Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận Môn Lịch sử Đảng Cao cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.38 KB, 14 trang )

1
1. Mở đầu:
Trong những khuôn khổ và mức độ nhất định, việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại đã từng được thực hiện trong lịch sử phát triển
của nhân loại cũng như ở Việt Nam. Nhưng không phải bao giờ nó cũng được
nhận thức một cách đầy đủ và xử lí một cách hợp lý. Sự sùng ngoại hoặc bài
ngoại đều là sai lầm về một nhận thức dẫn đến trì trệ trong phát triển. Lịch sử
Việt Nam từng trải qua những giai đoạn như vậy. Chẳng hạn, sự sùng ngoại
cuối thời Trần, sự bài ngoại cuối thời Nguyễn đã từng làm đất nước rơi vào
tình trạng suy yếu và thất bại trước sự xâm lược của ngoại bang.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và đặc biệt là sự phát triển của cuộc
cách mạng 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến
mọi quốc gia, dân tộc. Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển
được mà lại tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia
nhập vào quá trình toàn cầu hoá, đó chính là đòi hỏi của toàn cầu hoá, nhưng
cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu và cơ hội
đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những yêu cầu, một trong những bài
học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,rút ra những bài học
kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác
quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại”. Nhìn lại 30 năm đổi mới, Báo cáo chính trị
tại Đại hội XII một lần nữa nhấn mạnh bài học: “Kết hợp phát huy sức mạnh


2


dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”.
Nhằm nâng cao nhận thức về bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại và vận dụng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, em lựa chọn
chủ đề "Những nội dung chủ yếu của bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại" làm bài thu hoạch môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, chương trình hoàn chỉnh kiến thức Cao cấp lý luận chính trị.
2. Nội dung:
2.1. Những vấn đề chung về sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại và
cơ sở của bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
2.1.1. Về sức mạnh dân tộc
Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia chính là
tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia đó.
Những lợi thế, những nguồn lực này bao hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội; chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con
người, là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá...
Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực của chúng ta bao gồm cả những nguồn
lực, những tiềm lực tự nhiên và xã hội.
Trên bình diện nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí,
giao thông, có bờ biển dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản,
hải sản, khoáng sản tuy không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, những nguồn lực tự nhiên không phải là vô tận. Do đó, khai thác
tài nguyên cần đi liền với quá trình bảo vệ tự nhiên, phát triển những nguồn
tài nguyên có thể tái tạo để những nguồn lực tự nhiên trở thành nguồn nội lực
bền vững cho xây dựng và phát triển đất nước.
Trên bình diện nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt
văn hoá và con người. Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí


3

trung tâm của phát triển; bởi con người với những sức mạnh về văn hoá,
chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của
sự khai thác, huy động và hợp nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.
Giá trị, tinh hoa văn hoá Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh
tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Cùng với những giá trị văn
hoá, con người là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự
phát triển đất nước. Sức mạnh con người không đơn thuần chỉ biểu hiện ở
từng cá nhân; nó còn biểu hiện ở sức mạnh tập thể, cộng đồng. Trong điều
kiện hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường và toàn cầu hoà, sự phân
hoá các tầng lớp, phân hoá giàu nghèo ngày một gia tăng, xuất hiện nhiều
nhóm lợi ích khác biệt, đôi khi đối lập nhau. Vì vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc
trong giai đoạn hiện nay phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội.
Tóm lại, sức mạnh dân tộc là tập hợp các yếu tố vật chất và tinh thần,
song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân
tộc, ý chí kiên cường, anh dũng đấu tranh vì độc lập tự do, ý thức tự lực, tự
cường dân tộc. Do đó, sức mạnh dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển của một dân tộc.
2.1.2. Về sức mạnh thời đại
Trong điều kiện hiện nay, sức mạnh thời đại rất đa dạng, bao hàm các
nguồn lực vật chất như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, công nghệ cùng các
kiến thức, kinh nghiệm quản lý, những giá trị văn hoá tinh thần... của các dân
tộc khác, của thời đại nói chung. Những nguồn lực thuộc về vốn, công
nghệ... là những cái mà chúng ta còn thiếu hoặc hạn chế. Bởi thế, tiếp nhận
những nguồn ngoại lực này là điều cần thiết và dễ hiểu. Vấn đề là làm sao để


4

tăng cường được sự tiếp nhận cũng như sử dụng được một cách hiệu quả
những nguồn lực đó. Tức là cần tận dụng tối đa ngoại lực, sức mạnh thời đại
phục vụ cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên
cạnh những nguồn lực thuộc về lĩnh vực vật chất, thì những giá trị tinh thần
mà nhân loại đạt được, những giá trị được coi là thành quả của xã hội hiện đại
nghĩa là những sức mạnh thời đại, cũng là nguồn ngoại lực cần thiết, quý giá
mà chúng ta cần tiếp thu.
Trong số những giá trị mang tính quốc tế, thời đại, tinh thần sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật, tính tích cực về mặt xã hội của công dân,
tính chuyên nghiệp của hoạt động nghề nghiệp, ý thức sinh thái, cùng nhiều
giá trị khác nữa là những giá trị, những sức mạnh đặc trưng cho thời đại mà
chúng ta còn yếu hoặc thiếu; và do đó, cần học tập, tiếp thu để bổ sung, làm
phong phú bảng giá trị tinh thần của xã hội Việt Nam - động lực, nguồn lực
tinh thần của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, sức mạnh thời đại là khái niệm chỉ các thành tựu, thắng lợi do
con người sáng tạo ra, đạt được theo quy luật vận động và phát triển của xã
hội loài người, theo đó, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhạy bén, sáng tạo kết hợp các yếu tố của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt
Nam. Do đó, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong
những bài học kinh nghiệm quý báu trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta.
2.1.3. Cơ sở của bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Mục tiêu của phong trào cộng sản quốc tế không chỉ vì giải phóng bản
thân giai cấp công nhân, mà còn và trước tiên là giải phóng dân tộc, tiến tới
giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản văn minh. Nhận rõ bản chất quốc tế của sự


5

nghiệp cách mạng vô sản, khi viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và
Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Sang đầu thế kỷ XX, khi “chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành một hệ
thống có tính chất toàn thế giới của một nhúm nhỏ các nước “tiên tiến” đi áp
bức thuộc địa và dùng tài chính để bóp nghẹt đại đa số nhân dân thế giới”, V.I.
Lênin chỉ rõ “cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là
một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cách mạng ở từng nước chống lại giai
cấp tư sản ở nước mình; không phải thế, đó sẽ là cuộc đấu tranh của tất cả các
thuộc địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các
nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc quốc tế”. Sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười, Lênin thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới. Mặc dù đối lập chủ nghĩa tư bản với
chủ nghĩa xã hội trên nhiều phương diện, phê phán triệt để nhiều khiếm
khuyết của chủ nghĩa tư bản, nhưng Lênin vẫn sáng suốt khẳng định: “Phải
tiếp thu toàn bộ nền văn hóa do chủ nghĩa tư bản để lại và dùng văn hóa đó để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa học kỹ thuật, tất cả
những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có những cái đó, chúng ta không
thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản được”.
Thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận
thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố thời đại, nhân tố quốc tế đối với
cách mạng Việt Nam. Hệ thống quan điểm của Người về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại chứa đựng nhiều nội dung quan trọng. Ngay từ
những ngày đầu của hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định: “Cách mạng An Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm
cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”. Phải giáo
dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân lao động


6

nước mình, làm cho tinh thần yêu nước là một bộ phận của tinh thần quốc tế.
Người kêu gọi: “vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị
bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức và thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, kết hợp chặt chẽ giữa phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của các lực lượng hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện các mục tiêu cách mạng.
Như vậy, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng với thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo
chứng minh đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
là một nhân tố hết sức cần thiết góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách
mạng; là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Nội dung, nguyên tắc của bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại
2.2.1. Kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế
Từ khi thành lập đến nay, Đảng luôn kết hợp và thường xuyên chăm lo
giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế hệ người Việt Nam đã
tiếp tục đi theo con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trải qua, từ chủ nghĩa
yêu nước chân chính tiến lên giác ngộ giai cấp và đoàn kết quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tinh thần yêu nước chân chính khác
với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của
tinh thần quốc tế”. Đảng nhận thức rằng, không có tinh thần yêu nước chân


7

chính thì không thể có lập trường quốc tế đúng đắn. Trái lại, không có lập
trường quốc tế đúng đắn thì không thể có được đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn. Đó là hai mặt thống nhất của đường lối cách mạng. Đảng luôn tìm
thấy sự thống nhất đó, do đó, cách mạng nước ta có một sức mạnh to lớn,
vượt qua mọi trở lực, chiến thắng kẻ thù.
Mục tiêu của đoàn kết quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài và tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế cao nhất đối với cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất, đẩy lùi và làm thất bại
những âm mưu và hành động của các thế lực chống lại cách mạng nước ta. Đó
là vì lợi ích chân chính của dân tộc ta. Song đoàn kết quốc tế còn có mục tiêu
ủng hộ lợi ích chân chính của các dân tộc khác, đoàn kết với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân các nước, phù hợp với điều kiện và khả năng thực
tế của đất nước và nhân dân ta. Mục tiêu đoàn kết quốc tế đòi hỏi phải giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, kết
hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp với
vấn đề dân tộc trong hoạt động đối ngoại.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa vị
kỷ; không vì lợi ích của dân tộc mình mà làm hại đến lợi ích riêng của các dân
tộc khác. Chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân tộc lớn, kỳ thị dân
tộc là điều kiện quan trọng để quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề giai
cấp và dân tộc, vấn đề dân tộc và quốc tế. Đó cũng là điều kiện quan trọng để
giữ vững, tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa các nước trên thế giới, các nước
trong khu vực cũng như ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Kết hợp nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương


8

đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các
phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc, các quốc gia và lực lượng
hoà bình tiến bộ khác, vì những mục tiêu chung: hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Luôn luôn trung thành với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân trên cả nhận thức lẫn hành động, Đảng và nhân dân Việt
Nam không chỉ tranh thủ sự ủng hộ to lớn của quốc tế, mà còn có những đóng
góp xứng đáng vào các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới và xây
dựng đoàn kết hợp tác giữa các nước.
2.2.2. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trên cơ sở
nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
Độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quyết định thắng lợi của cách
mạng ở mỗi nước. Cuộc đấu tranh của nhân dân mỗi nước vì lợi ích dân tộc
mình phải do nhân dân nước đó tự thực hiện. Đảng cộng sản, Đảng cách
mạng ở mỗi nước, trước hết, phải chịu trách nhiệm đối với vận mệnh của
nhân dân nước mình, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, qua đó,
góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do đó, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ,
vận dụng và phát triển một cách đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin vào những điều kiện cụ thể của đất nước mình để
định ra đường lối, chính sách đúng và phát huy tiềm năng, trí tuệ, sức mạnh
của dân tộc để giành thắng lợi.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Việt Nam thường phải đương đầu với
những kẻ thù lớn mạnh, có khi cùng một lúc với nhiều kẻ thù với tiềm lực
kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật mạnh hơn gấp nhiều lần. Trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội
vốn là thuộc địa, phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, sản xuất nhỏ, đất nước lại trải qua mấy chục năm chiến
tranh, hậu quả rất nặng nề.



9
Thực tiễn đất nước và mục tiêu cách mạng đòi hỏi phải phát huy cao độ
sức mạnh dân tộc, đồng thời, tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, giành độc lập tự do và
xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc trên cơ sở nguyên tắc tự lực, tự cường,
phát huy nội lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Sự giúp đỡ cho ta của các nước
bạn cũng chỉ có hạn, căn bản là ta phải tự lực cánh sinh, cố gắng sản xuất.
“Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Giữ vững
đường lối độc lập, tự chủ, nâng cao tinh thần tự lực, tự cường là tư tưởng lớn
xuyên suốt quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự giúp đỡ quốc tế là rất to lớn, quan trọng, là yếu tố không thể thiếu đối
với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Song độc lập tự chủ, tự lực, tự cường
và tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế là hai mặt thống nhất trong
đường lối chiến lược nhất quán của Đảng. Thực tế khẳng định bài học kinh
nghiệm lịch sử của Đảng là khi nào chúng ta độc lập suy nghĩ, xuất phát từ
thực tiễn của đất nước và tôn trọng quy luật khách quan trong việc xác định
các chủ trương hành động thì lúc đó cách mạng giành được thắng lợi, đóng
góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của thế giới; ngược lại, lúc nào chủ
quan, duy ý chí hoặc giáo điều, máy móc, sao chép cách làm của nước ngoài
thì lúc đó cách mạng gặp khó khăn, sai lầm, tổn thất.
2.2.3. Nắm bắt xu thế quốc tế, tận dụng thời cơ
Việc theo dõi, đánh giá diễn biến và dự báo chiều hướng phát triển tình
hình thế giới và khu vực, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, những
thay đổi trong chính sách của các nước, nhất là nước lớn đối với nước ta có ý
nghĩa rất quan trọng. Mục đích là thấy rõ thuận lợi và khó khăn, cơ hội và



10
thách thức để có chính sách chung và thái độ đúng với từng nước và từng loại
nước, giành thắng lợi quyết định trong từng giai đoạn cách mạng. Ngược lại,
khi không dự báo đúng thời cuộc, không thấy rõ và tận dụng thời cơ thì hoặc
là bất ngờ hoặc là bỏ lỡ thời cơ.
Kinh nghiệm của Đảng ta cho thấy các điều kiện chủ yếu để dự báo,
nắm bắt thời cơ là: có tư duy độc lập và quan điểm khách quan, khoa học;
nắm được quy luật chung, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế; tiếp
cận kịp thời, chính xác và khai thác các nguồn thông tin từ nhiều phía, phân
tích, dự báo và sửa đổi dự báo khi tình hình thay đổi; quán triệt đường lối đối
nội, đối ngoại trong từng giai đoạn; biết tập hợp lực lượng rộng rãi.
Trong chỉ đạo xây dựng đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng đã tìm thấy sự
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế. Trên cơ sở đường lối chiến
lược đúng, nắm vững mục tiêu chiến lược lâu dài, Đảng đề ra mục tiêu cụ thể
trước mắt phù hợp với mục tiêu cách mạng thời đại.
Trong cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945), Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã theo dõi sát sao diễn biến của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ
hai và phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là những bước tiến của Hồng
quân Liên Xô, từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối với những quyết định
sát đúng, kịp thời và tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để tận dụng thời
cơ thực hiện tổng khởi nghĩa thắng lợi (8/1945).
Trong lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác dự báo
chiến lược, tạo ra và nắm thời cơ để giành thắng lợi từng bước ở chiến trường
cũng như trên trường quốc tế tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là một
quá trình theo dõi và phân tích một cách khoa học những biến động của tình
hình thế giới, của nước Mỹ, của thực tế chiến trường cũng như những âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Đảng có được những quyết sách chính xác, táo bạo
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”.



11
Đến cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa rơi vào trì
trệ và khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau đó, các nước đã tiến hành cải cách, cải
tổ. Cải cách, cải tổ đã trở thành xu thế của thời đại đối với các nước xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam đã thực hiện đổi mới - yêu cầu cấp bách, sự sống còn của sự
nghiệp cách mạng. Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Mặc dù hiện tại vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng có thể khẳng định rằng,
nếu chúng ta biết học tập, vận dụng sáng tạo bài học thành công về nhìn nhận
thời cơ và chớp thời cơ; nếu chúng ta biết phân tích, dự báo tình hình trong
nước và thế giới trên cơ sở khách quan, khoa học, để xác định được nhân tố
thuận lợi nảy sinh trong khó khăn, thách thức và quyết tâm, đoàn kết, tận
dụng, tranh thủ được thời cơ... chắc chắn sẽ vượt qua mọi thách thức, tiếp tục
tiến lên, vững bước trên con đường đổi mới.
2.3. Vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong giai đoạn hiện nay
Trong những năm tới, nhu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại tiếp tục được đặt ra một cách cấp thiết và phải được triển khai trong
bối cảnh mới, vừa nhiều cơ hội, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức.
Rất cần xác định kịp thời đâu là những vấn đề lớn về sức mạnh dân tộc, sức
mạnh thời đại và việc kết hợp chúng với nhau thành động lực thúc đẩy công
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện
nay, sứ mệnh lịch sử của Đảng là lãnh đạo nhân dân kết hợp được sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, xây dựng được một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên phương diện củng cố sức mạnh dân tộc, vấn đề lớn nhất chính là
nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, tiếp tục tụt hậu về trình độ phát triển
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vấn đề lớn thứ hai liên quan



12
đến các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nội chính... Chúng ta chưa xác lập được một
hệ thống chuẩn giá trị con người, giá trị xã hội đủ sức mạnh tập hợp, động viên
mọi nguồn lực tạo thành một động lực đồng tâm, đồng thuận phục vụ công
cuộc chấn hưng dân tộc, kiến thiết quốc gia hiện đại. Tham nhũng, lãng phí,
suy thoái của cán bộ, đảng viên còn nghiêm trọng, làm nản lòng không ít tầng
lớp nhân dân và triệt tiêu nhiều sức mạnh, động lực. Nhiều bức xúc xã hội chưa
rõ phương hướng giải quyết, trong đó có sự lúng túng trong xây dựng nền giáo
dục, y tế, văn hóa, đạo đức... của một quốc gia xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
kinh tế thị trường. Mô hình, cơ chế, giải pháp phát huy dân chủ và củng cố kỷ
cương trong Đảng và toàn xã hội trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền
còn nhiều vướng mắc. Những trở ngại này, đang làm suy giảm sức mạnh dân
tộc, sức mạnh nội sinh; và trong tình huống bất trắc xảy ra, sẽ tạo nên hiểm họa
lớn từ bên trong, nếu không được nhận thức và xử lý kịp thời.
Trên phương diện quốc tế, bất lợi, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam
chính là quá trình điều chỉnh chiến lược của các nước lớn theo xu hướng
chung là ưu tiên lợi ích quốc gia dân tộc, sẵn sàng thỏa hiệp một cách hết sức
thực dụng, bấp chấp lợi ích, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các
nước khác có liên quan. Trong thực trạng này, mặc dù nước ta có hệ thống các
mối quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, nhưng chưa đủ chiều sâu, sự ổn
định, tính vững chắc. Tình hình càng như vậy đối với hàng chục mối quan hệ
đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân từ
phía các bạn và cả từ phía chúng ta, sự quan tâm, ủng hộ, sẵn sàng hành động
vì Việt Nam của cộng đồng quốc tế đương đại là rất khiêm tốn và có nhiều
giới hạn, nếu so sánh với các thời kỳ đấu tranh cách mạng trước kia.
Để phát huy bài học kinh nghiệm mang tính quy luật của cách mạng Việt
Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế trong tình hình mới, rất cần thống nhất, nhất quán
một số định hướng cơ bản:



13
Thứ nhất, phải luôn đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết, với nội
hàm cụ thể hiện nay là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, bảo vệ vững chắc độc lập và chủ quyền quốc gia. Đây là cơ sở hàng
đầu để Đảng, Nhà nước và nhân dân quyết định những vấn đề đối nội, đối
ngoại trọng đại của đất nước.
Thứ hai, phải kế thừa tinh thần “đem sức ta tự giải phóng cho ta”, phải
biết “tự lực cánh sinh”, tự lực, tự cường. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội
sinh là yếu tố quyết định; sức mạnh thời đại, quốc tế, sức mạnh bên ngoài là
yếu tố quan trọng, chỉ có tác dụng và hiệu quả khi sức mạnh bên trong được
chuẩn bị kịp thời, đầy đủ.
Thứ ba, phải phòng chống mọi biểu hiện tuyệt đối hóa. Không được thần
thánh hóa sức mạnh dân tộc mà xem nhẹ sức mạnh thời đại, coi việc tìm kiếm
những nguồn lực quốc tế là sự lệ thuộc vào nước ngoài, là dẫn tới mất độc
lập, mất bản sắc trong phát triển, từ đó dẫn tới bảo thủ, biệt lập và nhất định
sẽ đi đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Cũng không được xem nhân tố quốc tế
như cứu cánh cho mọi vấn đề, dẫn tới xem nhẹ sức mạnh dân tộc, lãng phí
nhiều lợi thế nội sinh, vô tình bỏ rơi nhiều di sản quý báu cho sự hưng thịnh
của đất nước hiện nay.
3. Kết luận:
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh
tổng hợp đưa cách mạng đi đến thắng lợi là một nội dung lớn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh và là một trong những bài học kinh nghiệm lớn được rút ra
trong hơn 85 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Giá trị của bài học quý
báu này đã, đang và sẽ rất cần được tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo
trong thực tiễn hiện nay. Giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu tranh
gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta



14
cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục
vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Do đó, phải giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có được niềm
tin về lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi.
Cần phải xử lý nghiêm minh công bằng đối với những hành vi vi phạm pháp
luật làm suy thoái tư tưởng băng hoại đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà
không được chệch hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp
phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Tóm lại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế là vấn đề chiến lược, quyết định thành bại
của sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung và
phương thức kết hợp phải được xác định phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Trong tình hình hiện nay, cần kế thừa thành tựu, kinh nghiệm của các thời kỳ
trước kia; đồng thời, cần bám sát yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ, lợi ích của
quốc gia dân tộc và các xu thế vận động của thế giới đang đổi thay để bảo
đảm cho Việt Nam có được sức mạnh tổng hợp to lớn nhất, vững bước trên
con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
4. Tài liệu tham khảo:
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII - Báo Điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.




×