Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 69 trang )

NGUYỄN TUẤN SƠN
2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI
CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN TUẤN SƠN

2014 -

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI
CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN TUẤN SƠN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN THỊ NHUNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ có tiêu đề “Tố tụng cạnh tranh đối với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn
trích dẫn đầy đủ và trung thực. Kết quả nêu trong luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 01 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Tuấn Sơn


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo nhiệt
tình và quý báu của Tiến sỹ Nguyễn Thị Nhung và tập thể các giảng viên Khoa Đào
tạo Sau đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu Viện Đại học Mở Hà
Nội, Khoa Luật, Phòng Đào tạo và Khoa Đào tạo Sau đại học của nhà trường cùng
các giảng viên, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sỹ
Nguyễn Thị Nhung - Cô đã định hướng và chỉ dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian có hạn, luận văn của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của các Thầy/Cô và quý độc giả.

Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 01 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Tuấn Sơn


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn........................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: CỞ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ................................................... 5
1.1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh ................................................................................ 5
1.2. Thẩm quyền và thủ tục tố tụng cạnh tranh ..................................................... 8
1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ......................................................................8
1.2.2. Thẩm quyền tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................. 12
1.2.3. Thủ tục tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.................... 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .......................................... 25
2.1. Thực tiễn pháp lý về tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh:................................................................................................................. 25
2.1.1. Thụ lý hồ sơ khiếu nại:............................................................................................................... 26
2.1.2. Điều tra sơ bộ ............................................................................................................................. 27
2.1.3. Điều tra chính thức .................................................................................................................... 28

2.1.4. Điều tra bổ sung......................................................................................................................... 30
2.1.5. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh……………………………………… …...35
2.1.6. Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ quá trình điều tra.................................................................... 31
2.1.7. Vấn đề bồi thường thiệt hại ....................................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ....................................................................................................... 36
2.2.1. Điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. ................................................. 36


2.2.2. Hợp tác của cơ quan điều tiết ngành, tổ chức và doanh nghiệp trong quá trình điều
tra ........................................................................................................................................................... 40
2.2.3. Nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức ngành nghề về pháp luật cạnh tranh................... 42
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TỐ TỤNG
CẠNH TRANH ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ..... 46
3.1 Bảo đảm tính hệ thống của pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. ............................................................................................. 46
3.2. Hoàn thiện năng lực, thể chế và khả năng thực thi pháp luật cạnh tranh của
cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam ........................................................................ 50
3.2.1. Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh................................................................. 50
3.2.2. Hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh ..................................................... 51
3.2.3. Chức nặng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh............................... 53
3.2.4. Nhân sự của cơ quan quản lý cạnh tranh để đảm bảo tính chuyên nghiệp và
hiệu quả của cơ quan quản lý cạnh tranh, chúng tôi cho rằng nên thay đổi cách
thức, quy trình bổ nhiệm nhân sự cơ quan quản lý cạnh tranh mới như sau: .................... 55
3.2.5. Đổi mới một số nội dung cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh. ................ 55
3.3. Bảo đảm tính phù hợp của pháp luật tố tụng cạnh tranh Việt Nam với pháp
luật tố tụng cạnh tranh thế giới. ................................................................................. 57
3.4. Nâng cao nhận thức cộng đồng về tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. ............................................................................................. 58
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 61



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoản 2, Điều 51 Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật.” [27].
Khoản 1, Điều 4 Luật cạnh tranh năm 2004 cũng quy định: “Doanh nghiệp
được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh
hợp pháp trong kinh doanh.” [18].
Sản xuất hàng hóa, hoạt động thương mại là hoạt động cơ bản để duy trì đời
sống vật chất của xã hội, cạnh tranh là một trong những quy luật của cơ chế thị trường,
đồng thời còn là thuộc tính của kinh tế thị trường. Vì vậy, nó hiện diện trong nền kinh
tế như một yếu tố tất yếu. Xét theo phương diện tích cực, cạnh tranh là động lực thúc
đẩy sự phát triển nền kinh tế. Song xét theo phương diện khác, chính cạnh tranh là yếu
tố đưa lại những hậu quả tiêu cực về kinh tế - xã hội. Cạnh tranh gay gắt sẽ đẫn đến
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và tất yếu độc quyền kinh tế sẽ xuất hiện.
Trên thực tế, cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền kinh tế được các trường
phái kinh tế khác nhau trên thế giới khẳng định là một trong những khuyết tật chủ yếu
của kinh tế thị trường.
Việt Nam đang tiến lên xây dựng nền kinh tế thị trường trong bối cảnh văn hóa
pháp lý và văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Nền
kinh tế Việt Nam phát triển chưa cao lại tạo cơ hội cho những cạnh tranh không lành
mạnh phát triển. Môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa thực sự tạo ra sự cạnh
tranh, trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại không hiếm gặp. Pháp luật
cạnh tranh đã được ban hành nhưng chưa thực sự biết đến và vận dụng rộng rãi. Luật
cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành tuy đã có nhưng chưa hoàn thiện, gây
khó khăn cho việc giải thích và áp dụng. Tố tụng cạnh tranh - “bộ máy” để đưa các chế
định nội dung về cạnh tranh vào thực tiễn, theo đó, đòi hỏi phải phù hợp và hiệu quả

với đa dạng các đối tượng. Trong bối cảnh pháp luật cạnh tranh hiện hành còn mới mẻ,
tố tụng cạnh tranh ít được quan tâm, nghiên cứu, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Tố
tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Pháp luật
Việt Nam” với mục đích nghiên cứu một cách hệ thống trên phương diện lý luận và
thực tiễn về pháp luật tố tụng canh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành
1


mạnh ở Việt Nam; qua đó, xuất phát từ hiện thực khách quan, thực trạng văn hóa xã
hội, văn hóa kinh doanh và đặc biệt là văn hóa pháp lý Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu
những thành tựu của pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật tố tụng cạnh tranh, đưa quy luật cạnh tranh thực sự trở thành công cụ
bảo vệ doanh nghiệp và phát triển nền kinh tế một cách bền vững.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn.
Trước yêu cầu của tình hình thực tế, pháp luật cạnh tranh và vấn đề đưa pháp luật
cạnh tranh vào cuộc sống được đề cập dưới nhiều dạng thức, trong nhiều lĩnh vực.
Ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua, Cục Quản lý cạnh tranh
được thành lập đã tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, trao đổi trong nước cũng như
quốc tế về vấn đề cạnh tranh.
Pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng được các chuyên gia,
nhà nghiên cứu, luật gia quan tâm, nghiên cứu. Năm 2008, Lê Anh Tuấn bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ Kinh tế với đề tài “Pháp Luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam” đã làm rõ đặc điểm, tính chất chung, cơ cấu của pháp luật cạnh
tranh không lành mạnh, về mô hình pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, từ
đó kiến nghị cơ chế để thực thi có hiệu quả pháp luật cạnh tranh. Tiến sĩ Bùi Nguyên
Khánh với những nghiên cứu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập
trên cơ sở mối tương quan với pháp luật cạnh tranh của một số nước như Đức, Mỹ, các
nước ASEAN: “Những thách thức pháp lý đặt ra đối với việc thực thi nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh ở nước ta hiện nay". Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, số 9, 2004: “Hiện đại hóa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hòa
Liên bang Đức trên nền tảng của quá trình hài hòa hóa pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh của Liên minh Châu Âu”. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11, 2004. Tiến
sĩ Đặng Vũ Huân với nghiên cứu: “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh
trang không lành mạnh ở Việt Nam” (sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2001. Những nghiên cứu, đóng góp trên đã góp phần hoàn thiện các chế
định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, song vấn đề tố tụng canh tranh đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh dường như ít được quan tâm.

3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài: “Tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam”, mục đích nghiên cứu của luận văn
2


trước hết là hệ thống một cách cơ bản những cơ sở pháp lý của tố tụng cạnh tranh đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bên
cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam,
đề ra một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của Pháp luật
tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về tố tụng cạnh tranh: Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành
tố tụng cạnh tranh, người tham gia tố tụng cạnh tranh, các giai đoạn của tố tụng cạnh
tranh, thủ tục tố tụng cạnh tranh và biện pháp xử lý đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn pháp lý về tố tụng cạnh tranh đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Những bất cập phát sinh trong
thực tiễn khi áp dụng tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

theo pháp luật Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng,
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh.

3


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở pháp lý của tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Chương 2: Thực trạng tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của tố tụng cạnh tranh đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỐ TỤNG CẠNH TRANH
ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
1.1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh
Thuật ngữ “tố tụng” đã được học giả Đào Duy Anh giải nghĩa trong từ điển Hán
- Việt, theo đó “tố tụng” là việc thưa kiện, “tố tụng pháp lý” là pháp luật quy định
những thủ tục về cách tố tụng [1, tr. 32]. Học giả Lê Gia giải nghĩa chi tiết hơn, theo

đó “tố tụng” là vạch tội và đưa ra cửa công để phân giải phải trái, theo đó chữ “tố” là
vạch tội, chữ “tụng” là đưa ra cửa công để xin phân phải trái [10, tr.1027-1027].
Như vậy, xét về nguồn gốc, thuật ngữ “tố tụng” có thể hiểu là “ việc thưa kiện ở
tòa án” như giải thích trong từ điển Tiếng Việt [35, tr.1278].
Từ điển Luật học của Viện Khoa Học Pháp Lý, Bộ Tư Pháp không giải thích
thuật ngữ “tố tụng” là gì, chỉ giải thích các thuật ngữ: tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính, tố tụng hình sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động [34.tr.785-786]. Theo hướng
tiếp cận này, “tố tụng” được gắn với từng lĩnh vực cụ thể về hình sự, hành chính, dân
sự, kinh tế, lao động… Đó là trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tại tòa án.
Tố tụng cạnh tranh là thuật ngữ mới xuất hiện trong đời sống pháp lý ở Việt
Nam trong những năm gần đây và chính thức được sử dụng trong Luật cạnh tranh. Tố
tụng cạnh tranh thực chất bao gồm thẩm quyền và thủ tục giải quyết vụ việc cạnh
tranh, đó là một trong các nội dung cơ bản và quan trọng của pháp luật cạnh tranh ở
các quốc gia trên thế giới,
Theo khoản 9, Điều 3 Luật cạnh tranh thì tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục giải quyết, xử lý vụ việc cạnh tranh theo
quy định của Luật cạnh tranh.[18].
Tố tụng cạnh tranh có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Khác với các loại tố tụng khác, tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết
vụ việc cạnh tranh.

5


Theo Luật cạnh tranh, vụ việc cạnh tranh là vụ việc có dấu hiệu vi phạm quy
định của Luật này bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy định
của pháp luật.
Tố tụng cạnh tranh sẽ được áp dụng đối với những vụ việc đáp ứng hai điều
kiện cần và đủ sau:

- Một là vụ việc có dấu hiện vi phạm quy định của Luật cạnh tranh.
Vụ việc có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật cạnh tranh là điều kiện cần để
xem xét một vụ việc có được coi là vụ việc cạnh tranh hay không. Các vụ việc không
có dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh bị loài trừ khỏi nội hàm của khái niệm tố tụng
cạnh tranh. Tiêu chí “có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật cạnh tranh” là tiền đề để
loại bỏ một số hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh tranh ra khỏi nội hàm
của tố tụng cạnh tranh, như: hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xem
xét và quyết định cho hưởng miễn trừ đối với các hành vi tập trung kinh tế hay thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh; các hoạt động điều tra để xác định thị trường liên quan, xác
định thị phần…
- Hai là bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy định của
pháp luật.
Cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật là các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh tranh bao gồm: cơ quan quản lý cạnh tranh
và hội đồng cạnh tranh. Các cơ quan này khi tiến hành tố tụng cạnh tranh được thực
hiện từ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm thành viên hội
đồng cạnh tranh, thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên
điều trần. Dấu hiệu này cho phép phân biệt tố tụng khác được tiến hành bởi tòa án hay
cơ quan có thẩm quyền tương ứng (tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự,
tố tụng kinh tế, tố tụng lao động…). Như vậy, vụ việc tuy có dấu hiệu vi phạm pháp
luật cạnh tranh nhưng không được cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy
định của pháp luật cũng không thuộc vụ việc cạnh tranh. Một vụ việc khi hội đủ hai
điều kiện nêu trên (có dấu hiệu vi phạm luật cạnh tranh và bị cơ quan có thẩm quyền
điều tra, xử lý) mới được coi là vụ việc cạnh tranh và mới được giải quyết theo tố tụng
cạnh tranh.

6


Thứ hai, tố tụng cạnh tranh áp dụng cho cả hai loại hành vi vi phạm pháp luật

cạnh tranh có bản chất không giống nhau, đó là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
Đặc điểm này thể hiện sự khác biệt của tố tụng cạnh tranh ở Việt Nam so với tố
tụng cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới quy định tách bạch hoạt động tố tụng liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được giải quyết theo phương thức tố tụng tòa án ( thuộc bản chất tố tụng dân sự)
chứ không thuộc tố tụng cạnh tranh như pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
Tuy nhiên, do bản chất của hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh
không lành mạnh khác nhau nên trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh liên
quan đến hai hành vi này không hoàn toàn giống nhau.
Thứ ba, tố tụng cạnh tranh được tiến hành bởi các cơ quan hành pháp (không
được tiến hành bởi tòa án), thông qua hoạt động của thành viên hội đồng cạnh tranh,
thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên điều trần (thậm
chí, còn bao gồm cả Bộ trưởng Bộ Công Thương), đó là những người có trình độ
chuyên môn cao về các lĩnh vực tài chính, kinh tế, pháp lý.
Những kết luận, quyết định được hình thành sau mỗi quá tình tố tụng cạnh tranh
đều liên quan trực tiếp đến quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, liên quan
đến hoạt động kinh doanh hàng ngày trên thương trường nên cơ quan ban hành các
quyết định này cần có vị trí độc lập trong hệ thống hành pháp. Trên thực tế, những cơ
quan hành pháp này có phương thức tổ chức và hoạt động thiên hướng “tư pháp”.
Thứ tư, tố tụng cạnh tranh được áp dụng không nhất thiết phải dựa vào đơn
khiếu nại của bên có liên quan mà có thể được thực hiện bởi quyết định có tính chất
hành chính của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh được khởi đầu bằng quyết định điều tra sơ
bộ của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó hành vi hạn chế cạnh tranh thường xâm
phạm đến lợi ích của tập thể, xã hội, xâm phạm tới cấu trúc thị trường. Ngoài hồ sơ khiếu
nại vụ việc cạnh tranh đã được thụ lý, cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh quyết
định điều tra sơ bộ còn có thể là dấu hiệu vi phạm quy định của Luật cạnh tranh mà cơ
quan quản lý cạnh tranh tự phát hiện. Bởi vậy, khi phát hiện dấu hiệu vi phạm Luật cạnh


7


tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể tự mình quyết định điều tra sơ bộ mà không cần
có đơn khiếu nại của bên liên quan.

1.2. Thẩm quyền và thủ tục tố tụng cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh với bản chất là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trong việc
giành ưu thế của mình trên thương trường để đạt một mục tiêu nào đó. Để đạt được
mục tiêu của mình, chủ thể tham gia cạnh tranh có khả năng sáng tạo rất nhiều cách
thức ganh đua khác nhau, tạo ra tình trạng cạnh tranh ở những mức độ khác nhau,
thậm chí, xuất hiện cả những hành vi trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh.
Cạnh tranh không lành mạnh,trước hết, là một khái niệm bắt nguồn từ những quy định
mang tính nguyên tắc trong pháp luật dân sự, theo đó, các chủ thể trong giao dịch (dân
sự hay thương mại) phải đảm bảo tôn trọng thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội ở
mỗi quốc gia. Với những quy định như vậy, giao dịch thương mại trên thị trường cũng
phải đảm bảo tôn trọng những quy tắc trong xã hội về đạo đức kinh doanh. Sự phát
triển đa dạng của các quan hệ thương mại trong điều kiện tự do cạnh tranh ở các nền kinh
tế theo cơ chế thị trường đã kéo những hành vi cạnh tranh đa dạng, phức tạp nhằm giành
được lợi thế nhất định cho mình, thậm chí gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khác. Hành
vi cạnh tranh không lành mạnh có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của chủ thể tham
gia thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường có thể gây
thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng.
Quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh phản ánh mặt trái của
hành vi, có nghĩa là hành vi đó có dấu hiệu trái với chuẩn mực đạo đức trong kinh
doanh của các chủ thể tham gia thị trường. Khác với hành vi hạn chế cạnh tranh, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh không thể hiện năng lực hay cường độ cạnh tranh của
chủ thể tiến hành. Dưới giác độ của hạn chế cạnh tranh, doanh nghiệp thông qua sức

mạnh thị trường, năng lực cạnh tranh, liên kết với nhau… để thực hiện cạnh tranh
nhưng cản trở hoạt động cạnh tranh nói chung trên thị trường. Dưới giác độ cạnh
tranh không lành mạnh, các chủ thể tham gia thị trường nói chung sử dụng các thủ
pháp không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh doanh như gian dối, thông tin sai sự
thật về hàng hóa/ dịch vụ, nói xấu, gièm pha chủ thể kinh doanh khác nhằm gây thiệt
hại hoặc bất lợi về cạnh tranh cho một hoặc một số chủ thể khác có liên quan…
8


Nhìn chung, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh đi ngược
lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của
các chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Cạnh tranh không lành mạnh luôn có bản chất của nó là không đẹp, bất chính nhằm
vào đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó. Nó là những hành vi cạnh tranh gây cản trở hoạt
đồng hoặc gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể kinh doanh khác.
Trước khi có Luật cạnh tranh, Luật Thương mại năm 1997 cũng đã xác định
một số nguyên tắc sơ khai về hoạt động cạnh tranh của thương nhân, thực chất chính là
đưa ra mô hình ứng xử lành mạnh trong kinh doanh, Những mô hình ứng xử thể hiện
như sau (Điều 8):
1. Thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại.
2. Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây tổn hạn đến lợi ích quốc gia và các
hành vi sau đây:
a) Đầu cơ để lũng đoạn thị trường;
b) Bán phá giá để cạnh tranh;
c) Gièm pha thương nhân khác;
d) Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của
thương nhân khác;
đ) Xâm phạm quyền về nhãn hiệu hàng hóa, các quyền khác về sở hữu công
nghiệp của thương nhân khác;
e) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác;

Và Điều 9 ( Luật Thương mại 1997) quy định về bảo vệ lợi ích chính đáng của
người sản xuất, người tiêu dùng:
1. Thương nhân có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hóa và dịch
vụ mà mình cung ứng.
2. Thương nhân phải bảo đảm tính hợp pháp của hàng hóa bán ra
3. Cấm thương nhân:
a) Nâng giá, ép giá gây thiệt hại cho người sản xuất, người tiêu dùng;
b) Lừa dối khách hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng;
c) Bán hàng giả;
d) Bán hàng kém chất lượng, sai quy cách với hàng đã đăng ký;
đ) Quảng cáo dối trá;
9


e) Khuyến mại bất hợp pháp;
4. Người tiêu dùng được thành lập tổ chức để bảo vệ lợi ích chính đáng của
mình theo quy định của pháp luật.
5. Trong trường hợp lợi ích của mình bị xâm phạm, người tiêu dùng có quyền
khiếu nại thương nhân đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện thương
nhân tại tòa án theo quy định của pháp luật.
Những quy định trên đây của Luật Thương mại năm 1997, mặc dù còn sơ khai
và mới chỉ liệt kê, nhưng cũng đưa ra những khuôn khổ ban đầu cho việc tiến hành các
hành vi cạnh tranh phù hợp với đạo đức kinh doanh. Do ý thức pháp luật của xã hội
trong lĩnh vực kinh doanh còn thấp cũng như chưa có cơ chế thực thi phù hợp, các quy
định trên chưa thể điều chỉnh một cách có hiệu quả những hành vi cạnh tranh trên thị
trường. Dưới giác độ của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Paris 1883
cũng đã đưa ra những biểu hiện của hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh
(Điều 10 bis, Khoản 2): Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công
nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.
Khoản 3 quy định: những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:

(1) Tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối
với cở sở, hàng hóa, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh.
(2) Những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây
mất uy tín đối với cơ sở, hàng hóa, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người
cạnh tranh;
(3) Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động
thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính
chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hóa.
Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh được quy định rõ ràng trong luật cạnh
tranh- 2004: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (Khoản 4, Điều 3).
Định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh như trên về cơ bản có nhiều điểm phù hợp
với định nghĩa trong Công ước Paris 1883 và pháp luật của một số nước tiêu biểu.
Điều 39 đã liệt kê khái quát những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Và tại Khoản
10


10 có quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại
Khoản 4, Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định. Để cụ thể hóa các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, Luật cạnh tranh đã liệt kê và những dấu hiệu cơ bản về hành
vi cạnh tranh không lành mạnh từ Điều 40 đến Điều 49 bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm
lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh
nghiệp khác; Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh; Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Phân
biệt đối xử của hiệp hội; Bán hàng đa cấp bất chính. Ngoài những quy định trong Luật
cạnh tranh, trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác cũng có thể quy định
riêng về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho phù hợp với những đặc trưng riêng
của chuyên ngành đó, chẳng hạn như lĩnh vực về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tài chính

ngân hàng, xúc tiến thương mại…
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích
cạnh tranh của chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ
là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ
thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh. Điều này cho thấy, hành vi
cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường hẹp, thường
chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh hưởng đến một khu vực thị
trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh, ngay cả khi những hành vi đó do tính
chất mức độ nguy hại của nó xâm phạm đến các đối tượng được luật Hình sự bảo vệ.
Bởi vậy, nhóm hành vi này thường không liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có các dấu hiệu cơ bản như sau:
- Là hành vi của mọi chủ thể tham gia thị trường ( có thể là doanh nghiệp,
nhưng cũng có thể là chủ thể kinh doanh khác, cá nhân với vai trò là người giúp
sức…) nhằm mục đích cạnh tranh như:
- Nhằm vào đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được.
- Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật.
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh hoặc cho người
tiêu dùng.
Để đảm bảo hoạt động cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường được diễn
ra một cách công bằng, bình đẳng và an toàn, pháp luật quy định hành vi cạnh tranh
phải tuân thủ nguyên tắc trung thực, công bằng và không được xâm phạm lợi ích hợp
11


pháp của chủ thể kinh doanh khác, của người tiêu dùng và phải tuân thủ quy định của
pháp luật.
1.2.2. Thẩm quyền tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định của Luật cạnh tranh thì các chủ thể tham gia tố tụng cạnh tranh
đối với các vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh bao gồm hai loại đó là
cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh và người tiến hành tố tụng cạnh tranh. Ngoài ra,

tham gia vào tố tụng cạnh tranh còn có các chủ thể kinh doanh, các tổ chức và cá nhân
có quyền và nghĩa vụ liên quan ( người tham gia tố tụng cạnh tranh) trong trường hợp
này, theo quy định của luật cạnh tranh, là cơ quan quản lý cạnh tranh.
1.2.2.1. Cơ quan quản lý cạnh tranh
Thiết chế quan trọng nhất trong việc đảm bảo thực thi và tiến hành tố tụng cạnh
tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là cơ quan quản lý cạnh tranh.
Cơ quan quản lý cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh là Cục Quản lý cạnh
tranh. Cục Quản lý cạnh tranh có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực
hiện quản lý Nhà nước về cạnh tranh, đồng thời là cơ quan tiến hành tố tụng cạnh
tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ
chức, bộ máy hoạt động và trực thuộc Bộ Công thương. Luật quy định chung về nhiệm
vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh, bao gồm:
1. Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật này;
2. Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng bộ Thương
mại (nay là Bộ Công thương) quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định;
3. Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
4.Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thẩm quyền nàyđã được
cụ thể hóa tại Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh thể hiện trọng tâm ở hoạt động điều
tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và tiến hành thủ
tục tố tụng đối với các vụ liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm cả việc
xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Về bản chất, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi nhằm vào một hoặc một số đối thủ cạnh tranh cụ thể nào
12


đó mà không ảnh hưởng trong phạm vi rộng lớn của thị trường. Hậu quả bất lợi của

hành vi thông thường chỉ xảy ra đối với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, chế tài áp dụng
đối với hành vi này thường là đình chỉ hành vi và bồi thường thiệt hại (nếu có). Tuy
nhiên, thẩm quyền xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh
tranh Việt nam lại không bao gồm bồi thường thiệt hại xảy ra đối các bên liên quan.

13


Cơ cấu bộ máy của Cục quản lý Cạnh tranh
CỤC TRƯỞNG

PHÓ CỤC TRƯỞNG

CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH

CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
Trung tâm thông tin
Trung tâm đào tạo điều tra viên
Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh

CẠNH TRANH

Phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh
Phòng Điều tra và xử lý các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh
Phòng Bảo vệ quyền lợi

BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Phòng Kiểm soát theo mẫu,

điều kiện giao dịch chung
Phòng điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại
của doanh nghiệp trong nước

PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

ĐƠN VỊ TỔNG HỢP

Phòng xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại
của nước ngoài
Phòng hợp tác quốc tế
Văn phòng Cục
Văn phòng Đại diện Cục Quản lý cạnh tranh
tại Đà Nẵng

VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN

Văn phòng đại diện Cục Quản lý cạnh tranh
tại Thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh năm 2013

14


1.2.2.2. Người tiến hành tố tụng cạnh tranh
Người tiến hành tố tụng cạnh tranh là những công chức Nhà nước với chức
danh và thẩm quyền, tham gia vào tố tụng cạnh tranh tại các cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh. Người tiến hành tố tụng cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh và điều tra viên (Điều 75).

Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh là người đứng đầu cơ quan quản lý cạnh tranh,
do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công
thương. Thủ trưởng cơ quản lý cạnh tranh có thẩm quyền tổ chức chỉ đạo cơ quan
quản lý cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Khi tiến hành tố tụng cạnh tranh. Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm
quyền sau:
1. Quyết định phân công điều tra viên điều tra vụ việc cạnh tranh cụ thể;
2. Kiểm tra các hoạt động điều tra của điều tra viên vụ việc cạnh tranh;
3. Quyết định thay đổi, hoặc hủy bỏ quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của điều tra viên vụ việc cạnh tranh;
4. Quyết định thay đổi điều tra viên vụ việc cạnh tranh;
5. Quyết định trưng cầu giám định;
6. Quyết định áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hành chính
khi chưa chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh cho Hội đồng cạnh tranh xử lý;
7. Quyết định điều tra sơ bộ, đình chỉ điều tra, điều tra chính thức vụ việc cạnh
tranh thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh
8. Mời người làm chứng theo yêu cầu của các bên trong giai đoạn điều tra
9. Ký kết luận điều tra vụ việc cạnh tranh do điều tra viên được phân công trình;
10. Chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh đến Hội đồng cạnh tranh trong trường
hợp vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh;
11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Điều tra viên là cá nhân có thẩm quyền trong các hoạt động tố tụng cạnh tranh
của cơ quan quản lý cạnh tranh. Điều tra viên được Bộ trưởng Bộ Công thương bổ
nhiệm theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Tiêu chuẩn để được bổ
nhiệm làm điều tra viên (Điều 52, Luật cạnh tranh) bao gồm:
1. Có phẩm chất đạo đức tốt, trung trực, khách quan;
15


2. Có trình độ cử nhân luật, hoặc cử nhân kinh tế, tài chính;

3. Có thời gian công tác thực tế ít nhất là 05 năm thuộc một trong các lĩnh vực
luật, hoặc kinh tế, tài chính;
4. Đã được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.
1.2.2.3. Người tham gia tố tụng cạnh tranh
Bên cạnh các chủ thể tiến hành tố tụng cạnh tranh còn có những người tham gia
vào hoạt động tố tụng cạnh tranh nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ việc cạnh tranh
được khách quan, công bằng và bảo vệ quyền lợi của các bên có liên quan. Quy định
của pháp luật đối với người tham gia tố tụng cạnh tranh nhằm đảm bảo cho các bên
đương sự trong quá trình tố tụng cạnh tranh có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Người tham gia tố tụng cạnh tranh có thể là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên
quan. Sự tham gia của những chủ thể này về cơ bản giống như sự tham gia của những
nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng… trong tố tụng tại Tòa án. Luật Cạnh tranh quy
định người tham gia tố tụng cạnh tranh bao gồm (Điều 64):
1. Bên khiếu nại;
2. Bên bị điều tra
3. Luật sư
4. Người làm chứng;
5. Người giám định;
6. Người phiên dịch;
7. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Điều đáng chú ý ở đây, người tham gia tố tụng là bên khiếu nại, theo đó tổ
chức, cá nhân cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi
phạm quy định của Luật cạnh tranh ( gọi chung là bên khiếu nại) có quyền khiếu nại
đến cơ quan quản lý cạnh tranh ( Điều 58, Luật cạnh tranh) để có thể bảo vệ quyền lợi
cho mình. Quy định này xác định phạm vi chủ thể được quyền khiếu nại đối với vụ
việc cạnh tranh khá hẹp, các chủ thể không có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
trực tiếp sẽ không được thực hiện quyền này. Về nguyên tắc, một thủ tục tố tụng cạnh
tranh được bắt đầu có thể không nhất thiết cần đến sự khiếu nại của người có quyền lợi
bị xâm hại do hành vi cạnh tranh. Người tham gia tố tụng cạnh tranh phải có mặt theo
giấy triệu tập của Cơ quan quản lý cạnh tranh. Thành phần người tham gia tố tụng

cạnh tranh phụ thuộc vào tính chất của từng vụ việc cụ thể mà khác nhau.
16


Bên khiếu nại. Bên khiếu nại tham gia vào quá trình tố tụng canh tranh có các
quyền và nghĩa vụ sau: Cung cấp chứng cứ; ủy quyền cho luật sự; yêu cầu mời người
làm chứng, trưng cầu giám định, áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính và chịu
trách nhiệm với yêu cầu đó; kiến nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng theo quy định.
Bên bị điều tra. Bên bị điều tra có các quyền đầy đủ như bên khiếu nại ngoại trừ
quyền đề nghị áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính, bởi lẽ, theo tư duy của
nhà làm luật, quyền lợi của bên bị điều tra đang không bị xâm hại.
Luật sư. Luật sư là người có đủ điều kiện tham gia tố tụng theo quy định của
pháp luật về luật sư và được bên khiếu nại, bên bị điều tra, ủy quyền đại diện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo quy định của Luật luật sư được Quốc hội
thông qua ngày 29/06/2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007, luật sư là
người có các điều kiện sau:
Tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật ( tốt nghiệp đại học Luật hoặc khoa Luật
tại các trường đại học);
Có giấy chứng nhận đào tạo nghề luật sư do Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ
Tư pháp và Tổ chức luật sư toàn quốc hoặc do cơ sở đào tạo nghề luật sư của nước
ngoài cấp được Bộ trưởng Bộ Tư pháp công nhận;
Có chứng chỉ hành nghề luật sư được Bộ Tư pháp công nhận đáp ứng đủ tiêu
chuẩn về chuyên môn (có bằng cử nhân luật, đã qua đào tạo nghề luật sư, tập sự hành
nghề luật sư), về đạo đức và có khả năng hành nghề luật sư;
Là thành viên của Đoàn luật sư tại một văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp
danh.
Người làm chứng. Người làm chứng là người có năng lực hành vi dân sự, biết
được các tình tiết có liên quan đến vụ việc cạnh tranh; được cơ quan quản lý cạnh
tranh triệu tập theo đề nghị của các bên liên quan hoặc điều tra viên. Khi tham gia vào

quá trình tố tụng cạnh tranh, người làm chứng có nghĩa vụ khai báo trung thực, được
từ chối khai báo trong trường hợp việc khai báo liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật
đời tư hoặc bất lợi cho người thân thích, Người làm chứng trong tố tụng cạnh tranh có
quyền được nghỉ việc trong thời gian cơ quan quản lý cạnh tranh triệu tập hoặc lấy lời
khai nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hưởng các khoản phí đi lại và
phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về nội dung mình đã cung cấp.
17


Người giám định. Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực
cần giám định được cơ quan quản lý cạnh tranh trưng cầu theo đề nghị của các bên
hoặc của điều tra viên. Giám định có thể được tiến hành dưới hai hình thức: Cá nhân
hoặc tập thể. Người giám định có quyền đọc các tại liệu, đặt câu hỏi với người tham
gia tố tụng liên quan đến đối tượng cần giám định để phục vụ cho công tác giám định,
và có nghĩa vụ đảm bảo bí mật. Người giám định có nghĩa vụ báo cáo bằng văn bản
kết quả giám định.
Người phiên dịch. Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ ngôn ngữ
khác ra tiếng Việt. Người phiên dịch cũng có thể hiểu là người hiểu được những dấu
hiệu của người câm, người điếc.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan là người có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng cạnh tranh với bên khiếu nại
hoặc bên bị điều tra. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng khi họ
tự đề nghị hoặc được bên khiếu nại, bên điều tra hoặc Cơ quan quản lý cạnh tranh đề
nghị. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp này được hiểu là
người tham gia hoặc người bị tác động bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Họ
không là bên khiếu nại cũng không là bên bị điều tra. Nếu họ chỉ có quyền lợi thì họ có
quyền và nghĩa vụ của bên khiếu nại. Nếu họ chỉ có nghĩa vụ thì họ có quyền và nghĩa
vụ của bên bị điều tra. Như vậy, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi tham gia
tố tụng đóng vai trò như một nhân chứng để chứng minh sự tồn tại của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Đồng thời, đảm bảo sự tham gia của họ, cũng có nghĩa đã tạo

thêm hiệu lực cho pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, bất kỳ người nào thực hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đều bị xử lý và mọi chủ thể khi bị xâm phạm bởi hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đều được bảo vệ
1.2.3. Thủ tục tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1.2.3.1 Tổng quan.
Thủ tục tố tụng cạnh tranh là trình tự, các bước tiến hành trong việc giải quyết, xử lý
vụ việc cạnh tranh và các hoạt động kiểm soát hành vi cạnh tranh được thể hiện bởi cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền. Dưới giác độ nghiên cứu, thủ tục tố tụng cạnh tranh bao gồm
tất cả các hoạt động tố tụng của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền liên quan đến giải quyết vụ
việc cạnh tranh và liên quan dến hoạt động kiểm soát cạnh tranh. Các thủ tục tố tụng này
mang đặc điểm của tố tụng tư pháp.
18


Thủ tục tố tụng cạnh tranh về cơ bản trải qua hai trình tự, đó là điều tra và xử lý
vụ việc. Tuy nhiên, mỗi trường hợp cụ thể không nhất thiết phải trải qua hai thủ tục
này, do vụ việc cạnh tranh có thể được kết luận và kết thúc ngay ở giai đoạn điều tra.
Về cơ bản, thủ tục điều tra đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc thẩm
quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh. Đây cũng là điểm khác biệt lớn giữa pháp luật
cạnh tranh Việt Nam so với pháp luật cạnh tranh của nhiều nước khác. Tại các nước có
bề dày lịch sử trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh, thủ tục tố tụng cạnh tranh đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về Tòa án dân sự do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh mang nhiều đặc trưng thuộc lĩnh vực pháp luật dân sự. Tại CHLB
Đức ngay cả đối với hành vi hạn chế cạnh tranh (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng ví trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền), bên có quyền lợi bị vi phạm có thể
trực tiếp kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi bồi thường thiệt bị. Theo
Luật cạnh tranh Việt Nam, đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sau khi điều
tra,thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ ra quyết định xử lý vụ việc.
Trong quá trình điều tra nếu phát hiện có dấu hiệu của việc vi phạm pháp luật
hình sự, vụ việc cạnh tranh được xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền để khởi tố vụ án hình sự. Nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thấy có
căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, vụ việc lại được trả lại cho cơ quan quản lý
cạnh tranh để tiếp tục điều tra theo thủ tục tố tụng cạnh tranh.
1.2.3.2. Điều tra, giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
a) Điều tra vụ việc cạnh tranh
Thủ tục tố tụng canh tranh đối với một vụ việc cụ thể được bắt đầu bằng thủ tục
điều tra sơ bộ. Điều tra sơ bộ là một thủ tục được tiến hành bởi quyết định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh và điều tra viên sẽ được phân công đảm nhiệm,
Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ. Trong thời
hạn này, điều tra viên được phân công điều tra vụ việc cạnh tranh phải hoàn thành điều
tra sơ bộ và kiến nghị thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra quyết định đình chỉ
điều tra, hoặc điều tra chính thức. Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của
điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định sau:
1. Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi
phạm quy định của luật cạnh tranh;
19


×