật Kinh Tế với đề tài “ Pháp luật về quỹ bảo hiểm
xã hội từ thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hà Nội”.
Tuy đã cố giắng hết mình trong khi nguyên cứu và hoàn thành luận văn song
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý

kiến của hội đồng khoa học của trường, các thầy, các cô, của đồng nghiệp và bạn bè
và đặc biệt những ý kiến phản biện đối với luận văn để luận văn được hoàn thiện
hơn./.

Tác giả luận văn

Cao Gia Duy


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI ........ 5
1.1. Khái niệm về quỹ bảo hiểm xã hội .................................................................... 5
1.2. Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội.......................................................................... 7
1.3. Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội ......................................................................10
1.3.1. Đối với người lao động ....................................................................................... 10
1.3.2. Đối với người sử dụng lao động ......................................................................... 11
1.3.3. Đối với nhà nước và xã hội ................................................................................. 11
1.4. Nguyên tắc cơ bản của quỹ BHXH ..................................................................12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................16
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........17
2.1. Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội ....................................................17
2.1.1. Quy định của pháp luật về sự hình thành quỹ BHXH ....................................... 17
2.1.1.1. Quy định của pháp luật về sự hình thành quỹ BHXH bắt buộc ................ 17
2.1.1.2. Quy định của pháp luật về nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ................... 28
2.1.2. Quy định của pháp luật về chi trả của quỹ bảo hiểm xã hội ............................. 29
2.1.3. Quản lý quỹ BHXH ............................................................................................. 35
2.1.4. Xử lý vi phạm trong lĩnh vực quỹ BHXH ......................................................... 38
2.1.4.1. Các nhóm hành vi bị xử lý vi phạm trong lĩnh vực quỹ BHXH ............... 38

2.1.4.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm .................................................................. 41
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
tại thành phố Hà Nội........................................................................................42
2.2.1. Một số nét về tình hình lao động trên địa bàn thành phố Hà Nội
và Bảo hiểm thành phố Hà Nội ........................................................................ 42
2.2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn
Thành phố Hà Nội ............................................................................................. 46
2.2.2.1. Về thu quỹ BHXH .............................................................................. 46
2.2.2.2. Về chi quỹ BHXH .............................................................................. 49


2.2.2.3. Về quản lý quỹ BHXH ........................................................................ 51
2.2.2.4. Về công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm ....................................... 52
2.2.3.

Đánh giá chung về thực hiện pháp luật về quỹ BHXH bắt buộc
trên địa bàn thành phố Hà Nội ........................................................................ 53

2.2.3.1. Những kết quả đạt được .................................................................... 53
2.2.3.2. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân ............................................... 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................58
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ
BHXH Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI .....................................................59
3.1. Hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội...................................................59
3.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội
tại thành phố Hà Nội........................................................................................64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................70
KẾT LUẬN ...........................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Số người tham gia BHXH qua các năm ..................................................47
Bảng 2.2: Kết quả thu bảo hiểm xã hội qua các năm ...............................................48
Bảng 2.3: Tổng hợp số đối tượng hưởng các chế độ tại BHXH TP HN...................49
Bảng 2.4: Tổng hợp chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH ........................................50
Bảng 2.5: Tổng hợp số lượt người hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản,
dưỡng sức phục hồi sức khỏe .................................................................51
Bảng 2.6: Nợ BHXH, BHYT .................................................................................55


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

TP

Thành phố


NSNN

Ngân sách nhà nước

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

NLĐ

Người lao động

LĐTB&XH

Lao động thương binh và xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

HN

Hà Nội




Quyết định

DSPHSK

Dưỡng sức phục hồi sức khỏe

TW

Trung ương

ATM

Thẻ tín dụng


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn, là bộ phận
quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội, đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập.
Quỹ BHXH có nhiệm vụ đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho người lao động (NLĐ) khi họ rơi vào những hoàn cảnh rủi ro nhất định, đảm
bảo sự ổn định cho đời sống người lao động và thân nhân của họ.
Do vậy, quỹ BHXH là một bộ phận quan trọng của không chỉ quỹ bảo hiểm xã
hội mà còn của hệ thống BHXH. Để việc thu chi đủ kỳ, đúng số tới đối tượng thì
việc thực hiện quỹ BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất, khoa học theo
đúng quy định của pháp luật.
Chính vì vậy, pháp luật đã có những quy định về quỹ bảo hiểm xã hội nhằm
bảo toàn và phát triển quỹ cũng như chi trả quỹ đúng mục đích. Gần đây nhất ngày
28 tháng 4 năm 2016 Chính phủ đã ban hành nghị định số 30/2016/NĐ-CP quy định

chi tiết hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH, BHYT, BHTN nhằm tạo khung pháp lý cho
hoạt động của quỹ BHXH.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua việc thực hiện quỹ BHXH trên địa bàn
Thành phố Hà Nội còn bộc lộ những hạn chế như tăng trưởng nguồn thu thấp, tình
hình nợ động BHXH còn cao, nguy cơ bội chi quỹ bảo hiểm xã hội …. Những tồn
tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân từ phía các quy định
của pháp luật, từ sự vi phạm của người tham gia BHXH và xuất phát từ cả phía đơn
vị thực hiện BHXH , gây ra những ảnh hưởng tiêu cực về quyền lợi đối với NLĐ.
Để khắc phục những hạn chế, mở rộng và tăng trưởng nguồn thu BHXH, phát triển
bền vững quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội, rất cần có những giải pháp cụ
thể.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ thực tiễn

1


thực hiện tại thành phố Hà Nội” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề quỹ BHXH đã và đang được nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu về BHXH với những
cách tiếp cận khác nhau như:
- Báo cáo dánh giá và dự báo tài chính quỹ hưu trí của Tổ chức lao động quốc
tế ( ILO ).
- Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm
xã hội / Nguyễn Hữu Chí / Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
6/2006.
- Pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành
phố Hà Nội: luận văn thạc sĩ luật học/ Phạm Thành Công; TS. Nguyễn Hiền
Phương hướng dẫn. - Hà Nội, 2014.
- Khóa luận tốt nghiệp “Các quy định về quỹ BHXH theo pháp luật hiện hành”

Nguyễn Thị Ngọc Yến (2006).
- Bài viết “Đầu tư quỹ BHXH : Hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và an toàn
quỹ” của tác giả Lê Phan Nam.
- Những vấn đề cần quân tâm qua thanh tra quỹ bảo hiểm xã hội / Trần Xuân
Lâm / Thanh tra. Thanh tra Chính phủ, Số 12/2010.
Và nhiều công trình nghiên cứu khác của các tác giả. Các công trình đều đã đề
cập đến nhiều khía cạnh nhau của quỹ BHXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quỹ bảo hiểm
xã hội tại thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay, luận văn đề xuất phương
hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội.

2


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về quỹ bảo hiểm
xã hội.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật quỹ bảo hiểm
trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
- Phương hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội từ
thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức, hoạt động và cơ chế thu chi của quỹ dưới
góc độ khoa học pháp lý. Theo đó, tác giả đi sâu tiếp cận các vấn đề pháp lý gồm:
(i) Những vấn đề lý luận về quỹ BHXH
(ii) Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội
(iii) Thực tiễn thi hành quy định pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành
phố Hà Nội
(iiii) Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quỹ BHXH.
5. Phương pháp luận văn không nghiên cứu về quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, tác giả sử dụng các
phương pháp thống kê, phân tích, khái quát hóa và tổng hợp tài liệu, ý kiến các
chuyên gia trong lĩnh vực BHXH... Bên cạnh đó, tác giả cũng tiếp thu, kế thừa chọn
lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu liên quan. Từ đó làm cơ sở
cho các đề xuất, kiến nghị, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ BHXH

3


trên địa bàn Hà Nội.
6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quỹ
bảo hiểm xã hội.
- Phân tích quy định pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ
BHXH tại BHXH thành phố Hà Nội, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về quỹ bảo hiểm xã
hội và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ
BHXH tại BHXH thành phố Hà Nội, góp phần phát triển bền vững quỹ BHXH của
thành phố cũng như góp phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy phát triển

kinh tế, xã hội bền vững trên địa bàn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thực trạng quỹ BHXH hiện đang là vấn đề mang tính thời sự cao. Việc tìm
hiểu nghiên cứu về pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực
hiện trên địa bàn Hà Nội để hoàn thiện hơn quy định pháp luật, khắc phục những
hạn chế tồn tại và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội tại
thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quỹ bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội và thực tiễn thực hiện
tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái niệm về quỹ bảo hiểm xã hội
Con người để tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại nhằm thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu đó, con người phải lao động để sản xuất ra những sản
phẩm cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp
thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, lúc này
hoặc lúc khác, họ có thể gặp phải những khó khăn ngẫu nhiên phát sinh làm cho con
người bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác (bị bất ngờ ốm

đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả
năng tự phục vụ suy giảm ...). Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí
còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh khi ốm đau, tai
nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại
và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi
xin hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước, song đó là những cách làm thụ động và
không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu người sử dụng lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau
đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động có một số thu nhập nhất định
để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn... Trong
thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra
một đồng nào. Nhưng cũng có khi sảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều
khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Mâu thuẫn chủ - thợ có thể phát sinh, do

5


vậy Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này
một mặt làm tăng được vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ
phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ
sở xác suất rủi ro sảy ra đối với người lao động. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia ( gọi là quỹ BHXH).
Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời
sống cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi.
Như vậy, quỹ bảo hiểm xã hội ra đời là một quá trình hình thành lâu dài, là kết
quả của việc tổ chức một quỹ tiền tệ đảm bảo tài chính cho những trường hợp rủi ro
trên cơ sở tương trợ cộng đồng. Bên cạnh đó, sự hình thành quỹ bảo hiểm xã hội

cũng xuất phát từ như cầu thực tế của cả người lao động và người sử dụng lao động.
Đối với người lao động, họ luôn có ý thức được rằng những rủi ro luôn có thể xảy
ra đối với họ bất cư khi nào, cho nên có nhu cầu trích một phần trong số tiền lương
để tích góp sử dụng mỗi khi cần thiết. Còn đối với người chủ, việc chịu trách nhiệm
một phần trước những rủi ro của người lao động cũng được xem là nhu cầu thiết
yếu đảm bảo sự tin tưởng, yên tâm cho người lao động trong quá trình làm việc. Do
đó, nhu cầu thành lập một quỹ chung theo đó giới chủ và người lao động chỉ phải
trích ra một khoản tiền từ thu nhập hàng tháng trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối
với người lao động làm thuê đã hình thành. Mối quan hệ tương trợ sau này được sự
can thiệp của Nhà nước để giúp cho việc trợ cấp được thực hiện một cách thống
nhất, theo đó số tiền mà các bên đóng góp hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia. Qũy này được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước và thậm chí có thể
được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo khả năng chi trả của
quỹ cho người lao động khi gặp những biến cố bất lợi.
Có thể nói, sự ra đời của quỹ BHXH trên cơ sở sự đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động và có sự bảo trợ của nhà nước là phù hợp với nhu cầu
tự nhiên của toàn xã hội. Qũy bảo hiểm xã hội được hình thành trong quá trình tổ
chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung được tích lũy dần từ sự đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động, đồng thời có sự bảo trợ của nhà nước. Hiện nay

6


quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước để chi
trả cho người được hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi họ rơi vào những
hoàn cảnh rủi ro nhất định.
Về khái niệm, hiện nay chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể về quỹ bảo
hiểm xã hội. Tuy nhiên, quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay được hiểu theo nghĩa :
(i) Theo nghĩa rộng, quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những phương tiện nhằm
thỏa mãn những nhu cầu phát sinh về bảo hiểm xã hội trên cơ sở sự đóng góp của

những người tham gia bảo hiểm xã hội. Cụ thể là các khoản dự trữ về tài chính và
các phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho quỹ bảo hiểm xã hội.
(ii) Theo nghĩa hẹp, quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những đóng góp bằng tiền
của người tham gia bảo hiểm xã hội hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả
cho người được bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị
giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy
định của nhà nước về đóng góp, sử dụng và chi trả quỹ bảo hiểm xã hội cho người
lao động và trong một số trường hợp là thành viên của gia đình họ khi bị giảm hoặc
mất khả năng lao động.
Tùy theo hình thức (các loại hình BHXH) mà quỹ BHXH được chia thành các
loại quỹ khác nhau. Thông thường Quỹ BHXH gồm 2 loại: quỹ BHXH bắt buộc và
quỹ BHXH tự nguyện. Quỹ BHXH bắt buộc là quỹ bảo hiểm được tạo lập và chi trả
cho các chế độ BHXH bắt buộc (như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề
nghiệp, hưu trí và tử tuất). Còn quỹ BHXH tự nguyện là quỹ bảo hiểm được tạo lập
và chi trả cho các chế độ BHXH tự nguyện ( như hưu trí, tử tuất..)
1.2. Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội
Thứ nhất: sự an toàn về tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà
nước đảm bảo
BHXH nhằm mục đích bảo đảm thu nhập cho người lao động trong những

7


trường hợp giảm hoặc mất khả năng thu nhập gây ra bởi ốm đau, tai nạn lao
động…Vì vậy, qũy bảo hiểm xã hội ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích
đảm bảo ổn định cuộc sống, chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội cho người lao
động và gia đình họ. Do đó phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của
quỹ BHXH. Qũy BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài
chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải

bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là
được dùng để chi trả ngay mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi
tương đối dài (như đối với chế độ hưu trí) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian
ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra
yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn
về mặt giá trị.
Do tầm quan trọng của quỹ bảo hiểm xã hội, nên để đối phó với những rủi ro
mang tính ngẫu nhiên làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động thì
cần có một lượng tiền dự trữ đủ lớn được hình thành và sử dụng trong một thời gian
nhất định trên cơ sở tính toán những xác suất nảy sinh và mức độ nhu cầu bảo hiểm
xã hội trong phạm vi quỹ phục vụ. Do đó, quỹ bảo hiểm xã hội phải là quỹ an toàn
về tài chính , nghĩa là quỹ bảo hiểm xã hội phải được bảo toàn về giá trị và không
có rủi ro về tài chính. Nếu quỹ mất cân đối, mất khả năng chi trả thì mục đích đảm
bảo đời sống, san sẻ rủi ro xã hội của quỹ sẽ khó đạt được.
Chính vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo sự an toàn về tài chính
cho quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ hai: quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiêu dùng
Bản chất của BHXH là bảo hiểm thu nhập nên những nhu cầu bảo hiểm xã hội
sẽ chỉ được thỏa mãn thông qua tiêu dùng của cá nhân những người được bảo hiểm
xã hội. Bên cạnh tính chất tích lũy tập hợp những đóng góp bằng tiền của người
tham gia bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội còn mang đặc trưng là quỹ tiêu dùng
làm nhiệm vụ chi trả cho người được bảo hiểm xã hội khi gặp những rủi ro xã hội,

8


phân phối lại thu nhập cho người lao động. Do đó, quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tích
lũy đồng thời là quỹ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo quy luật công bằng, ở mức độ
nhất định theo nguyên tắc tương đương, đồng thời phải tham gia điều chỉnh cần
thiết giữa các nhu cầu và lợi ích1.

Thứ ba: quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn tài chính đóng
góp của người tham gia bảo hiểm xã hội và có sự bảo trợ của Nhà nước
BHXH vừa có bản chất xã hội và vừa có bản chất kinh tế, vì vậy nguồn tài
chính của quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của các chủ thể. Đó
là người lao động và người sử dụng lao động đồng thời có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Theo đó, những người tham gia bảo hiểm xã hội sẽ trích một phần thu nhập hàng
tháng để tạo lập và duy trì sự tồn tại của quỹ.
Nhà nước bảo trợ giúp cho việc trợ cấp được thực hiện một cách thống nhất,
theo đó số tiền mà các bên đóng góp hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm
vi quốc gia. Qũy được quản lý chặt chẽ bới nhà nước, có thể được hỗ trợ từ ngân
sách nhà nước khi cần thiết nhằm bảo đảm khả năng chi trả của quỹ cho người lao
động khi gặp những rủi ro, biến cố.
Thứ tư: quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính
không hoàn trả
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi
trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay
giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối
tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ
khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ
đóng góp và thời gian tham gia 2 mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng - có
hưởng, đóng ít - hưởng ít, đóng nhiều - hưởng nhiều nhưng không có nghĩa là
những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một khoản trợ
cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng
1

Giáo trình Luật an sinh xã hội – NXB Công an Nhân dân – Hà Nội 2012 – tr 122

9



nhiều lần, có người được hưởng ít lần (với chế độ ốm đau), thậm trí không được
hưởng (chế độ thai sản).
Thứ năm: quỹ bảo hiểm xã hội lã quỹ phi lợi nhuận, mang tính cộng đồng
cao BHXH là một lĩnh vực thuộc an sinh xã hội nên mang tính xã hội cao. Qũy bảo
hiểm xã hội mang tính cộng đồng cao bởi được hình thành từ sự đóng góp của ba
bên gồm người sử dụng lao động, của người lao động và được Ngân sách Nhà nước
hỗ trợ. Qũy bảo hiểm xã hội được thành lập không nhằm mục đích kinh doanh lấy
lợi nhuận mà để đảm bảo ổn định cuộc sống người lao động, chia sẻ rủi ro, biến cố
bất lợi với người lao động và gia đình. Với nguyên tắc lấy số đông bù cho số ít, dựa
trên sự san sẻ rủi ro của toàn xã hội, người tham gia bảo hiểm chỉ đóng góp một
phần nhỏ trong thu nhập của mình để tạo lập quỹ nhưng nhiều người cùng đóng
góp tạo nên nguồn tài chính lớn cho quỹ đảm bảo chi trả hỗ trợ số ít người lao động
lâm vào hoàn cảnh khó khăn ảnh hưởng đến thu nhập.
1.3. Vai trò của quỹ bảo hiểm xã hội
1.3.1. Đối với người lao động
Thứ nhất: Quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm thay thế hoặc bù đắp sự thiếu hụt
thu nhập của người lao động và gia đình họ.
Khi người lao động đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ thì họ có quyền được
nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội khi phát sinh những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, tuổi già… đã làm thu nhập của họ bị giảm sút hoặc mất hẳn. Qũy
bảo hiểm xã hội lúc này sẽ bù đắp, trợ giúp cho người lao động và gia đình những
thiếu hụt về thu nhập. Chỉ khi thực hiện tốt chức năng này, bảo hiểm xã hội mới
thực sự cuốn hút đối với người lao động để họ tham gia đóng góp vào quỹ.
Thứ hai: Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất để
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Có thể nói quỹ bảo hiểm xã hội đã làm triệt tiêu đi nỗi lo ngại của người lao
động về bệnh tật, tai nạn lao động hay tuổi già... Bằng các khoản trợ cấp được chi

10



trả trên quá trình tích lũy từ thu nhập của người lao động đủ để đảm bảo ổn định
cuộc sống của người lao động, tạo nên tâm lý yên tâm cho người lao động, đặc biệt
là với những người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ...
Chức năng này như là một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động trong hoạt
động lao động sản xuất.
1.3.2. Đối với người sử dụng lao động
Thứ nhất: Giúp người sử dụng lao động ổn định sản xuất kinh doanh tránh
được những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không may người
lao động mà mình thuê mướn gặp rủi ro trong lao động, đặc biệt lợi ích của người
sử dụng lao động với người lao động được giải quyết hài hoà tránh những căng
thẳng không cần thiết.
Thứ hai: Quỹ bảo hiểm xã hội tạo điều kiện cho người sử dụng lao động phải
có trách nhiệm với người lao động, không chỉ trực tiếp sử dụng lao động mà trong
suốt cuộc đời người lao động đến khi già yếu. Việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã
hội giúp cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc, nâng cao trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp.
1.3.3. Đối với nhà nước và xã hội
Thứ nhất: Quỹ bảo hiểm xã hội giúp phân phối lại thu nhập
Khi người lao động tham gia bảo hiểm đã thực hiện san sẻ rủi ro của chính
mình theo thời gian. Nghĩa là họ đóng phí bảo hiểm xã hội kèm với tỷ lệ nào đó của
thu nhập từ nghề nghiệp và trong thời gian dài, để đến khi họ ốm đau, nghỉ hưu
….hệ số tiền đó được tích tại quỹ bảo hiểm xã hội có thể bảo đảm một phần nhu cầu
chi tiêu của họ. Ngoài ra, người sử dụng lao động cũng tham gia đóng phí bảo hiểm
xã hội để bảo hiểm cho người lao động mà họ thuê mướn theo thời gian của hợp
đồng lao động.
Sự phân phối lại trong bảo hiểm xã hội còn thể hiện ở chỗ người lao động
khỏe đóng góp cho người lao động ốm đau, người lao động trẻ đóng góp để cho

11



người lao động đã hết tuổi lao động được hưởng. Qũy bảo hiểm xã hội là dòng chảy
liên tục của sự đóng vào và sự chi ra của tiền bảo hiểm.
Thứ hai: Quỹ bảo hiểm xã hội góp phần tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa các
nhóm lao động.
Người lao động hàng tháng chỉ phải trích tỷ lệ nhỏ từ thu nhập đống cho quỹ
bảo hiểm xã hội nhưng với số đông người tham gia sẽ có một nguồn tiền lớn đủ để
trang trải cho những người không may gặp rủi ro. Nhờ vậy tạo ra sự đoàn kết, tương
trợ và sự gắn kết lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội.
Người sử dụng lao động tuy không trực tiếp được hưởng các trợ cấp bảo hiểm
xã hội nhưng khi đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, họ không còn lo lắng phải chi trả
những khoản tiền đền bù cho người lao động nếu không may xảy ra các rủi ro từ
nghề nghiệp. Cả người lao động lẫn người sử dụng lao động đều yên tâm, tạo điều
kiện cho sự ổn định của quan hệ lao động và sự phát triển doanh nghiệp.
1.4. Nguyên tắc cơ bản của quỹ BHXH
Thứ nhất: Quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý thống nhất, dân chủ, công
khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ
thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm
thất nghiệp.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để đảm
bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã
hội đặt ra thì một trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý, sử dụng quỹ
bảo hiểm xã hội. Xuất phát từ ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội cho nên việc quản
lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch
và trên cơ sở của cơ chế ba bên. Chính vì vậy, ở nước ta việc tổ chức thực hiện các
chính sách bảo hiểm xã hội, tổ chức thu, chi, quản lý quỹ được giao cho cơ quan
Bảo hiểm xã hội thực hiện một cách thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở
pháp luật, dưới sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của Nhà nước mà cụ thể là Hội đồng


12


quản lý bảo hiểm xã hội. Trong đó, Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội là cơ quan
bao gồm đại diện Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng
giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam …. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật thì
hằng năm Chính phủ có trách nhiệm thực hiện công tác báo cáo Quốc hội về quản
lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội qua đó thể hiện tính chất dân chủ, công khai,
minh bạch trong việc tổ chức thực hiện và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ hai: Quỹ BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi
của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm
quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất
trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành và chịu sự
kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối với các
bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới có
điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cường công
tác quản lý quỹ , quản lý sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất,
giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động BHXH.
Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước cần phải luật pháp hoá
việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của
quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn
được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu tư
vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.

+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ

13


BHXH phát sinh.
Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt chẽ theo
những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi, quỹ
BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi
cho người lao động trên thực tế.
Thứ ba: Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ
đóng góp của họ.
Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế
đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền
lợi về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích
hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên
đều đặn trong những tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù
hợp với mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo
quy định của pháp luật.
Thứ tư: Hoạt động quỹ BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang
tính chất của quỹ tương hỗ bảo hiểm.
Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho
người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền
kinh tế. Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang
tính chất cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động. Các khoản đóng
góp vào quỹ BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH,
nếu quỹ không đủ bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp
BHXH để bảo đảm quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản
lý quỹ BHXH là phải cân đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ
BHXH phải tổ chức công tác kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng

pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và
phát triển để có điều kiện bảo đảm quyền lợi cho người lao động hoặc giảm được sự
tài trợ của Nhà nước.

14


Thứ năm: Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải
trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội
của đất nước.
Phải tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế
quản quỹ dựa phù hợp với thực trạng kinh tế và các chính sách khác có liên quan
như chính sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền công,
chăm sóc y tế, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi vì,
bất kỳ một chính sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước đều phải phù hợp
với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức
độ phát triển của từng loại lao động. Do đó, việc thay đổi, hoàn thiện cơ chế hình
thành và sử dụng quỹ BHXH phải tuận thủ thực hiện nguyên tắc này, có như vậy
quỹ BHXH mới tồn tại và phát triển vững chắc, phù hợp với sự phát triển của các
thành phần kinh tế của đất nước. Nếu việc thay đổi, hoàn thiện cơ chế hình thành và
sử dụng điều chỉnh một cách tùy tiện không dựa trên thực trạng phát triển kinh tế xã hội sẽ dân đến những hậu quả tiêu cực, đi ngược lại với mục đích của bảo hiểm
xã hội.

15


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
BHXH được coi là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. BHXH không
mang tính kinh doanh mà mang tính xã hội. Tuy nhiên để thực hiện được các mục
tiêu của BHXH thì tài chính của BHXH ( quỹ BHXH) đóng vai trò hết sức quan

trọng. Quỹ BHXH phải đủ mạnh, đủ cân đối giữa tu bảo hiểm và cho bảo hiểm thì
mới đảm bảo được sự an toàn của quỹ.
Do đó, việc nghiên cứu quỹ BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng.Việc nghiên
cứu đặc trưng, bản chất, vai trò và nguyên tắc của quỹ bảo hiểm xã hội giúp hình
dung khái quát phần nào về quỹ bảo hiểm xa hội.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập với đặc trưng cơ bản nhất là quỹ
tương hỗ bảo hiểm không mang tính chất kinh doanh. Qũy được lập ra không chỉ
nhằm bù đắp, bảo đảm đời sống cho người lao động khi không may gặp rủi ro trong
cuộc sống mà còn thể hiện tính tương trợ cộng đồng cao.
Việc nắm vững được tính chất của quỹ bảo hiểm xã hội sẽ giúp cho nhà làm
luật xây dựng những quy định pháp luật, các chính sách BHXH về quỹ BHXH được
phù hợp, hiệu quả.

16


Chương 2

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUỸ BẢO HIỂM
XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Pháp luật hiện hành về quỹ bảo hiểm xã hội
2.1.1. Quy định của pháp luật về sự hình thành quỹ BHXH
2.1.1.1.Quy định của pháp luật về sự hình thành quỹ BHXH bắt buộc
Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc là quỹ được hình thành trên cơ sơ nghĩa vụ phải
tham gia đóng góp của các đối tượng nhất định nhằm tạo lập nguồn chi trả để đảm
bảo thu nhập cho người lao động trong những trường hợp rủi ro nhất định. Qũy bảo
hiểm xã hội bắt buộc quy định các đối tượng luật định không có quyền lựa chọn có
tham gia hay không.

Theo Luật BHXH 2014, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc được hình thành từ các
nguồn thu gồm:
- Nguồn đóng góp từ người lao động
- Nguồn đóng góp từ người sử dụng lao động
- Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư từ quỹ
- Hỗ trợ của Nhà nước
- Các nguồn thu hợp pháp khác
Cụ thể như sau:
a. Nguồn thu từ người lao động và người sử dụng lao động
* Đối tượng tham gia đóng góp
 Người lao động
Theo điều 2 Luật BHXH 2014, người lao động là công dân Việt Nam thuộc

17


×