I. PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Cơ sở lý luận
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một sự đổi
mới tư duy đúng đắn của Đảng dựa trên cơ sở lý luận khoa học trong tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Đảng ta xác định, sau 30 năm xây dựng CNXH dựa vào và thông qua cơ chế
thị trường, cuộc tranh luận thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn tiếp
tục. Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước XHCN ở Đông và Trung Âu đồng
nghĩa với sự sụp đổ của mô hình CNXH dựa trên nền tảng chế độ sở hữu -công hữu
đơn nhất và cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Khi mô hình hiện thực sụp đổ, sự hoài
nghi cơ sở lý luận chính thống của nó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là không thể tránh
khỏi. Sự hoài nghi càng rõ khi thực tiễn chọn một cách thức dường như trái ngược,
đã từng bị phủ nhận để thực thi CNXH: cách thức thị trường. Đây là lý do nảy sinh
một khoảng trống lý luận trong việc giải thích xu hướng thực tiễn trái với tư duy
thông thường. Điều này tạo ra một rào cản vô hình nhưng rất khó vượt qua đối với
các ý định xây dựng một lý luận mới giải thích và dự báo thực tiễn đổi mới, cái đã
và đang vượt qua lý luận cũ.
Tuy nhiên, việc vượt qua rào cản lý luận này, về nguyên tắc, không có gì
phức tạp. Vì cơ sở lý luận đó đã có sẵn, lại có sẵn trong chính chủ nghĩa Mác. Việc
không thay được một phần vì thiếu một điều kiện tiên quyết: thái độ lý luận rõ ràng
đối với 2 cách lập luận của Mác và của Lê-nin về mô thức chuyển biến sang CNXH
và xây dựng CNXH.
Trong khuôn khổ lý luận về CNXH về mặt kinh tế, việc nhập các luận điểm
khoa học của Mác và Lê-nin thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách đơn giản đôi
khi gây ra sự ngộ nhận. Có hai điểm cần được thừa nhận:
Mác và Lê-nin chưa xây dựng được một hệ thống lý luận về nền kinh tế
XHCN theo đúng nghĩa hệ thống. Cái có được chỉ mới là những lập luận, suy luận
lô-gic, những dựđoán khoa học và một số đường nét phác họa cụ thể, chưa đầy đủ
về triển vọng của nền kinh tế và chế độ xã hội mới. Trong sự tiếp tục phát triển lý
luận về CNXH ở các thế hệ mác-xít sau này, việc "đóng đinh" niềm tin vào một
trạng thái lý luận chưa đầy đủ như vậy, tưởng tượng nó thành một hệ thống lý luận
hoàn chỉnh, giống như hệ thống lý luận về CNTB mà Mác đã xây dựng, trên cơ
sởđó, biến nó thành một hệ thống giáo điều, bao gồm các nguyên lý mang tính chân
lý hầu như bất biến chứa đựng những nguy cơ lớn trong nhận thức và hành động.
Về con đường đi lên CNXH, Mác và Lê-nin đưa ra hai phương án khác nhau.
Về nguyên tắc, Mác cho rằng chỉ khi nền kinh tế thị trường phát triển đến tột bậc
(với Mác, điều đó cũng có nghĩa là khi CNTB phát triển đến tận cùng[1] thì quá
trình chuyển biến sang CNCS (CNXH) mới diễn ra như một tất yếu. Lê-nin lại
không nghĩ như vậy. Ông cho rằng quá trình chuyển biến sang CNXH và CNCS có
thể thành công cảở những, thậm chí một nước lạc hậu; rằng mô hình kế hoạch hóa
tập trung dựa trên chế độ công hữu thuần nhất -đơn nhất về tư liệu sản xuất là cái có
thể áp dụng hiệu quảở một nền kinh tế kém phát triển, chưa trải qua thị trường trong
giai đoạn quá độ lên CNXH[2].
Giữa Mác và Lê-nin rõ ràng có một sự khác biệt nhất định trong việc nhận thức
về tính tất yếu, về phương thức (con đường) và nội dung kinh tế của quá trình đi lên
CNXH. Và đây là một điều bình thường trong khoa học, trong việc nhận thức thế
giới khách quan trong trạng thái vận động liên tục của nó.
Tuy có hai quan điểm khác nhau như vậy nhưng từ Cách mạng Tháng Mười
Nga đến nay, hầu như chỉ ngự trị quan điểm của Lê-nin với tư cách là quan điểm
chính thống duy nhất và là quan điểm chung cho chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong khuôn cảnh như vậy, việc nêu lại quan điểm của Mác có hàm ý rằng đối
với những nền kinh tế chưa từng trải qua thị trường hoặc thị trường chưa phát triển
hết mức, để đi lên nấc thang cao hơn của lịch sử, việc "trở lại", "xuyên qua" thị
trường là bắt buộc; rằng trong quan hệ lý luận, điều đó không có gì mới so với chủ
nghĩa Mác. Đó chỉ là sự trở lại Mác đích thực chứ không phải mác xít một cách trừu
tượng, chung chung.
Sự phân biệt Mác và Lê-nin trong quan niệm về cách thức đi lên CNXH hàm
nghĩa sự thừa nhận rằng căn gốc lý luận của công thức phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay đã có sẵn trong chính học thuyết
Mác, trong các luận điểm cụ thể, rất xác định của ông chứ không phải của một ai
khác, của một cái gì chung chung khác. Nhưng cũng phải nói rõ rằng đây chỉ là gốc
rễ lý luận sâu xa. Mác chưa hề trực tiếp viết và nói như vậy. Còn đối với Lê-nin, với
"Bàn về thuế lương thực", Ông cũng cho rằng phải thay đổi cách thức xây dựng
CNXH, phải phát triển các quan hệ thị trường như một tất yếu. Ông đã đề cập trực
diện đến vấn đề này trong Chính sách kinh tế mới (NEP) nổi tiếng cũng nhưẩn ý
đằng sau luận điểm "thay đổi hoàn toàn nhận thức về CNXH" được nêu lúc cuối
đời[3].
Theo lập luận đó, có cơ sở để khẳng định việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN hay xây dựng CNXH thông qua kinh tế thị trường không hề là
việc đi ngược lại học thuyết Mác, là sự phá sản của chủ nghĩa Mác. Trái lại, nó đơn
giản chỉ là thực hiện đúng logic phát triển tự nhiên mà Mác đã phát hiện và lịch sử
loài người đã trải qua. Tất nhiên, đây không phải là sự trở lại Mác và Lê-nin nguyên
xi, bất biến. Lịch sửđã vượt xa các điều kiện phát triển thời Mác và Lê-nin[4].
2. Về mối quan hệ giữa thị trường và định hướng XHCN
Mục đích của CNXH là phát triển, bao hàm phát triển con người. Kinh tế thị
trường là phương thức có hiệu quả để đạt được phát triển. Theo nghĩa đó, thị trường
và định hướng XHCN là đồng hướng (cùng véc-tơ) lịch sử chứ không phải là nghịch
lý.
Nói phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nghĩa là thừa nhận
kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của quá trình chuyển biến lên CNXH. Do vậy, nó
là "bản nguyên" thứ nhất của quá trình xây dựng CNXH về mặt kinh tế.
Khi thừa nhận như vậy, để định hướng quá trình phát triển theo hướng XHCN,
trước hết phải bảo đảm cho thị trường phát huy hiệu quả tối đa. Phát triển mạnh kinh
tế thị trường trong giai đoạn xây dựng CNXH chính là thực hiện định hướng XHCN
một cách thực chất nhất.
Có nghĩa là mọi sự bàn luận về phát triển trong giai đoạn quá độ lên CNXH,
trong thời kỳ xây dựng CNXH, trước hết phải là bàn luận để phát triển kinh tế thị
trường, trên cơ sởđó, mới bàn đến cái khác (định hướng XHCN là một trong những
cái khác này). Nếu trật tự bàn luận khác đi, nghĩa là lộn ngược lô-gic của sự vật.
Song, định hướng XHCN có những nội dung vượt ra ngoài thị trường. Một số
đặc trưng phát triển XHCN vượt ra bên ngoài, lên cao hơn những kết quả do thị
trường mang lại, kể cả những kết quả tích cực. Chúng không hoàn toàn và không tự
động tương hợp với thị trường. Công bằng và bình đẳng trong phát triển, quyền của
người dân, tức là dân chủ, vượt lên trên quyền dân chủ đo bằng đồng đô la (bỏ phiếu
bằng tiền) là những thứ như vậy. Do đó, trong quá trình xây dựng CNXH, tức là quá
trình phát triển theo định hướng XHCN, ngoài việc phát triển kinh tế thị trường và
trên cơ sở thị trường, còn phải nỗ lực khắc phục những thất bại của thị
trường (khuyết tật) và đạt tới một số mục tiêu mà tự thị trường không định hướng
tới (phúc lợi xã hội, phục vụ người nghèo, v.v., nghĩa là bảo đảm phát triển bền
vững).
Từ các lập luận đó, có thể tóm tắt mục tiêu của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN đơn giản và rõ ràng như thế này được chăng: hiệu quả kinh tế, dân
chủ và công bằng (hàm ý phúc lợi xã hội và phục vụ người nghèo[5]?
3. Những yếu tố nào quyết định tiến trình phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN? Hai yếu tố chủ yếu là thị trường và nhà nước. Đây là hai cơ cấu
quyền lực lớn nhất (bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình), có vai trò dẫn dắt sự phát
triển của nền kinh tế. Do vậy, trọng tâm của việc bàn luận về quá trình chuyển đổi
kinh tế, về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bàn về mối quan hệ
nhà nước - thị trường, bàn về cơ chế phối hợp các hoạt động chức năng của hai lực
lượng cơ chế này sao cho quá trình thực tiễn đạt được các mục tiêu hiệu quả, dân
chủ và công bằng.
Nếu tiến sâu hơn nữa, có thể nói hạt nhân của sự bàn luận đó là vấn đề nhận
thức và hành động của nhà nước - lực lượng chủ thể, quyền lực và có ý thức của cơ
chế, của sự phối hợp nhà nước - thị trường[6].
Trong giai đoạn chuyển đổi, việc thị trường có phát triển được không, có thực
hiện định hướng phát triển một xã hội dân chủ và công bằng hay không tùy thuộc
quyết định vào cách nhà nước giải quyết mối quan hệ chức năng nhà nước - thị
trường.
Cụ thể cần làm rõ nhà nước phải: i) Xây dựng hệ thống thể chế thị trường (hệ
thống thị trường yếu tố); ii) Đổi mới cơ cấu sở hữu, hình thành cấu trúc chủ thể của
nền kinh tế thị trường; iii) Xây dựng cơ chế kinh tế thị trường, trong đó, khâu trọng
tâm là phân định chức năng nhà nước và thị trường;
4. Quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam 30 năm qua cho thấy:
Thực tiễn từ khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường và phát triển kinh tế
thị trường , đã được khẳng định.
Hầu như mọi nội dung cải cách cụ thể đều đã được "đụng" tới. Nhiều thành tích
đạt được là ngoạn mục. Nhưng dở dang, kém hiệu quả còn rất nhiều. Kết quả phát
triển thu được nhiều nhưng tổn thất cũng rất lớn; chất lượng tăng trưởng và phát
triển thấp, năng lực cạnh tranh - yếu tố sống còn của doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế - rất yếu kém và chậm được cải thiện;...
Có thể thấy đây là hậu quả của cách làm nửa vời, ra thật nhiều quyết định,
muốn đồng thời đạt được thật nhiều mục tiêu, trong khi thiếu điều kiện thực thi,
không tính kỹ đến điều kiện bảo đảm thực thi, nhất là điều kiện bộ máy và con
người (năng lực thực thi) khi ra quyết định và chọn mục tiêu. Nền kinh tế nhiều khi
lâm vào tình trạng "đánh trống bỏ dùi". Vốn ít nhưng bày ra nhiều công trình, mỗi
công trình lại rất tốn vốn. Kết cục là dở dang hầu nhưở tất cả những việc đặt ra để
làm và hậu quả để lại rất lớn. Như vậy rõ ràng nền kinh tế thị trường không vận
hành tốt, hiệu quả thấp nên định hướng XHCN cũng khó thực hiện.
Nguyên nhân lý luận của thực tế này là do chủ thuyết (chứ không chỉ là ý đồ và
quyết tâm) phát triển kinh tế thị trường chưa được định; do bản chất và logic phát
triển kinh tế thị trường chưa thông ở nhiều tầm, nhiều cấp và do cách hiểu về mối
quan hệ giữa bản nguyên thứ nhất (phát triển kinh tế thị trường) với bản nguyên thứ
hai (định hướng XHCN) trong chiến lược phát triển kinh tế không thật hợp lý. Vì
vậy, sau 30 năm phát triển kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa thể nói thật tự tin
rằng chức năng nhà nước - thị trường đã được phân định rõ, hệ thống thị trường đã
phát triển đồng bộ, còn cơ cấu sở hữu đã phát triển đúng trên nền tảng thị trường
bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Về vấn đề xây dựng hệ thống thể chế thị trường. Đại hội IX của Đảng đề ra
mục tiêu hình thành và phát triển đồng bộ hệ thống thể chế thị trường với tư cách là
sự đột phá chiến lược. Đây là một định hướng chiến lược đúng, đáp ứng đòi hỏi
đang ngày càng gay gắt của thực tế.
Tuy nhiên, bước tiến theo hướng này thực sự là rất chậm. Hệ thống thể chế thị
trường hình thành và phát triển lệch pha và lệch nhịp nhau. Bằng chứng: thị trường
bậc cao nhất (thị trường chứng khoán) ra đời trong khi thị trường các yếu tố đầu vào
cơ bản nhất (thị trường đất đai, thị trường lao động) hãy còn chưa được thừa nhận
chính thức;... Kết cục là thị trường không thể vận hành hiệu quả, trong khi nước ta là
nước đi sau rất lâu trong phát triển kinh tế thị trường so với các nước khác. Có hai
nguyên nhân lớn:
Thứ nhất, chưa nhận thức đúng và đầy đủ bản chất, nguyên tắc và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường, do vậy, chưa hiểu rõ thực chất và vai trò của tính
đồng bộ hệ thống và trật tự bước đi của quá trình hình thành các thể chế kinh tế thị
trường.
Thứ hai, thái độ hoài nghi thị trường vẫn còn nặng, cách tiếp cận đến kinh tế thị
trường định hướng XHCN vẫn bị chi phối quá mạnh bởi thiên kiến tư tưởng (ví dụ
đặt vấn đề bản chất TBCN của thị trường chứng khoán).
Không vượt qua được những điểm yếu căn bản đó trong tư duy, trong nhận
thức thì quá trình chuyển sang thị trường và phát triển kinh tế thị trường chắc chắn
còn gặp nhiều ách tắc.
Về cấu trúc sở hữu, vấn đề mấu chốt của một chế độ kinh tế. Việc thừa nhận
nền kinh tế nhiều thành phần rõ ràng là một bước tiến căn bản. Song không đủ và
đang ngày càng trở nên rất không đủ để có thể giải thích đúng thực tiễn kinh tế Việt
Nam hiện nay và tạo thành cơ sở lý luận cho sự phát triển của nền kinh tế hiện thực.
Các biểu hiện quan trọng là:
Sự kỳ thị thực tiễn đối với các thành phần còn rất nặng, thể hiện ở môi trường
kinh doanh, ởđiều kiện tiếp cận đến các nguồn lực và điều kiện phát triển.
Dành phần "cấm địa" cho khu vực kinh tế nhà nước bằng hàng loạt ưu đãi,
nhất là trong giai đoạn khủng hoảng - kích cầu. Từđó tạo thành những nhóm lợi ích
mạnh có khả năng thao túng chính sách và hành động của nhà nước. Cơ chế cạnh
tranh bình đẳng - nguyên lý tối cao của kinh tế thị trường, vì thế, bị vi phạm, bị coi
thường.
Kết quả là tăng trưởng thấp xa mức tiềm năng, sự gia tăng nạn tham nhũng,
mức độ nhất quán thấp, nghiêng mạnh về đối phó tình huống thay vì tầm nhìn dài
hạn trong định hướng chính sách vĩ mô. Căn gốc vấn đề là ởđâu?
Đầu tiên là từ quan niệm "thành phần" vẫn còn quá nặng; không hiểu một cách
triệt để và thực tiễn bản chất bình đẳng, tự do của tất cả các chủ thể thị trường khi
tham gia cuộc chơi phát triển trong môi trường thị trường. Đặc biệt, thái độ không
triệt để trong việc nhìn nhận vai trò then chốt của chế độ sở hữu tư nhân trong nền
kinh tế thị trường.
Từ việc giữ nguyên mong muốn đơn giản xây dựng một nền kinh tế có hệ
thống sở hữu XHCN thuần khiết ngay cả trong thời kỳ quá độ, kể cả quá độ được
thực hiện thông qua kinh tế thị trường.
Từ cách hiểu cứng nhắc, đơn giản và trừu tượng về cái gọi là vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước (của khu vực DNNN hay của nhà nước vẫn còn chưa rõ,
thường bị lẫn lộn).
Trong khuôn khổ vấn đề về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, một vấn đề lý luận then chốt đặt ra là liệu có sự nhất quán giữa nguyên tắc
sở hữu XHCN đối với tư liệu sản xuất, trong đó kinh tế nhà nước (hay DNNN) phải
đóng vai trò chủ đạo với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thị trường hay không.
Về mặt thực tiễn, cần lưu ý rằng: khu vực kinh tế chủ đạo hiện đang chỉ bảo
đảm việc làm cho 2/40 triệu người lao động và hầu như không tạo việc làm mới nào.
Trong khi đó, khu vực tư nhân đang là lực lượng bảo đảm việc làm và tạo việc làm
mới cho người lao động[7]. Khu vực nhà nước có tỷ trọng nhỏ bé trong nông
nghiệp; trong công nghiệp, tỷ trọng của khu vực nhà nước cũng chỉ khoảng 40%
nhưng tốc độ tăng trưởng không cao hơn khu vực tư nhân và FDI. Đối với lĩnh vực
dịch vụ, khu vực tư nhân nói chung chiếm tỷ trọng áp đảo, nhất là trong các ngành
giao thông - vận tải, xây dựng, thương mại, du lịch. Ngoài ra, cùng với quá trình cổ
phần hóa, tỷ trọng của khu vực DNNN càng thu hẹp lại nhanh chóng. Vậy nếu vai
trò của DNNN là nhỏ và ngày càng thu hẹp về phạm vi thì vai trò chủ đạo có ý
nghĩa thực tiễn gì? Câu trả lời chứa đựng trong những luận cứ sau:
Phải chăng chủ đạo có nghĩa là gia tăng sở hữu nhà nước trong một số ngành
công nghiệp "nặng", "then chốt" như mía đường, xi-măng, thép và hóa dầu? Cho tới
nay, những đầu tư này thường có nghĩa là giá trong nước cao hơn giá trên thị trường
thế giới. Trong khi đó, khả năng giảm được chi phí của các DNNN trong các ngành
công nghiệp nặng này là rất thấp. Để duy trì sự tồn tại thị trường của các DNNN,
nhất là trong môi trường hội nhập, Nhà nước buộc phải gia tăng bảo hộ. Nhưng trên
quan điểm thị trường, áp lực thường xuyên của việc bảo hộ các ngành này sẽ làm
giảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước xuống một phạm vi rất hẹp... Việc khăng
khăng giữ một vai trò chủ đạo trong ngành công nghiệp nặng tốn kém sẽ dẫn tới một
cơ sở công nghiệp nhỏ hẹp, chi phí cao và ít triển vọng. Theo cách đó, sau một thập
niên, kinh tế nhà nước sẽ có vai trò nổi trội trong những ngành công nghiệp "hoàng
hôn".
Nhà nước có thể nắm giữ phần khống chế trong một số ngành quan trọng như
tài chính - ngân hàng, bưu chính - viễn thông, hàng không, v.v., coi đây như một
bằng chứng quan trọng của vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Điều này là đúng.
Song nên lưu ý rằng ngoại trừ một số hàng hóa và dịch vụ công cộng mà Nhà nước
cần và có thể nắm giữ nhưđiện, nước, bưu chính, các lĩnh vực khác như hàng không
và ngân hàng cần được mở ra cho cạnh tranh để đạt hiệu quả cao hơn.
Với các lập luận trên, phải chăng "vai trò chủ đạo trong nền kinh tế" của một
lực lượng nào đó không có ý nghĩa gì trong nền kinh tế thị trường? Câu trả lời là:
Đặc biệt có ý nghĩa, nhưng không phải theo cách chúng ta nghĩ, chúng ta muốn và
chúng ta xử sự với nền kinh tế nói chung, khu vực kinh tế nhà nước nói riêng từ
trước đến nay - là cách kế hoạch hóa tập trung, độc tôn thống trị của một hình thức
sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường, các lực lượng, chủ thể kinh tế phải bình đẳng
trên cùng một sân chơi. Nhưng "vai trò chủ đạo" vẫn là một khái niệm quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Nó càng quan trọng hơn trong một nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Với nghĩa dẫn dắt trò chơi, định hướng phát triển, khái
niệm chủ đạo trước hết và chủ yếu gắn với việc đưa ra “luật chơi” và giám sát “cuộc
chơi”. Chức năng chủ đạo, do vậy, bao hàm nhiệm vụ tạo lập môi trường vĩ mô hiệu
quả (ổn định và mang tính khuyến khích)[8] xét từ quan điểm nền kinh tế thị trường.
Với nội dung đó, vai trò chủ đạo trong nền kinh tế phải do Nhà nước nắm, phải
thuộc về Nhà nước chứ không thể thuộc về một lực lượng kinh tế riêng biệt nào.
Phù hợp với lập luận này, định hướng XHCN sẽ được bảo đảm bằng nhà nước
XHCN (hay nhà nước định hướng XHCN). Thông qua hoạt động đưa ra luật chơi,
giám sát trò chơi, Nhà nước buộc tất cả các chủ thể phải tuân thủ trò chơi theo cách
và theo hướng Nhà nước định. Tất nhiên, cách và hướng mà Nhà nước định phải
phù hợp với xu thế tất yếu mà trước hết là phải tôn trọng các nguyên lý thị trường.
Nội hàm của "vai trò chủ đạo", khi gắn với Nhà nước, được mở rộng thêm ra cả
chức năng cung cấp hàng hóa công cộng. Còn đối với một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nội hàm còn được đẩy xa hơn nữa, bao gồm cả vai trò bảo đảm
công bằng xã hội, hỗ trợ người nghèo, triển khai mạng lưới an sinh xã hội rộng khắp
và hiệu quả.
Với nội dung như trên, khái niệm "vai trò chủ đạo trong nền kinh tế" gắn kết
lô-gic với tuyến vấn đề quan trọng thứ ba: phân định chức năng nhà nước - thị
trường, nhà nước - doanh nghiệp.
Về nguyên tắc, chức năng nhà nước - thị trường, Nhà nước - doanh nghiệp
được phân định một cách khách quan. Sự phân định đó không diễn ra theo cách, cái
gì Nhà nước không làm được thì thị trường và doanh nghiệp mới được làm. Cũng
không phải theo cách Nhà nước cố gắng làm mọi thứ tối đa có thể, phần còn lại mới
là của thị trường, của doanh nghiệp[9].
Hiện nay Nhà nước ta đang tham gia quá sâu, quá rộng vào các chức năng của
thị trường và doanh nghiệp trong khi nhiều lĩnh vực thuộc chức năng của mình lại
chưa được hoàn thành tốt. Đó là tình trạng "nắm những cái không cần nắm; buông
những cái không được buông". Do đó Nhà nước phải trả cho thị trường và doanh
nghiệp những chức năng vốn có của nó. Sức lực của Nhà nước cần được chuyển từ
việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các DNNN sang các lĩnh vực thuộc
về chức năng của nó là tạo lập môi trường, cung cấp các dịch vụ và hàng hóa công
cộng, giám sát quá trình vận hành của nền kinh tế và của doanh nghiệp thông qua
các quy định rõ ràng, minh bạch của hệ thống pháp luật.
Một điểm then chốt khác của mối quan hệ chức năng nhà nước - thị trường gắn
với yêu cầu phát triển một nền kinh tế thị trường hiện đại -một nền kinh tế có khả
năng hội nhập và cạnh tranh quốc tế cao. Để đáp ứng yêu cầu này, Nhà nước phải
đảm đương hàng loạt chức năng trước đây chưa hề có hoặc có nhưng chỉở trạng thái
manh nha: hỗ trợ quá trình hội nhập quốc tế và phối hợp quản lý phát triển toàn cầu.
Đối với nước ta, hội nhập quốc tếđang trở thành một điều kiện tiên quyết, sống
còn của việc thực thi chiến lược thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Tuy nhiên,
như thực tế mấy năm qua cho thấy, quá trình hội nhập diễn ra trong thế bị động
nhiều hơn là chủ động; chúng ta lo đối phó với các vấn đề tình thế hơn là chú tâm
cho các vấn đề chiến lược. Cội nguồn của vấn đề chắc chắn vẫn là ở chỗ chức năng
nhà nước - thị trường không được phân định rõ, chưa được tôn trọng.
Áp lực phát triển do hội nhập gây ra hiện đang gia tăng rất nhanh. Định hướng
XHCN sẽ trở thành một hoài niệm nếu nó không thực sự hội nhập được vào nền
kinh tế thế giới và khu vực trong giai đoạn trung hạn tới. Song, cách xử lý vấn đề
hiện nay chưa đặt trên lợi ích phát triển nền kinh tế thị trường như một tổng thể. Nó
đang bị chi phối bởi tầm nhìn và lợi ích cục bộ bộ, ngành. Đó là cách làm phi thị
trường, không trên quan điểm chức năng nhà nước - thị trường theo đúng nghĩa của
nó. Do vậy, nó sẽ có tác dụng cản trở, thậm chí phá hoại định hướng XHCN của sự
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Như vậy thì chức năng đích thực của thị trường, của khu vực doanh nghiệp là
gì. Về điểm này, kinh nghiệm lịch sử thế giới đều xác nhận chức năng của khu vực
doanh nghiệp là trực tiếp đầu tư và tiến hành sản xuất, kinh doanh với tư cách là
những chủ thể độc lập và bình đẳng, không phân biệt chúng thuộc "thành phần",
"khu vực" nào. Tư cách chủ thể độc lập và sự bình đẳng trong kinh doanh của các
doanh nghiệp được bảo đảm tự động thông qua nguyên tắc cạnh tranh tự do. Điều
chỉnh thông qua cạnh tranh tự do là chức năng "bàn tay vô hình" của thị trường.
II. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Đặc điểm của kinh tế thị trường
Kinh tê thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa
trong đó có toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất
đều thông qua thị trường, Do đó kinh tế thị trường có những đặc trưng cụ
thể như sau:
Một là , trong nền KTTT các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có
quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh. Có nghĩa là các chủ thể kinh
tế có quyền tự do lựa chọn lĩnh vưc kinh doanh, loại hình kinh doanh, địa
bàn kinh doanh ...và có quyền độc lập trong sản xuất và kinh doanh . Đây
là một ưu điểm của KTTT, vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế có thể sản xuất kinh doanh trong những lĩnh vực mà họ có thế
mạnh và nhà nước không cấm, nhờ đó sẽ tạo được sự năng động của các
chủ thể kinh tế trong thị trường.
Hai là , giá cả do thị trường quyết định. Mọi yếu tố của quá trình
sản xuất đều thông qua thị trường , giá cả của hàng hóa là kết quả của cac
yếu tố trong thị trương . Có hai loại giá được hình thành : giá người mua
va giá người bán .Giá người bán chính là sự kết hợp của giá trị hàng hóa ,
sự tương tác giữa cung-cầu và năng lực của doanh nghiệp .Giá người mua
chính là sự kết hợp của thu nhập và sự tương tác giữa cung-cầu , tâm lý
tiêu dùng .
Ba là, nền kinh tế luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế
khách quan: quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh ... Sự
tác động của các quy luật đó hình thành quy luật tự điều tiết của nền kinh
tế .
Bốn là, nền KTTT hiện đại có sự quản lý và điều tiết của Nhà Nước
thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa các chính sách kinh tế để hạn
chế các mặt trái của nền KTTT .
Với bốn đặc trưng kể trên đã có những tác động mạnh mẽ trong việc
thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất .
Nền kinh tế thị trường nó còn tồn tại trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt, lấy lợi nhuận làm mục đích. Do đó nó có tác động kích thích
buộc các chủ thể kinh tế phải tiến hành cải tiến kỷ thuật công nghệ để
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm... để có thể giảm chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, đứng vững trên thị trường. Cũng nhờ
đó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động
xã hội.
Phân công lao động là điều kiện cần phải có để nền kinh tế hàng hóa
co thể ra đời và tồn tại. Ngược lại sau khi kinh tế hàng hóa ra đời va phát
triển thì nó tác động trở lại thúc đẩy hơn nữa sự phân công lao động xã
hội và chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc trong quá trình sản xuất để có
thể phát huy hết mọi khả năng, nguồn lực của từng vùng, miền và của cả
nền kinh tế quốc dân.
Sư rra đời và phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy hơn nữa sự tích tụ và
tập trung sản xuất từ đó tạo điều kiện ra đời nền sản xuất lớn có tính xã
hội hóa cao. Đồng thời sẽ chọn lọc được đội ngũ những người sản xuất
kinh doanh giỏi, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
III. NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1.Sự cần thiết khách quan phải phát triển KTTT ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam tuy trình độ phát triển ở mức thấp nhưng vẫn
tồn tại những cơ sở khách quan để phát triển KTTT .
Một là, phân công lao động xã hội ngày càng phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu. Sự phát triển của phân công lao động diễn ra trong
từng khu vực, từng địa phương thể hiện ở tính phong phú và đa dạng về
mẫu mã cũng như chất lượng hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường.
Hai là, nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều hình thức sở hữu: sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu
chủ, sở hữu tư bản tư nhân ), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập với lợi ích riêng và chỉ quan hệ với nhau thông qua quan
hệ hàng hóa – tiền tệ.
Ba là, trong cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam thì kinh tế
Nhà nước và kinh tế tập thể đóng vai trò chủ đạo, cùng dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định. Chúng
là những thành phần kinh tế riêng biệt có quyền tự chủ trong sản xuất
kinh doanh, có lợi ích riêng, có trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ tổ
chưc quản lý khác nhau. Do đó chi phí và hiệu quả sản xuất kinh doanh
cũng khác nhau.
Bốn là, xu thế của thế giới hiện nay là toàn cầu hóa vì vậy chúng ta
cũng phải giao lưu với nươc ngoài. Và quan hệ hàng hóa – tiền tệ là yếu
tố cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đăc biệt là trong điều kiện
phân công lao động quốc tế đang ngày càng sâu sắc như hiện nay. Mỗi
quốc gia, mỗi chủ sở hữu phải đưa hàng hóa của mình ra trao đổi vơi cac
nươc khác trên thế giới.
2. Những đặc điểm và bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay:
Nước ta với đặc điểm chính trị là một nước đi theo con đường
XHCN, vì vậy nền kinh tế của nước ta cũng đi theo hướng này. Tuy nhiên
trình độ của nước ta vẫn chưa đạt tới nền KTTT xã hội chủ nghĩa mà chỉ
mới trong giai đoạn quá độ, hay nói cách khác nền kinh tế của chúng ta là
một nền KTTT mang tính chất quá độ. Với đặc điểm là một nền kinh tế
có xuất phát điểm thấp chúng ta đi lên xây dựng nền KTTT nhưng không
lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước là từ
kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển lên KTTT tự do rồi lên KTTT hiện đại
mà phải xây dựng nền KTTT hiện đại định hướng XHCN theo kiểu rút
ngắn .Sự khác biệt này làm cho nền kinh tế của nước ta mang những đặc
điểm chung của nền KTTT nói chung lại vừa mang những đặc điểm riêng
có của một nền kinh tế quá độ.
2.1. Nền kinh tế nước ta là nền KTTT gồm nhiều thành phần tham
gia trong đó thành phần kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo
Như đã biết nước ta đang trong giai đoạn quá độ phát triển lên
CNXH vì vậy bản thân nó có những đặc điểm riêng đặc trưng cho giai
đoạn này. Một trong những đặc điểm đó là sự phát triển không đồng đều
của lực lượng sản xuất do xã hội tồn tại nhiều hình thưc sở hữu tư liệu
sản xuất. Trong đó một số hình thức do lịch sử để lại như sở hữu tư nhân
của những người sản xuất nhỏ: nông dân cá thể, thợ thủ công cá thể , tiểu
thương buôn bán nhỏ. Một số lại do kết quả của quá trình cải tạo và xây
dựng quan hệ sản xuất mới làm xuất hiện thêm: hợp tác xã nông nghiệp,
hợp tác xã công nghiệp, hợp tác xã tín dụng, xí nghiệp công tư hợp doanh
...Một số khác lại do yêu cầu của quá trình đổi mới và mở cửa: doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài...Gắn với mỗi hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất là một thành phần kinh tế vì vậy điều tất yếu
khách quan là nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Hiện
chúng ta có sấu thành phần kinh tế chính:
- Thành phần kinh tế Nhà nước
- Thành phần kinh tế tập thể
- Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ
- Thành phần kinh tế tư bản tư bản tư nhân
- Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước
- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Sấu thành phần kinh tế trên đây cùng tồn tại trong một tổng thể thống
nhất, mỗi thành phần là một bộ phận cấu thành nên nền kinh tế quôc dân.
Sự phát triển của từng thành phần kinh tế đều góp phần vào sự phát triển
chung của tổng thể nền kinh tế.
Với đặc điểm là một nền KTTT định hướng XHCN thì thành phần
kinh tế Nhà nước ra đời dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu sản
xuất đóng vai tro chủ đạo trong nền kinh tế. Với sức mạnh kinh tế to lớn
nhờ có nguồn vốn từ ngân sách, có lực lượng lao động đông đảo được
đào tạo chuyên môn, nắm trong tay những ngành nghề then chốt và mũi
nhọn như năng lượng, công nghiệp nặng, giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông ...Kinh tế Nhà nước là nhân tố mở đường cho sự phát triển
kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế góp phần định hướng và tạo lập thế
cân bằng trong nền kinh tế , hạn chế tối đa những hiện tượng tiêu cực làm
tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Thực chất, việc xác lập vai trò chủ
đạo của nền kinh tế là vấn đề có tính nguyên tắc thể hiện sự khác biệt có
tính bản chất giũa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa.
Chính tính định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta đã xác lập vai
trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ
sở kinh tế tương ứng với nó, văn kiện đại hội Đảng IV cũng nhấn mạnh
vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước: kinh tế Nhà nước cùng với kinh
tế tập thể tạo nên nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
2.2. Nền KTTT ở nước ta vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có
sự quản lý của Nhà nước XHCN
Trước hết phải nói rằng nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền
KTTT, do đó nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có
như: quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh ... và giá cả,
phương thức phân phối các nguồn lực kinh tế đều do thị trường quyết
định. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế phức tạp ngày nay, hầu hết các nền
kinh tế trên Thế giới đều cần có sự quản lý, chi phối và điều tiết của Nhà
nước nhằm sữa chữa, hạn chế ở một mức độ nào đó những thất bại của thị
trường . Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Với bản chất là
một nhà nước của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước XHCN tiến hành quản lý, điều tiết nền
kinh tế nhằm sữa chữa những thất bại của thị trường, thực hiện các mục
tiêu công bằng xã hội mà tự bản thân nền KTTT không thể thực hiện
được. Với mục tiêu đó vai trò quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức
quan trọng , nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và phát triển
bền vững ,đạt hiệu quả cao và đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội, rút
ngắn sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng miền trong cả nước.
Nguyên tắc quản lý nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là kết hợp
kế hoạch hóa với thị trường. Trong khi thị trường tồn tại khách quan và
vận động theo những quy luật vốn có thì kế hoạch lại là sản phẩm chủ
quan của chủ thể quản lý và chịu tác động của các yếu tố chủ quan. Kết
hợp kế hoạch hóa với thị trường tạo ra một phương tiện hữu hiệu để quản
lý nền kinh tế bởi bản thân kế hoạch và thị trường đều tồn tại cả ưu –
khuyết điểm. Nếu áp dụng riêng rẽ từng biện pháp thì sẽ tồn tại những
hiện tượng không mong muốn gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế. Vì vậy
cần kết hợp kế hoạch vơi thi trương để hạn chế bớt nhược điểm, phát huy
được ưu điểm thế mạnh của từng phương thức. Kế hoạch hóa với ưu điểm
là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội,đảm bảo cân bằng tổng thể , gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát
triển xã hội ngay tư đầu, vì vậy kế hoạch hóa coa thể hạn chế, sữa chữa
và khắc phục khuyết tật cơ bản của kinh tế thị trường là tính tự phát gây
mất cân đối, tổn hại cho nền kinh tế. Tuy nhiên kế hoạch hóa cũng tồn tại
những nhươc điểm rất lớn mà thực tế những năm trong thời kỳ bao cấp đã
chỉ rỏ, đó là kế hoạch hóa không thể bao quát hết tất cả mọi hoạt động
của đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt trong nền KTTT thì sự biến động đó
càng nhanh chóng và xãy ra đồng thời trên nhiều lĩnh vực gây nhiều khó
khăn trong việc lập kế hoạch cũng như sữa đổi bổ sung các kế hoạch đó.
Khi tiến hành lập kế hoạch thì một yêu cầu được đặt ra là kế họah đó
phải được lập căn cứ trên các điều kiện thực tế của thị trường, bảo đảm
thích ứng kịp thời với sự biến động của đời sống kinh tế xã hội. Ngược
lại, thị trường với ưu điểm là sự phát triển nhanh chóng, biến đổi không
ngừng, kích thích các chủ thể kinh tế trở nên năng động sáng tạo nhờ đó
thúc đẩy mọi mặt của nền kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng. Thị
trường chính là căn cư để xây dựng và kiểm tra tính hiệu quả của cac kế
hoạch .Muốn thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó
phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.
2.3. Nền KTTT ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối nhưng
trong đó phân phối theo lao động là hình thức phân phối cơ bản nhất
Mỗi chế độ xã hội có những chế độ phân phối tương ứng với nó .
Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị mà trước hết là quan hệ
sở hữu quyết định . Với nước ta , do trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn thấp , xã hội tồn tại nhiều hình thức sở hữu : sở hữu toàn dân ,sở
hữu tập thể , sở hữu cá nhân , sở hữu của nước ngoài và các hình thức sở
hữu hỗn hợp giữa chúng .Mỗi hình thức sở hữu lại có một hình thức hay
một nguyên tắc phân phối tương ứng với nó .Xã hội Việt Nam thời kỳ quá
độ tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó tất yếu sẽ tồn tại nhiều hình thức
phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài
sản đóng góp , phân phối theo giá trị sức lao động , phân phối thông qua
các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội .
2.4. Nền KTTT ở nước ta phát triển theo mô hình mở cửa , hội nhập
với khu vực và quốc tế theo nguyên tắc đa phương hóa các quan hệ
Quốc tế , đa dạng hóa các hình thưc kinh tế đối ngoại.
Chúng ta nhìn lại chạng đường sau 30 năm về trước - giai đoạn
những năm 80 – khi đó nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp, là một nền kinh tế đóng không hội nhập , giao lưu với
bên ngoài hoặc nếu có thì cũng chỉ thông thương với cac nước cùng phe
XHCN mà thôi. Tất nhiên có nhiều lý do, nhiều yếu tố lịch sử tác động
nên Nhà nước ta thực hiên chính sách đóng cửa nền kinh tế, chính sách
đó đã làm cho nền kinh tế nước ta một thời gian dài rơi vào tình trạng trì
trệ. Chính sách kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã triệt hết sự
năng động sáng tạo của người lao động,của cac chủ thể trong nền kinh tế .
Hậu quả là nền kinh tế rơi vao khủng hoảng, đời sống của nhân dân gặp
nhiều khó khăn .Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy và
đi đến quyết định phải mở cửa nền kinh tế , hội nhập với khu vực và Thế
giới. Đây là một quyết định đúng đắn phù hợp với xu hướng chung của
thời đại . Có nhiều lý do để dẫn đến sự hội nhập ,mở cửa trong đó một lý
do hết sức quan trọng đó là sự tác động của cuộc cách mạng khoa hoc –
công nghệ đang diên ra nhanh chóng và tác động tới mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội , tới mọi quốc gia làm cho các quốc gia phải phụ
thuộc lẫn nhau .Vì vậy mở cửa hội nhập là một xu thế tất yếu của tất cả
các quốc gia trên thế giới để giải quyết mối quan hệ phụ thuộc đó một
cách có hiệu quả .Với một nền kinh tế mở cửa , hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới chung ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thu hút
vốn , kỹ thuật công nghệ hiện đại cũng như kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của các nước để khai thác cac tiềm năng và thế mạnh của quốc gia mình
một cach có hiệu quả nhất . Việt Nam chúng ta hiên nay cũng đã có nhiều
chính sách thu hút vốn , công nghệ của nươc ngoài để tiến hành xây dựng
và phát triển nền kinh tế hiện đại theo con đường rút ngắn.
Việc mở của hội nhập nền kinh tế theo hướng đa phương hóa , đa
dạng hóa các hình thức đối ngoại với cac nước trong khu vực và trên thế
giới sẽ mang lại nhiều lợi thế cho nươc ta. Tuy nhiên việc mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại phải tuân thủ các thông lệ quốc tế, đồng thời phải
đảm bảo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc
gia dân tôc .
Điểm lại quá trình suốt 30 năm đổi mới chúng ta đã gặt hái được
nhiều thành tựu trong quan hệ quốc tế mở đường cho kinh tế phat triển .
Thời gian tới chúng ta tiếp tục mở rộng đa phương hóa ,đa dạng hóa các
hình thức đối ngoại, cần có những bước đi thích hợp trong tiến trình hội
nhập khu vực và quôc tế. Thưc tế Viêt Nam đã và đang trong lộ trình hội
nhập và hội nhập hơn nữa với các nước trong khu vực ASEAN ,Việt Nam
cũng đang trong lộ trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO dự kiến trong năm 2006 này chúng ta sẽ trở thành thành viên chính
thức. Gia nhập vào các tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới hứa hẹn sẽ
mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội để phát triển mạnh hơn nền kinh tế nhiều
tiềm năng, thúc đẩy các ngành thế mạnh (gạo, giày da, may mặc, thủy
sản, Cà Phê ...) mở rộng thị trường thu hút đầu tư tư nước ngoài. Bên
cạnh những cơ hội thì cũng có nhiều thách thức vì khi hội nhập cũng
đồng nghĩa với việc phải tháo bỏ hàng rào thuế quan bảo vệ các ngành
sản xuất trong nước. Điều đó đông nghĩa rằng các doanh nghiệp kinh
doanh trong các ngành không phải là thế mạnh sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt đó. Nhưng chính điều đó đặt ra cho
các doanh nghiệp đó phải năng động, linh hoạt, sáng tạo để không bị thị
trường đào thải còn người tiêu dùng thì được sử dụng và lựa chọn những
loại hàng hóa có chất lượng, sản phẩm, mẫu mã đẹp với giá cả hợp lý.