Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự tại tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

ĐOÀN ĐÌNH CHIẾN

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

---------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG
HỌ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
ĐOÀN ĐÌNH CHIẾN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SỸ LÊ ĐÌNH VINH

HÀ NỘI - 2016




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đoàn Đình Chiến


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô đáng kính đã
tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này.
Tôi xing gửi lời cảm ơn chân thành tới cơ sở đào tạo đã tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành khoá học và trình bày Luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều
tư liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề nghiên cứu của Luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới người thân đã động viên và giúp đỡ tôi
trong quá trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CẢM ƠN

Đoàn Đình Chiến


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU CỦA LUẬN VĂN


Bảng 2.1: Kết quả THADS (về số việc), trang 40
Bảng 2.2: Kết quả THADS (về tiền), trang 42
Bảng 2.3: Số việc tự nguyện thi hành và phải cưỡng chế thi hành án, trang 46
Bảng 2.4: Kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước cấp cho các cơ quan
THADS tỉnh Hải Dương, trang 48
Bảng 2.5: Hiệu quả về kinh tế của công tác THADS, trang 49
Bảng 2.6: Tình trạng việc THADS còn tồn đọng, trang 51
Bảng 2.7: Cường độ lao động của Chấp hành viên, trang 57
Bảng 2.8: Số lượng cán bộ, Chấp hành viên THADS bị xử lý hàng năm,
trang 62.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................. 3
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứ................................................................................. 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài...............................................................................6
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn.....................................................................8
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn......................................................... .... ..8
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn...............................................................................9
6. Nội dung của luận văn ................................................................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................................... 10

CHƯƠNG I .................................................................................... 11
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THADS ............................................................................ 11
1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong THADS và hiệu quả áp dụng pháp luật trong
THADS ........................................................................................................................... 11
1.2. Những yếu tố bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS ............................ 21
1.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS ............................... 29


CHƯƠNG II ................................................................................... 34
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THADS TẠI TỈNH
HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1993 ĐẾN NAY ................................... 34
2.1. Pháp luật về THADS và đội ngũ Chấp hành viên từ năm 1993 đến nay..................... 34
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong THADS ở tỉnh Hải Dương từ năm 1993 đến nay . 40
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế............................................................................... 53

CHƯƠNG III ................................................................................. 67
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THADS....................................... 67
3.1. Bảo đảm thực tiễn áp dụng pháp luật trong THADS ở tỉnh Hải Dương nói riêng, ở Việt
Nam nói chung - yêu cầu cấp bách hiện nay .................................................................... 67

1


3.2. Quan điểm bảo đảm thực tiễn áp dụng pháp luật trong THADS ở tỉnh Hải Dương nói
riêng, ở Việt Nam nói chung............................................................................................ 69
3.3. Một số Giải pháp cơ bản bảo đảm thực tiễn áp dụng pháp luật trong THADS ........... 73

KẾT LUẬN .................................................................................... 94

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động nhằm thực thi các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Điều dễ nhận thấy là nếu không có hoạt động thi

hành án hoặc hoạt động thi hành án không hiệu quả thì bản án, quyết định của Toà
án cho dù có hiệu lực cũng sẽ chỉ tồn tại trên giấy, công lý được tuyên song không
được thực thi trên thực tế.
Hoạt động THADS do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành, song giữ
vai trò quyết định là các cơ quan THADS, được tổ chức theo ngành dọc từ trung
ương xuống địa phương. Ở Trung ương có Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp,
ở địa phương có Cục THADS được thành lập ở cấp tỉnh, Chi cục THADS được
thành lập ở cấp huyện. Những cá nhân làm việc trong các cơ quan THADS, là
người trực tiếp tổ chức thi hành án, được nhà nước bổ nhiệm giữ một chức danh
tư pháp, gọi là Chấp hành viên. Hoạt động THADS của cơ quan THADS, trực tiếp
là của Chấp hành viên được điều chỉnh bằng pháp luật và chủ yếu được tiến hành
dưới hình thức áp dụng pháp luật.
Trong những năm gần đây, tổ chức các cơ quan THADS không ngừng
được kiện toàn theo hướng mở rộng thẩm quyền, tăng cường và nâng cao chất
lượng đội ngũ Chấp hành viên đi đôi với cải thiện chính sách đãi ngộ. Số liệu
thống kê từ các báo cáo tổng kết Ngành hàng năm ở trung ương cũng như ở tỉnh
Hải Dương cho thấy, thời gian qua, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị nói
chung, của các cơ quan THADS nói riêng, công tác THADS đã có nhiều chuyển
biến tích cực và đạt được những kết quả hết sức quan trọng. "Trong 5 năm vừa
qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng công tác THADS đã thu được
nhiều kết quả khá khả quan, càng ngày có những bước tiến rõ rệt về quy mô, về
chất lượng thi hành án, góp phần nhất định vào quá trình tăng nguồn thu ngân
sách nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần
tích cực vào việc bảo đảm công lý, duy trì trật tự, công bằng xã hội, làm lành

3


mạnh các quan hệ kinh tế - dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa" [4]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, THADS vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu của thực tiễn đặt ra. "Đây là lĩnh vực khá yếu, đặc biệt là tình trạng án tồn
đọng lớn ở tỉnh Hải Dương (3.433 vụ việc, chiếm gần 50% số vụ việc với tổng số
tiền trên 1.000 tỷ đồng)" [16]; "Số việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành
hoặc tồn đọng chuyển sang năm sau vẫn còn rất nhiều, gây bức xúc trong dư luận
xã hội;... Còn xảy ra các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong thi hành công vụ,
đặc biệt là còn tình trạng vi phạm pháp luật và bị truy tố hình sự của cán bộ làm
công tác THADS. Kết quả thi hành án chưa thực sự bảo vệ quyền lợi của người
được thi hành án, nhất là trong các trường hợp kê biên, bán đấu giá tài sản, nhiều
vụ việc dẫn đến khiếu kiện kéo dài" [14]. Trong 5 năm (2010 - 2015) Viện kiểm
sát nhân dân hai cấp của tỉnh Hải Dương đã phải kháng nghị yêu cầu xử lý 52 văn
bản và hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan THADS. Tình trạng khiếu nại
về THADS vẫn còn nhiều, tuy không tập trung đông người, nhưng gay gắt. Nhiều
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân không chấp hành bản án, quyết định của
Tòa án, không tự nguyện thi hành án. Hàng năm vẫn còn Chấp hành viên bị kỷ
luật vì vi phạm pháp luật trong khi tổ chức thi hành án. Nhiều vụ việc vi phạm dẫn
đến phải xử lý, khắc phục hậu quả rất phức tạp, làm giảm lòng tin của xã hội đối
với các cơ quan Thi hành án. Việc phát huy vai trò của công tác THADS trong
việc giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân nói chung, của người phải
thi hành án nói riêng vẫn còn rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này, một
phần xuất phát từ việc ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận nhân dân và một
số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền
địa phương) còn hạn chế; chưa có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa một số cơ
quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ
sở pháp lý về tổ chức và hoạt động THADS chưa được hoàn thiện, hệ thống các
văn bản pháp lý về THADS chưa đầy đủ, đồng bộ; cơ chế quản lý và cơ chế thi
hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiệu quả THADS. Mặt
khác, xuất phát từ chính những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật của các cơ
quan, các cá nhân được giao thẩm quyền tổ chức THADS: "Các hạn chế, yếu kém
4



trong THADS có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ quan
như về đội ngũ cán bộ, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, cơ sở vật chất..." [16]; "Một
số cán bộ thi hành án chưa tích cực, chủ động trong công tác (chậm ra quyết định
về thi hành án, chưa kịp thời xác minh điều kiện thi hành án hoặc không kiên
quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án mặc dù người phải thi hành án
có điều kiện thi hành); còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng dân vận,
thuyết phục, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, thậm chí có sai phạm, tiêu cực trong giải
quyết công việc... Một số trường hợp cán bộ, Chấp hành viên trong tác nghiệp còn
cẩu thả, sai phạm, thậm chí tiêu cực, sách nhiễu, gây phiền hà cho đương sự nên
bị tố cáo, khiếu nại" [2]; “Một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa tích
cực cập nhật kiến thức nghiệp vụ, trong một số trường hợp còn tác nghiệp tuỳ tiện
hoặc ỷ lại. Công tác chuẩn bị cưỡng chế thi hành án còn có nơi chưa tốt, để xảy ra
một số vụ việc đáng tiếc, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội”. [13].
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và chủ trương chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
thì vai trò của công tác THADS ngày càng đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy,
những năm gần đây, các vụ việc tranh chấp về kinh doanh thương mại, tín dụng
ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều với số tiền phải thi hành lớn, nếu việc thi hành
án không có hiệu quả sẽ gây ra nhiều ách tắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
của cá nhân, tổ chức trong đó có cá nhân, tổ chức nước ngoài, không đảm bảo môi
trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp. Thực trạng trên đòi hỏi
phải có những giải pháp khắc phục triệt để, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề lý luận
cần phải giải đáp. Mặc dù vậy, các nghiên cứu lý luận về THADS vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu, nhất là trong điều kiện cải cách tư pháp.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực
tiễn áp dụng pháp luật trong công tác THADS trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN là một yêu cầu cấp bách hiện nay.


5


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách pháp luật và cải cách tư pháp,
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN theo Nghị quyết số 48/NQ-TW và số
49/NQ-TW của Bộ Chính trị năm 2005, những năm gần đây, nhiều công trình
nghiên cứu về thể chế, bộ máy và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có
cơ quan thi hành án nói chung, THADS nói riêng, về hiệu quả pháp luật, áp dụng
pháp luật trong thực tiễn đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến các
công trình sau:
- “Quy trình, thủ tục THADS”, Cục THADS - Bộ Tư pháp, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2007;
- “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thanh
Thuỷ, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2008;
- “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động THADS ở Việt Nam hiện
nay”, Nguyễn Quang Thái, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2008;
- “Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ Chấp hành viên và
xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Đề tài khoa học
cấp Bộ, Cục THADS - Bộ Tư pháp, tháng 8/2009;
- “Xử lý tình huống trong THADS và các văn bản pháp luật về THADS”,
Nguyễn Thanh Thuỷ - Lê Thị Kim Dung (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2010;
- “Triển khai áp dụng Luật THADS trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi
hành án”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Tư pháp, 2010;
- “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật THADS Việt Nam”, Lê Thu Hà,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011;
Ngoài ra, còn một số bài viết chuyên đề đi sâu phân tích về tổ chức, nghiệp
vụ THADS đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu khoa học:


6


- “Pháp lệnh THADS năm 2004 với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thi hành án”, Nguyễn Thanh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề
về nghiệp vụ THADS năm 2005;
- “Các biện pháp cưỡng chế THADS” của Trần Phương Thảo, Tạp chí Luật
học số 7/2007;
- “Một số kiến nghị từ thực tiễn hoạt động kiểm sát THADS ở xã, phường,
thị trấn”, Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 19/2006;
- “Hoà giải - biện pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
THADS”, Phạm Quốc Toản, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng
7/2006;
- “THADS phải là công việc nhiệm vụ cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể nhân
dân”, Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8/2005;
- “Biện pháp tự nguyện trong THADS”, Phạm Quang Dũng, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số 4/2005;
- “Vai trò của công tác hoà giải trong THADS”, Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số 01/2005.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các khía
cạnh khác nhau liên quan đến hoạt động THADS, như: khái niệm, bản chất của
THADS; khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật THADS, đặc trưng và các
loại hình THADS; vai trò, nguyên tắc của THADS; mô hình tổ chức và hoạt động
của cơ quan THADS; tiêu chí, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
THADS... Trong khi tiếp cận các vấn đề đó, một số công trình cũng đã đề cập đến
vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động THADS, song chủ yếu là phần giải pháp
nhằm bảo đảm THADS. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào tập trung nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng
pháp luật trong THADS, nhất là từ góc độ thực tiễn triển khai công tác THADS tại
một địa phương cụ thể. Vì vậy, trong luận văn này, trong khi kế thừa và tiếp thu

có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước đây, tác giả sẽ
7


tập trung nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn của công tác THADS tại
địa bàn tỉnh Hải Dương, từ đó rút ra những vấn đề lý luận, thực tiễn và bài học
kinh nghiệm để góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các cơ quan THADS trong phạm vi cả nước.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn,
các quan điểm, giải pháp bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS ở
tỉnh Hải Dương trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và thực hiện
công cuộc cải cách tư pháp.
Phạm vi nghiên cứu: Mặc dù thẩm quyền trong hoạt động THADS được
trao cho nhiều cơ quan khác nhau... Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động THADS cơ bản và chủ yếu do cơ quan THADS mà cụ thể là Chấp hành viên
thực hiện. Vì vậy, luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong
hoạt động THADS tại các cơ quan THADS thuộc tỉnh Hải Dương trong khoảng
thời gian từ năm 1993 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, luận văn có
thể đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động THADS của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về
áp dụng pháp luật trong THADS cũng như thực trạng công tác THADS tại một địa
phương cụ thể, chỉ ra những tồn tại, bất cập của công tác này trong thực tiễn hiện
nay để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về THADS ở địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước
nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS, chỉ ra

những tác động của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội;

8


- Phân tích các điều kiện bảo đảm và các tiêu chí đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật trong THADS trong bối cảnh của tỉnh Hải Dương nói riêng và ở
Việt Nam nói chung;
- Đánh giá thực trạng hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS ở tỉnh Hải
Dương thời gian qua;
- Đề xuất, luận chứng các quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả áp
dụng pháp luật trong THADS nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về cải cách tư pháp, về
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong luận văn: Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp;
chương 2 sử dụng các phương pháp so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp để đảm
bảo đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động
THADS của cơ quan THADS tỉnh Hải Dương thời gian qua; chương 3 sử dụng
phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lý luận và thực tiễn để bảo đảm tính
thuyết phục trong các lập luận. Phương pháp logic và hệ thống bảo đảm tính nhất
quán, liên thông giữa các nội dung, các chương, tiết của luận văn.
6. Nội dung của luận văn
Một là, trên cơ sở phân tích quan niệm về áp dụng pháp luật trong THADS,
Luận văn xây dựng khái niệm thực tiễn áp dụng pháp luật trong THADS;
Hai là, phân tích những tác động của thực tiễn áp dụng pháp luật trong
THADS đối với đời sống kinh tế - xã hội;

Ba là, phân tích các điều kiện bảo đảm thực tiễn áp dụng pháp luật trong
THADS tại tỉnh Hải Dương;

9


Bốn là, đưa ra các tiêu chí đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong
THADS tại tỉnh Hải Dương;
Năm là, khái quát pháp luật THADS ở Việt Nam, đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật trong THADS thời gian qua tại tỉnh Hải Dương;
Sáu là, đề xuất và luận chứng quan điểm, giải pháp đảm bảo thực tiễn áp
dụng pháp luật trong thi THADS trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế thực hiện chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương, 9 tiết.

10


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG THADS
1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong THADS và hiệu quả áp dụng pháp
luật trong THADS
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong THADS.
Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý nhân danh Nhà nước
tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Những phán quyết của Tòa án muốn
được thực thi trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án. Theo Từ điển Luật học,

thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành
theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [28, tr.705]. THADS là một lĩnh vực
trong công tác thi hành án nói chung. Điều 1 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 đã quy định các bản án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc bản án,
quyết định khác do pháp luật quy định được thi hành theo thủ tục THADS bao
gồm: Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong
bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
Toà án, quyết định của Toá án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải
thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại [26]. Pháp luật cũng
quy định việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự nói trên thuộc thẩm
quyền của cơ quan nhà nước, cụ thể là các cơ quan THADS. Từ đó, THADS được
hiểu là Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ
tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc bản án, quyết định khác do pháp luật
quy định (bản án, quyết định dân sự của Tòa án và bản án, quyết định khác do
pháp luật quy định sau đây được gọi chung là bản án, quyết định của Tòa án).

11


Pháp luật THADS là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền trong
xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực THADS. Hoạt
động áp dụng pháp luật THADS là một trong những hình thức thực hiện pháp luật
THADS. Vì vậy, để làm sáng tỏ bản chất pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật
trong THADS cần thiết phải nhìn nhận dưới góc độ chung nhất, tức là dưới góc độ
thực hiện pháp luật THADS.

Thực hiện pháp luật THADS là toàn bộ quá trình bao gồm những hoạt
động, cách thức khác nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm chuyển hoá
những quy tắc xử sự chung được các quy phạm pháp luật ghi nhận trở thành hành
vi, cách xử sự thực tế của các chủ thể pháp luật THADS. Điều này cũng có nghĩa
những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THADS được điều chỉnh, trở thành
các quan hệ pháp luật THADS, các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể
quan hệ pháp luật THADS được thực hiện. Như vậy, thực hiện pháp luật THADS
chính là quá trình hiện thực hoá các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật
THADS trong đời sống xã hội.
Như trên đã phân tích, thực hiện pháp luật THADS được triển khai theo
nhiều hình thức khác nhau song có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành sự liên
kết thống nhất từ đó bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với các quan
hệ phát sinh trong THADS lĩnh vực THADS. Cụ thể, đó là những hình thức sau:
- Tuân thủ pháp luật THADS, là hình thức mà các chủ thể quan hệ pháp
luật THADS, gồm các cơ quan, tổ chức, công dân không thực hiện những hành vi
mà các quy phạm pháp luật THADS ngăn cấm. Luật THADS hiện nay quy định
các Chấp hành viên phải tuân thủ các quy phạm ngăn cấm như: không được làm
những việc mà pháp luật quy định công chức không được làm, không được tư vấn
cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án trái
pháp luật, không được thi hành trái nội dung bản án, quyết định, trì hoãn hoặc kéo
dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật....
Đối với các chủ thể khác, Luật quy định ngăn cấm: các cơ quan, tổ chức, cá nhân
12


không được cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan
THADS và của Chấp hành viên, không được từ chối cung cấp thông tin về tài sản
của người phải thi hành án khi có yêu cầu của Chấp hành viên...; người phải thi
hành án không được tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ
thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản, không được trì hoãn việc thi

hành án khi có điều kiện thi hành án…
- Thi hành pháp luật THADS, hay chấp hành pháp luật THADS, là hình
thức mà các chủ thể quan hệ pháp luật THADS phải thực hiện những hành vi nhất
định, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà quy phạm pháp luật THADS
đã dự liệu cụ thể. Như vậy, đây là hình thức thực hiện pháp luật THADS chủ động
mà qua đó các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý. Chủ thể ở đây gồm tất cả
các cơ quan, tổ chức và công dân. Với quan niệm trên, tuân thủ pháp luật THADS
và chấp hành pháp luật THADS đều là hình thức thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
mà pháp luật THADS quy định; sự khác nhau cơ bản giữa hai hình thức này chỉ là
tính chất hành vi, tính chất bị động hay chủ động. Chính vì sự khác nhau này mà
việc bảo đảm chấp hành pháp luật THADS, bên cạnh các yếu tố về nhận thức, ý
thức… thì yếu tố về năng lực, kỹ năng thực hiện hành vi là hết sức quan trọng.
- Sử dụng pháp luật THADS là hình thức các chủ thể (cơ quan, tổ chức, cá
nhân) sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép, thể hiện tính chủ động, tích cực,
bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Với quan niệm trên, sử
dụng pháp luật THADS, khác về cơ bản với hình thức chấp hành pháp luật
THADS ở những điểm sau:
+ Về bản chất pháp lý, là hình thức thực hiện quyền trong khi chấp hành
pháp luật là hình thức thực hiện nghĩa vụ. Các quy phạm pháp luật trong chấp
hành pháp luật THADS được xây dựng chủ yếu xuất phát từ lợi ích chung, từ yêu
cầu bảo vệ pháp chế; trong khi đó, các quy phạm pháp luật trong sử dụng pháp
luật THADS lại chủ yếu xuất phát và chú ý thích đáng đến quyền và lợi ích của
các chủ thể.

13


+ Pháp luật THADS cho phép các chủ thể sử dụng pháp luật có thể thực hiện
hay không thực hiện các quyền mà nó trao cho. Như vậy sử dụng pháp luật THADS
mang tính chủ động, tích cực song linh hoạt, mà yếu tố cơ bản chi phối là vấn đề lợi

ích. Pháp luật THADS càng phản ánh chính xác lợi ích chính đáng của các chủ thể thì
tính khả thi của nó càng bảo đảm, việc sử dụng pháp luật càng hiệu quả.
- Áp dụng pháp luật THADS là hình thức có những đặc điểm riêng so với
các hình thức đã phân tích ở trên. Trên cơ sở quan niệm chung của khoa học pháp
lý về áp dụng pháp luật, có thể bước đầu quan niệm áp dụng pháp luật THADS là
hình thức thực hiện pháp luật THADS trong đó Nhà nước thông qua cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tổ chức cho các chủ
thể khác thực hiện các quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật trong THADS
có những đặc điểm sau:
Một, áp dụng pháp luật trong THADS là để tổ chức thực thi một quyết định
áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền khác, cụ thể là bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được
thi hành ngay theo quy định của pháp luật.
Hai, luôn có sự can thiệp của Nhà nước, cụ thể là sự can thiệp trong các
trường hợp sau:
+ Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn,
Luật THADS quy định người được thi hành án có quyền yêu cầu người phải thi
hành án chịu lãi suất đối với khoản tiền chậm thi hành, nhưng nếu không có quyết
định của cơ quan THADS cho thi hành khoản lãi suất đó thì nghĩa vụ của người
phải thi hành án không phát sinh…
+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật THADS mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng
hạn, khi các đương sự không thực hiện đúng sự thỏa thuận về phương thức thi
hành án thì cơ quan THADS ra quyết định buộc bên phải thi hành án phải thực

14


hiện đúng theo quyết định của bản án; hoặc cơ quan thi hành án có quyền ra quyết

định hoãn thi hành án để đương sự đề nghị toà án can thiệp và đưa ra phán quyết
khi các bên có tranh chấp về quyền sở hữu tài sản bị kê biên để đảm bảo thi hành
án…
+ Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, hoặc áp dụng các
chế tài đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật THADS. Đây là
trường hợp áp dụng pháp luật rất phổ biến trong THADS, được thực hiện khi
người phải thi hành án có điều kiện mà không tự nguyện thi hành án thì cơ quan
THADS sử dụng quyền lực nhà nuớc quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án để buộc họ phải thi hành án; hoặc người có thẩm quyền của cơ quan
THADS quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật
THADS mà chưa đến mức phải xử lý hình sự của người phải thi hành án hoặc của
các cá nhân, tổ chức khi không thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án trong
khi tổ chức thi hành án…
+ Trong một số quan hệ pháp luật THADS mà Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó, hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế, như kiểm
tra, giám sát việc các đương sự tự thỏa thuận thực hiện việc thi hành án với nhau,
hoặc xác nhận đương sự đã thực hiện xong các quyền, nghĩa vụ thi hành án, xác
nhận quyền được đăng ký tài sản của người trúng đấu giá tài sản thi hành án…
Ba, áp dụng pháp luật khi tổ chức thi hành án là hoạt động tư pháp, vì
những lý do sau:
Thứ nhất, về khái niệm hoạt động tư pháp, mặc dù chưa có một quy phạm
pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là hoạt động tư pháp, nhưng có thể hiểu
được nội hàm của nó trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân và các văn bản pháp quy khác về tư pháp. Hoạt động tư pháp là
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm pháp và giải quyết các vụ kiện
tụng trong nhân dân. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều tra hình sự được
giao cho hệ thống cơ quan điều tra, hoạt động THADS được giao cho hệ thống cơ
15



quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp đảm nhiệm, việc thi hành án hình sự (phạt tù,
tử hình...) được giao cho Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Do đó, ngoài
hoạt động xét xử, công tố (truy tố), thì hoạt động điều tra hình sự và hoạt động thi
hành án, cả trong lĩnh vực hình sự và dân sự đều được coi là hoạt động tư pháp.
Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, với chức năng, nhiệm vụ được giao, đều
được xem là cơ quan tư pháp trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên thể hiện đầy đủ
những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là:
+ Được trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước trong khi thi hành công vụ;
+ Trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và trật tự pháp luật;
+ Có ảnh hưởng hoặc quyết định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân và của tổ chức có liên quan;
+ Thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, không được đảo lộn và không
được làm tắt;
+ Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các bản
án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế;
+ Thể hiện tính độc lập, tính chuyên môn hóa cao, chế độ chịu trách nhiệm
cá nhân và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của các chức danh tư pháp.
Từ phân tích trên cho thấy, THADS và hoạt động áp dụng pháp luật của
Chấp hành viên để tổ chức thi hành án là hoạt động tư pháp. Vì vậy, phải hết sức
chú trọng đến điều này trong việc xây dựng pháp luật về THADS, xây dựng mô
hình tổ chức hệ thống cơ quan THADS và nhất là trong việc bảo đảm hiệu quả áp
dụng pháp luật trong THADS, vì:
Việc xác định rõ vị trí, vai trò, tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của
các cơ quan tư pháp trong hệ thống cơ quan Nhà nước nhằm bảo đảm để các cơ
quan tư pháp có đầy đủ quyền năng, trách nhiệm, điều kiện và năng lực để hoàn
thành nhiệm vụ, sứ mệnh cao cả mà Nhà nước và nhân dân giao phó là vấn đề hết

16



sức quan trọng. Trong thực tiễn hiện nay ở nước ta, có một số người không nhận
thức đúng vai trò, vị trí và hoạt động đặc thù của các cơ quan tư pháp, nên đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của mình tác động đến các cơ quan tư pháp để giải quyết
các vụ việc theo ý muốn của mình.
Bốn, sự tham dự của Nhà nước trong hoạt động THADS được chủ yếu
thông qua Chấp hành viên. Điều 17 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định, Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành
các bản án, quyết định theo quy định của Luật này và do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
bổ nhiệm [25]. Một cơ quan THADS có thể có rất nhiều cán bộ, công chức, nhưng
chỉ Chấp hành viên là người có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong khi tổ chức
thi hành án, những người còn lại chỉ thực hiện những công việc nhằm mục đích
phục vụ cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án. Chính vì vậy, Chấp hành viên có
vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ quan thi hành án, hoạt động của họ mang tính
chất quyết định kết quả công việc của đơn vị. Cơ quan THADS hoạt động có hiệu
quả hay không có hiệu quả, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự
và của Nhà nước đến mức độ nào phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của chấp
hành viên. Vì hầu hết các hoạt động áp dụng pháp luật của chấp hành viên đều
trực tiếp tác động các quyền và nghĩa vụ cả về nhân thân và tài sản của người
được thi hành án, người phải thi hành án và những người có quyền, nghĩa vụ liên
quan đến việc thi hành án, thường được dư luận xã hội quan tâm, chú ý nên hoạt
động tổ chức thi hành án của chấp hành viên có hiệu quả sẽ tạo lên dư luận xã hội
tốt, tạo dựng được uy tín của cơ quan thi hành án trong nhân dân mà cao hơn là sự
tin tưởng vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật, và ngược lại (khi đề cập
đến chấp hành viên là bao hàm cả Thủ trưởng cơ quan THADS. Thủ trưởng cơ
quan THADS được bổ nhiệm trong số các chấp hành viên; bên cạnh việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, họ cũng tổ chức thi hành
án theo quy định của pháp luật). Nếu như hoạt động của cơ quan THADS là trung
tâm của THADS, thì hoạt động áp dụng pháp luật trong khi tổ chức thi hành án


17


của chấp hành viên là hạt nhân, vì nó tạo lên sức mạnh, uy tín của cơ quan
THADS và của Nhà nước.
Tuy nhiên, về vị trí pháp lý của chức danh Chấp hành viên trong tổ chức bộ
máy nhà nước ta, hiện có những quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng Chấp
hành viên là chức danh hành chính xuất phát từ quan niệm chỉ những người nào
trực tiếp thực hiện hoặc để thực hiện quyền lực tư pháp mới là chức danh tư pháp,
do vậy chức danh tư pháp chỉ bao gồm: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán,
thư ký tòa án, hội thẩm nhân dân, thẩm tra viên, còn các chức danh thực hiện hoạt
động thi hành án là chức danh hành chính. Quan điểm khác cho rằng đây là chức
danh tư pháp thì quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi
nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được
đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh
xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu
chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [22, tr.38]. Sở dĩ có
những quan điểm như vậy là do bản chất của hoạt động thi hành án nói chung và
THADS chưa được xác định một cách thống nhất trong lý luận cũng như trên thực
tiễn. Ngay cả trong Luật THADS hiện đang có hiệu lực thi hành, cũng không có
một điều khoản nào xác định một cách rõ ràng Chấp hành viên là một chức danh
hành chính hay tư pháp. Nhưng như đã phân tích ở trên, phải xác định chức danh
Chấp hành viên là một chức danh tư pháp, vì chức danh của những người được
Nhà nước bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp là chức danh
tư pháp, và vì hoạt động tổ chức THADS của họ có đầy đủ những đặc trưng cơ
bản của hoạt động tư pháp. Vì vậy, khác với các công chức khác, Chấp hành viên
được Nhà nước quy định riêng về chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm nghề
tương đương với thẩm phán, kiểm sát viên, đồng thời bị áp dụng hình thức kỷ luật
riêng so với các chức danh khác. Như vậy, Chấp hành viên là một chức danh tư

pháp, thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nghĩa vụ của một người được Nhà nước bổ nhiệm
nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được Nhà nước giao trách

18


nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc bản án, quyết định
khác do pháp luật quy định.
Như vậy, áp dụng pháp luật trong THADS là hoạt động tư pháp, mang tính
tổ chức, tính quyền lực của Nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động của
chủ thể áp dụng pháp luật trong cơ quan THADS nhằm hiện thực hoá các bản án,
quyết định dân sự của Toà án.
1.1.2. Khái niệm hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS
Để biết hoạt động áp dụng pháp luật khi tổ chức thi hành án của cơ quan
THADS có được thực hiện đúng thẩm quyền hay không, có tuân thủ đúng trình tự,
thủ tục và được áp dụng đúng đối tượng hay không, có đạt được mục tiêu đề ra
hay không... thì phải xem xét, đánh giá qua hiệu quả đạt được của hoạt động này.
Theo Từ điển tiếng Việt, hiệu quả là “Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”
[29, tr.440]. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa hiệu quả là “kết quả
mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới”[27, tr.289].
Còn theo những cách hiểu chung nhất, hiệu quả của một hoạt động là sự so sánh
giữa kết quả đạt được và mục đích, là sự ăn khớp một phần hay hoàn toàn của kết
quả với mục đích và nhiệm vụ được đặt ra từ trước; hay là sự so sánh giữa kết quả
đạt được và chi phí về vật lực, tài lực... để đạt được kết quả đó; hoặc là sự so sánh
giữa kết quả trước và sau khi tiến hành một hoạt động, giữa kết quả đã có và kết
quả sẽ có. Như vậy, có thể hiểu, hiệu quả của một hoạt động là mức độ thực tế của
kết quả đạt được so với mục tiêu của hoạt động đề ra.
Theo đó, hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong THADS được thể hiện
trong một đối tượng cụ thể, bản án cụ thể, địa phương cụ thể. Do đó, Hiệu quả áp
dụng pháp luật trong THADS là sự phản ánh kết quả nhiều mặt của áp dụng pháp

luật trong THADS so với mục đích hiện thực hoá các bản án, quyết định dân sự
của Toà án, thể hiện ở các tác động tích cực của THADS đối với đời sống kinh tế
- xã hội.

19


1.1.3. Tác động của hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS đối với đời
sống kinh tế - xã hội
Qua nghiên cứu cho thấy, hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS không
chỉ đem lại kết quả hiện thực hoá các bản án, quyết định dân sự của toà án, mà nó
còn đem lại những kết quả xã hội rộng lớn, cụ thể là:
Một là, hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS góp phần bảo đảm cho
nhà nước thực hiện tốt chức năng bảo vệ trật tự pháp luật. Pháp luật là phương
tiện quan trọng để nhà nước tổ chức có hiệu quả các chức năng của mình. THADS
là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế. Hoạt động áp dụng pháp luật trong
khi tổ chức THADS có hiệu quả thì những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà
nước về mặt dân sự được thi hành, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức được bảo vệ, đồng thời bảo đảm tính nghiêm minh của
hệ thống pháp luật, giữ vững kỷ cương, phép nước. Thông qua THADS, các mối
quan hệ xã hội bị xâm hại được khôi phục lại tình trạng ban đầu, trật tự pháp luật
được lập lại. Vì vậy, hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS góp phần bảo đảm
cho nhà nước thực hiện tốt chức năng bảo vệ trật tự pháp luật.
Hai là, hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS góp phần bảo đảm hiệu
lực của quyền lực của Nhà nước Để thực hiện tốt việc quản lý xã hội, Nhà nước
trao cho một số cơ quan và cá nhân trong đó có cơ quan, Chấp hành viên THADS
quyền được sử dụng quyền lực của Nhà nước để buộc các đối tượng quản lý phải
thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định theo yêu cầu quản lý của
Nhà nước.

Ba là, hiệu quả áp dụng pháp luật trong THADS góp phần bảo vệ những
quyền dân sự cơ bản của con người Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chúng ta đang xây dựng là một nhà nước
mà trong đó, các quyền cơ bản của con người, trong đó có những quyền dân sự
như quyền được lao động, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, quyền về tự
do, quyền về tài sản... được bảo đảm.
20


×