Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Những nguyên tắc Quản lý nợ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.42 KB, 11 trang )

Câu hỏi:
1. Quản lý nợ công cần tuân thủ theo những nguyên tắc nào?
2. Theo anh/chị quản lý nợ công ở Việt Nam đã đáp ứng được các nguyên tắc
quản lý nợ công chưa? Anh/chị hãy chọn một số bằng chứng có tính điển hình để
minh chứng cho câu trả lời.
Bài làm
1. Những nguyên tắc cần tuân thủ trong Quản lý nợ công.
- Khái niệm Ngân sách nhà nước: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
- Khái niệm Bội chi ngân sách nhà nước: Bội chi ngân sách là chênh lệch dương
giữa tổng số chi ngân sách nhà nước thực tế và tổng số thu ngân sách nhà nước thực tế.
Bội chi ngân sách nhà nước trong thực tế người ta còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà
nước.
- Bội chi ngân sách nhà nước là một hiện tượng phát sinh khá phổ biến ở hầu hết các
nước. Để có nguồn đảm bảo đáp ứng bội chi ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn
thu từ nền kinh tế còn hạn hẹp, Chính phủ các nước thường sử dụng nhiều nguồn nhưng
nguồn mang tính chủ lực và có tác động lan tỏa tích cực đó chính là nguồn vay nợ trong
và ngoài nước hay còn gọi là nợ công
- Theo Luật Quản lý nợ công năm 2009 của Việt Nam, nợ công gồm: Nợ chính phủ,
Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính quyền địa phương.
Nguyên tắc quản lý nợ công theo Luật Quản lý nợ công năm 2009 của Việt Nam
bao gồm:
+ Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công, từ việc huy động, phân bổ, sử
dụng vốn vay đến việc trả nợ.
+ Bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm
an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô nền kinh tế.
+ Bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay; không vay ngắn hạn để
đầu tư dài hạn. Vốn vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án
có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ.
+ Người vay chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay.


+ Công khai, minh bạch trong việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và
quản lý nợ công. Chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ, chính quyền địa
phương phải được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập.
+ Mọi nghĩa vụ nợ của Chính phủ được đối xử bình đẳng.
1


2. Theo bản thân học viên nhìn nhận quản lý nợ công ở Việt Nam trong thời
gian qua chưa đáp ứng được các nguyên tắc quản lý nợ công.
Theo Nguyên tắc quản lý nợ công được quy định tại Luật Quản lý nợ công năm
2009 của Việt Nam bao gồm:
+ Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công, từ việc huy động, phân bổ, sử
dụng vốn vay đến việc trả nợ.
+ Bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm
an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô nền kinh tế.
+ Bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay; không vay ngắn hạn để
đầu tư dài hạn. Vốn vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án
có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ.
+ Người vay chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay.
+ Công khai, minh bạch trong việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và
quản lý nợ công. Chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ, chính quyền địa
phương phải được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập.
+ Mọi nghĩa vụ nợ của Chính phủ được đối xử bình đẳng.
Để đánh giá đúng đắn bản chất, vai trò của nợ công như là một nguồn lực chính yếu
cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của một nước, cần đánh giá các nhân tố có ảnh
hưởng, tác động qua lại đến nợ công qua đẳng thức cơ bản sau:
d = B/(gy-i)
Trong đó, d là tỷ lệ nợ công so với GDP; B là tỷ lệ bội chi NSNN/GDP (không bao
gồm nợ vay); gy là tốc độ tăng trưởng GDP, i là lãi suất.
Như vậy, nợ công chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ yếu sau: Bội chi ngân sách

nhà nước (B);Tăng trưởng hay suy thoái kinh tế, thông qua chỉ tiêu GDP (gy); Lãi suất
trên thị trường đồng nội tệ và ngoại tệ (i). Ngoài ra, nợ công nếu vay nước ngoài thì còn
chịu rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái. Còn trong quá trình sử dụng theo thời gian, nó sẽ
chịu ảnh hưởng bởi nhân tố lạm phát.
Thực tế cho thấy, nợ công đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở nhiều nước như: Mỹ, Singapore, Trung Quốc... với điểm chung là Chính
phủ sử dụng nợ công với tỷ trọng khá cao. Điểm nhấn ở đây là, việc huy động, phân bổ,
sử dụng nợ công luôn gắn liền với các chương trình, dự án KT-XH thiết thực, có khả
năng thu hồi vốn cao, luôn gắn với tỷ lệ bội chi NSNN trong giới hạn kiểm soát được
(khoảng 5%/năm) và ngược lại. Cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu các năm 20092012 càng làm sáng tỏ nhận định trên.
Ở Việt Nam, những năm qua, nợ công đã góp phần quan trọng vào sự phát triển KTXH nước ta, thể hiện ở các mặt sau:
2


- Về quy mô nợ công, trong giai đoạn 2011- 2015, quy mô huy động từ vay nợ đạt
bình quân 14% GDP, chiếm khoảng 44% vốn đầu tư toàn xã hội, với tốc độ tăng bình
quân 19%/năm. Về tỷ lệ nợ công trên GDP, nếu năm 2001 là 36,5% thì đến năm 2015 là
61,3% GDP và năm 2016 đã là 64,73% GDP.
- Về cơ cấu nợ công, trong giai đoạn 2011 - 2015, vay nợ Chính phủ chiếm bình
quân 76% gấp 3,1 lần so với 5 năm trước, bảo lãnh Chính phủ chiếm 19%, gấp 2,2 lần và
vay của chính quyền địa phương chiếm 4,2%. Riêng năm 2015, vay nợ Chính phủ chiếm
tỷ trọng 80,8%, năm 2016, vay nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng 80,5%. Có thể nói, vay nợ
Chính phủ ngày càng mang tính chi phối trong nợ công.
- Về cơ cấu nguồn vay nợ, trong giai đoạn 2011-2015, có xu hướng chung là tỷ
trọng vay trong nước ngày càng được nâng lên còn tỷ trọng vay nước ngoài ngày càng
được giảm xuống. Đến cuối năm 2016, trong danh mục nợ vay của Chính phủ, cơ cấu
vay trong nước và vay ngoài nước khoảng 59% và 41%, tức là đã được cải thiện khá
nhiều so với các năm trước (thời điểm cuối năm 2011 là 38,9% và 61,1%; năm 2015
khoảng 57% và 43%). Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng có nhận định
rằng cơ cấu nợ công của Việt Nam đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững

hơn.
Riêng cơ cấu đồng tiền trong danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng
tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam chiếm tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; Yên
Nhật chiếm tỷ trọng 13% và đồng Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng
tiền khác, góp phần giảm thiểu rủi ro về tỷ giá.
- Về tình hình sử dụng nợ công, nợ công của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào
việc hình thành mới, nâng cấp, mở rộng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng; nhiều công
trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước,tạo hiệu
ứng lan tỏa tích cực trong đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế.
Trên tổng thể, nợ công đã trở thành nguồn tài trợ chính cho đầu tư phát triển KT-XH
nước ta thông qua chi NSNN, góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế nước ta ở
mức khá cao trong giai đoạn 2011-2015, đạt bình quân 5,9%, riêng năm 2016 đạt 6,21 %.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 3 lần.
Nếu năm 2006, GDP/đầu người đạt 715 USD thì năm 2015 là 2.019 USD,năm 2016 là
2.215 USD. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên.
Bên cạnh những kết quả trên, nợ công của Việt Nam bộc lộ một số hạn chế như sau:
- Về quy mô nợ công: Từ các dẫn chứng ở trên cho thấy nợ công trong 5 năm 20122016 đã tăng lên bình quân là 22%/năm và nhanh gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân cùng kỳ là 5,9%/năm. Đáng lo ngại ở đây là tốc độ tăng của nợ công quá
lớn, chưa có dấu hiệu dừng lại, dẫn đến năm 2016, tỷ lệ nợ công/GDP đã đạt 64,73%, sát
với ngưỡng cho phép 65% của Quốc hội.
3


Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu được xác định cho các nước đang
phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%. Việc Quốc hội nước ta
đề ra ngưỡng nợ công/GDP là 65% trong giai đoạn 2016-2020 là phù hợp.
- Về sử dụng nợ công: Giai đoạn 2012 – 2016, khoản vốn vay này được dùng để bù
đắp bội chi NSNN chiếm tỷ trọng chủ yếu 53%. Khoản được sử dụng cho đầu tư các dự
án trọng điểm về giao thông, nông nghiệp, y tế, giáo dục và bố trí vốn đối ứng ODA
chiếm tỷ trọng khiêm tốn 17%.

Khoản còn lại 30%, phần lớn được dùng cho vay lại, tập trung vào các ngành, các
lĩnh vực cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn như: điện, dầu khí, hàng không, đường
cao tốc, cấp nước... số còn lại được dùng để đảo nợ vay. Qua đó cho thấy, hiệu quả sử
dụng nợ công là khá thấp và khả năng trả nợ là khó vì chủ yếu nợ công tập trung cho việc
bù đắp bội chi NSNN (với những công trình không thể thu hổi vốn) và đảo nợ là các hoạt
động không tạo ra giá trị mới.
+ Hiệu quả đầu tư thấp, còn thể hiện qua chỉ số ICOR nước ta những năm qua. Cụ
thể: giai đoạn 2011-2015, ICOR đạt 6,91, đã tiến bộ hơn so với giai đoạn 2006-2010 là
6,96, tuy nhiên, nó vẫn còn cao, hiệu quả đầu tư còn thấp nếu xét trong mối tương quan
với nhiều nước trong khu vực tại cùng kỳ so sánh.
+ Giải ngân vốn vay còn chậm. So với nhu cầu đầu tư, việc huy động vốn vay đã
thấp nhưng lại không đưa vốn vay vào sử dụng ngay được, đó là sự lãng phí đáng tiếc.
Giải ngân, phân bổ vốn đầu tư công cả năm 2016 và 5 tháng đầu năm 2017 tuy cao hơn
cùng kỳ năm trước nhưng còn chậm, không phân bổ hết dự toán, có tiền không tiêu hết
được. Chính sự chậm trễ này là nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm
tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch 06 tháng đầu năm 2017, làm ảnh hưởng tiêu cực
đến công tác thu NSNN...
- Về trả nợ công, bài viết chỉ đề cập về trả nợ Chính phủ vì khoản nợ này mang tính
quyết định. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp bình quân giai đoạn 2011-2015, khoảng 14,3% tổng thu
NSNN. Nếu tính cả nghĩa vụ trả nợ phải đảo nợ thì tỷ lệ trả nợ là 21% tổng thu NSNN.
Trong năm 2015, con số này đã lên 27%, năm 2016 là 26,3%, vượt mức trần Quốc
hội đề ra tối đa là 25%. Đáng chú ý, số vay đảo nợ để trả nợ gốc hàng năm ngày càng
tăng lên. Cụ thể: nếu số vay đảo nợ năm 2012 chỉ có 20.000 tỷ đồng thì năm 2015 đã
tăng125.000 tỷ đồng, năm 2016 là 95.000 tỷ đồng.
Mặc dù cơ cấu nợ công nước ta thời gian qua đã được điều chỉnh theo hướng tích
cực hơn và giảm thiểu rủi ro song quy mô tăng nợ công quá nhanh, chưa có dấu hiệu
dừng lại, việc sử dụng và trả nợ còn bất cập.
Nguyên nhân khiến nợ công tăng
Công tác quản lý nợ công thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập chủ yếu như nợ
công tăng nhanh, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng

4


chưa được kiểm soát chặt chẽ; việc quản lý, sử dụng vốn vay chưa hiệu quả. Phân bổ vốn
đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao, đã phát sinh
những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay Chính phủ bảo
lãnh, dẫn đến không trả được nợ, Chính phủ phải trả nợ thay, thiếu gắn kết giữa quyết
định đầu tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ....Nợ công chịu tác động qua lại bởi nhiều nhân
tố. Thời gian qua, nợ công Việt Nam tăng là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, bội chi NSNN diễn ra liên tục nhiều năm. Để có nguồn bù đắp, tất yếu nợ
công ngày càng tăng lên.
Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của nước ta giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
đến 2030 đã quy định, tỷ lệ bội chi NSNN/GDP cần duy trì ở mức 5%. Tuy nhiên, trên
thực tế, trong một thời gian dài, điển hình là giai đoạn 2012 – 2016, tỷ lệ bội chi
NSNN/GDP nước ta đều vượt quá 5%, bình quân thời kỳ này là 6%. Chính sự thiếu hụt
trầm trọng này làm cho nợ công tăng.
Nguyên nhân dẫn đến bội chi NSNN giai đoạn 2012-2016 là do nguồn thu thường
xuyên huy động từ nền kinh tế chưa đầy đủ. Nguồn thu từ dầu thô sụt giảm mạnh trong
những năm gần đây, dẫn đến thu NSNN không đạt. Trong khi, để tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 6% trở lên, đòi hỏi chi tiêu NSNN rất lớn, vượt xa
nguồn thu từ nội tại nền kinh tế...
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, chưa đạt chỉ tiêu đề ra là nguồn gốc
sâu xa làm tăng nợ công.
Giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,9%/năm, thấp hơn giai đoạn
2006- 2010 (6,3%/năm), riêng năm 2016 cũng đạt mức 6,21%, chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, năng suất nhiều ngành, lĩnh vực còn kém;
hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao...
Chính sự tăng trưởng chậm lại, tức sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn hơn đã
làm cho nguồn thu NSNN bị giảm theo. Chi NSNN lại đòi hòi phải nhiều hơn, nhất là chi
cho đầu tư phát triển nhằm kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại, từ đó, nhu cầu chi

đã vượt quá so với nguồn thu, nguồn tiết kiệm có được cùng kỳ, cụ thể: giai đoạn20112015, vốn đầu tư toàn xã hội vẫn ở mức khá cao 32 - 33% GDP, nhưng tỷ lệ tiết kiệm của
nền kinh tế chỉ đạt khoảng 25% GDP. Thiếu hụt về vốn đầu tư đó, Nhà nước phải đi vay
để bù đắp, làm cho nợ công tiếp tục gia tăng.
Thứ ba, lãi suất, tỷ giá và lạm phát có ảnh hưởng đến việc gia tăng nợ công Việt
Nam nhưng không đáng kể.
Giai đoạn 2012 – 2016, lãi suất tiết kiệm đồng nội tệ đều có khuynh hướng giảm
nhẹ, kéo theo lãi suất cho vay cũng giảm tương ứng. Trong cơ cấu nợ công, vay trong
nước cũng chiếm hơn 55% trong giai đoạn này. Riêng lãi suất các đồng ngoại tệ mạnh
như: USD, EUR, JPY... cũng đều có xu hướng giảm nhẹ nhằm khuyến khích đầu tư...
5


Có thể nói lãi suất cả đồng nội tệ và ngoại tệ không có tác động tiêu cực đến việc
gia tăng nợ công Việt Nam thời gian qua. Trong giai đoạn 2012-2016, tỷ giá giữa VND
với khá ổn định, biên độ dao động chỉ khoảng 1%/năm nên chỉ có ảnh hưởng chút ít đến
gia tăng nợ công Việt Nam. Riêng tỷ lệ lạm phát, trong giai đoạn này, nước ta đã kiềm
chế được lạm phát và Chỉ số này có xu hướng giảm dần vào cuối giai đoạn. Do vậy, nó
cũng chỉ gây ra áp lực nhỏ làm tăng nợ công Việt Nam thời gian qua.
Thứ tư, việc tổ chức quản lý nợ công còn hạn chế, cả về hành lang pháp lý, tổ chức
quản lý và con người thực hiện.
Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về quản lý vay nợ, trả nợ đã có nhưng hiệu lực pháp lý
chưa cao. Mặt khác, công tác quản lý nợ công ở nước ta chưa tuân thủ nghiêm các quy
định pháp lý đã đề ra. Điển hình như việc thiếu chế tài kiểm soát chỉ số nợ công, thiếu
các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để quản lý nợ công. Hơn nữa, quy định quản lý nợ
công còn bất cập ở chỗ chưa tập trung vào một đầu mối quản lý, không gắn liền trách
nhiệm đi vay, sử dụng và trả nợ chặt chẽ với nhau.
Cụ thể, đi vay được phân công cho 3 cơ quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách
nhiệm về các khoản vay ODA, vay ưu đãi; Ngân hàng Nhà nước vay các tổ chức tài
chính quốc tế; Bộ Tài chính thì các hình thức vay khác. Tuy nhiên, khâu trả nợ lại chưa
quy định dứt khoát cơ quan nào là đầu mối đứng ra chịu trách nhiệm đến cùng việc trả nợ

vay. Đây là bất cập lớn, dẫn đến nợ công hiện nay đã tiến gần mức trần 65% GDP.
Bên cạnh đó, chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách
nhiệm các cơ quan có liên quan trong quản lý nợ công, dẫn đến việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán tình hình thực hiện, chất lượng, hiệu quả các dự án sử dụng nợ công thời gian
qua chưa được thường xuyên, thiếu chặt chẽ.
Mặt khác, một số bộ, ngành, các địa phương chưa thấy hết trách nhiệm vay và trả
nợ, nhận thức về nợ công còn lệch lạc, thậm chí coi nợ vay ODA như vốn cho không, hệ
quả là phát sinh nhiều tiêu cực, tham nhũng, nợ công sử dụng kém hiệu quả. Năng lực
quản lý nợ công nước ta còn hạn chế, đội ngũ chuyên môn còn yếu, nhất là trong quản trị
rủi ro tín dụng, thanh toán... tinh thần đạo đức trách nhiệm chưa cao.
Đối với vay nợ của doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả, doanh nghiệp
là bên vay có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định của pháp luật. Trường
hợp doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ có thể thực hiện phá sản theo
Luật Doanh nghiệp nhưng không được đưa nợ của doanh nghiệp nhà nước vào nợ công.
Thời gian vừa qua, hàng loạt doanh nghiệp như Vinachem, Vinashin, TKV… thua lỗ
hàng nghìn tỷ đồng. Các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh tại các doanh nghiệp nhà
nước thua lỗ cũng sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến nợ công.
Theo báo cáo hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp
trong phạm vi toàn quốc năm 2016, được Chính phủ gửi đến Quốc hội. Ký báo cáo là Bộ
trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng.
6


Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, theo báo cáo hợp nhất của các tập đoàn, tổng công
ty có tổng số nợ phải trả là 1.537.292 tỷ đồng, tăng 3% so với thực hiện năm 2015.
Một số "ông lớn" được điểm danh có nợ phải trả lớn như tập đoàn Điện lực Việt
Nam nợ phải trả 486.981 tỷ đồng (công ty mẹ: 313.578 tỷ đồng). Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam có nợ phải trả 338.586 tỷ đồng (công ty mẹ: 87.483 tỷ đồng). Tập đoàn Công
nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam nợ phải trả 100.729 tỷ đồng (công ty mẹ: 64.510 tỷ
đồng). Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, nợ phải trả 75.111 tỷ đồng (công ty mẹ:

39.674 tỷ đồng)...
Tính đến thời điểm 31/12/2016, Chính phủ cho biết nợ phải trả quá hạn của Tổng
công ty Giấy Việt Nam (Dự án Nhà máy sản xuất bột giấy Phương Nam) là 2.736 tỷ
đồng. Trong đó nợ phải trả Bộ Tài chính (khoản nợ Bộ Tài chính ứng ra từ Quỹ tích lũy
trả nợ nước ngoài để trả nợ thay cho Tổng công ty Giấy Việt Nam) là 1.610 tỷ đồng.
Ngoài ra, Công ty TNHH một thành viên Nguyên liệu giấy Miền Nam là công ty
con 100% vốn của Tổng công ty Giấy Việt Nam có dự án đầu tư kinh doanh rừng thông
tại tỉnh Kon Tum cũng không có khả năng trả nợ các khoản nợ đến hạn. Đến 31/12/2016,
nợ phải trả cho Chi nhánh Ngân hàng phát triển Kon Tum là 504.493 triệu đồng (nợ gốc
và lãi), Tổng công ty Giấy đã có văn bản xin gia hạn nợ vay đến 1/1/2018 và trình cấp có
thẩm quyền về cơ chế vay đối với phương án chuyển đổi 25 năm của dự án, tuy nhiên
chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chính phủ nhìn nhận, mặc dù theo quy định việc huy động vốn vượt quá mức 3 lần
vốn chủ sở hữu phải có ý kiến chấp thuận của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhưng vẫn
còn 18 tập đoàn, tổng công ty trong số 91 doanh nghiệp có mức huy động vốn vượt quá
mức trần huy động (3 lần vốn chủ sở hữu).
Tuy nhiên, tình hình huy động vốn và khả năng thanh toán của các tập đoàn, tổng
công ty đã có dấu hiệu được cải thiện đáng kể, hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của các
tập đoàn, tổng công ty bình quân đạt 0,75 lần.
Về lỗ phát sinh, báo cáo nêu, theo báo cáo hợp nhất của Tập đoàn Hoá chất Việt
Nam, Tổng công ty viễn thông toàn cầu Gtel, Tổng công ty Lương thực Miền Nam và
Công ty TNHH 1TV Duyên Hải là 1.305,026 tỷ đồng.
Báo cáo hợp nhất có 17 tập đoàn, tổng công ty còn lỗ lũy kế là 12.504 tỷ đồng và 6
công ty mẹ còn lỗ lũy kế là 4.595 tỷ đồng.
Từ những dẫn chứng cụ thể trên đã minh chứng cho việc quản lý nợ công ở Việt
Nam trong thời gian qua chưa đáp ứng được các nguyên tắc quản lý nợ công.
Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14 có hiệu lực
từ ngày 01/7/2018 đã có nhiều thay đổi so với Luật quản lý nợ công 2009 để phù hợp với
tình hình nợ công hiện nay tại Việt Nam.
Kết luận và một số kiến nghị

7


Để đảm bảo chỉ số nợ công, nợ Chính phủ trong giới hạn cho phép, không vượt quá
65% GDP, nợ Chính phủ không vượt quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính
phủ không vượt quá 25% tổng thu NSNN hàng năm, từng bước giảm dần quy mô nợ
công khoảng 60% GDP vào năm 2030 (theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV), cần tập
trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đổi mới nợ công trước tiên phải gắn liền với tái cơ cấu NSNN theo hướng
lành mạnh hóa và ổn định. Đây là giải pháp mang tính quyết định để NSNN nước ta thực
sự lành mạnh hóa, mục tiêu xuyên suốt là phải kiên quyết cắt giảm bội chi NSNN theo
Nghị quyết Đại hội Đảng XII về kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020, đó là:
giảm dần bội chi NSNN đến năm 2020 về dưới 4% GDP. Để đạt được yêu cầu trên, cần
thực hiện trên cả 2 mặt:
- Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng thu NSNN ổn định, bền vững. Theo đó, chính
sách thuế cần mở rộng đến mọi nguồn thu, phù hợp với khả năng đóng góp của người
nộp thuế, chú trọng thu nội địa, tăng tỷ trọng thuế trực thu trên cơ sở phát triển sản xuất
kinh doanh.
Tăng cường chống thất thu, nợ đọng thuế, xử lý cương quyết tình trạng trốn thuế
qua hình thức “chuyển giá” tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kiên trì cải
cách thủ tục hành chính thuế gắn với đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thuế nhằm góp
phần chống tiêu cực, nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế, qua đó, huy động
thuế đầy đủ và kịp thời hơn vào NSNN.
- Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: Giảm và tiết kiệm chi thường xuyên, bằng cách
cương quyết tinh giảm biên chế trong bộ máy nhà nước, mạnh dạn chuyển đổi từ chế độ
biên chế sang hợp đồng đối với các đơn vị sự nghiệp công, đầy mạnh dịch vụ sự nghiệp
công, qua đó, thu hẹp phạm vi và giảm bớt gánh nặng chi thường xuyên cho NSNN…
Bên cạnh đó, chính quyền các cấp phải tuân thủ nghiêm kỷ luật tài khóa theo Luật
NSNN năm 2015 đã quy định: nếu thu không đạt dự toán thì phải giảm chi tương ứng.
Hai là, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc, vì đây chính là

nguồn gốc, cơ sở tạo ra nguồn thu NSNN vững bền để trả nợ công. Theo đó, cần ban
hành các cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thông thoáng, khuyến
khích các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư phát triển.
Đảm bảo quy mô đầu tư xã hội đạt 32 - 34% GDP ở giai đoạn 2016-2020; Đẩy
mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh, trong đó, vấn đề then chốt là phải chuyển nền kinh tế từ làm
hàng gia công, khai thác nguyên liệu thô là chủ yếu sang tập trung chế biến sâu gắn với
công nghệ hiện đại và công nghiệp 4.0 nhằm làm gia tăng giá trị sản phẩm; Tiếp tục đẩy
mạnh xuất khẩu với cơ cấu mặt hàng, dịch vụ đa dạng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
của Việt Nam (đây là nguồn duy nhất tạo ra lượng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài của
Chính phủ).
8


Phối hợp đồng bộ và hiệu quả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính
sách khác để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, qua đó,
tạo cơ sở tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định.
Ba là, điều hành lãi suất, tỷ giá và lạm phát linh hoạt, qua đó giảm thiểu rủi ro lãi
suất, tỷ giá và rủi ro tín dụng của nợ công trong thời gian tới. Điều hành lãi suất theo cơ
chế thị trường, đảm bảo sàn và trần lãi suất hợp lý để khuyến khích tiết kiệm, đầu tư.
Luôn đảm bảo quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh (đạt khoảng 3 tháng kim ngạch nhập khẩu) để
sẵn sàng ứng phó với những biến động bất lợi về tỷ giá; Duy trì và kiểm soát mức độ lạm
phát ở mức độ hợp lý (khoảng 5%/năm) nhằm kích cầu, hạn chế rủi ro về tỷ giá do vay
nợ nước ngoài.
Bốn là, đổi mới căn bản tổ chức quản lý nợ công cả về hành lang pháp lý, cơ chế
quản lý và con người thực hiện. Cần hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý về nợ công. Trước
mắt, xem xét sửa đổi kịp thời Luật quản lý nợ công năm 2009, tập trung vào những vấn
đề trọng yếu sau:
+ Có biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm các cơ quan
có liên quan trong kiểm tra phân bổ sử dụng vốn vay, đôn đốc thu hồi nợ hoặc tìm nguồn

thu trả nợ đúng hạn, thúc đẩy giải ngân vốn vay kịp thời, hạn chế được tiêu cực tham
nhũng trong quá trình xét duyệt, phân bổ vốn vay, đảm bảo chất lượng, hiệu quả các công
trình đầu tư công. Mặt khác, một số bộ ngành, nhất là các địa phương nhận thức rõ trách
nhiệm vay và trả nợ đúng đắn, kể cả vay ODA, từ đó, sử dụng vốn vay một cách chắt
chiu, tiết kiệm, có khả năng thu hồi để trả nợ.
- Ban hành quy định, cơ chế kiểm soát chặt chẽ nợ công trong giới hạn trần cho
phép, đảm bảo tốc độ gia tăng dư nợ công thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ
trượt giá. Bên cạnh đó, cần đề cao tính kỷ luật tài chính trong quản lý nợ công, chú trọng
đến trách nhiệm cá nhân người điều hành, có thưởng, phạt phân minh rõ ràng nhằm đảm
bảo hiệu quả nợ công.
- Chuyển đổi phương thức quản lý đầu tư theo NSNN hàng năm sang kế hoạch tài
chính trung hạn 5 năm nhằm phân bổ nguồn nợ vay theo các ưu tiên chiến lược quốc gia.
- Từng bước nâng cao trình độ, năng lực quản lý nợ công cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách nước ta hiện nay, chú trọng bồi dưỡng kỹ năng kiểm tra, phân tích đánh giá các
chương trình, dự án đầu tư công không chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà còn trên các mặt
xã hội, bảo vệ môi trường... để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, có khả năng dự báo,
nhận diện đánh giá và biết cách giảm thiểu, phân tán, xử lý các loại rủi ro liên quan đến
nợ công. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao tinh thần đạo đức, trách nhiệm trong thực
hiện nhiệm vụ cho đội ngũ này bằng nhiều giải pháp thích hợp.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam để
các công cụ nợ Chính phủ được giao dịch mua bán thuận lợi, tạo kênh vay vốn chủ yếu
với chi phí thấp, nhất là vốn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển; Có cơ chế đẩy
9


mạnh việc xã hội hóa các công trình mà các thành phần kinh tế khác có thể tham gia
(giáo dục, y tế, đường giao thông...) nhằm giảm tải chi đầu tư từ nguồn NSNN, giảm áp
lực tăng nợ công.
Quản lý nợ công là một trong những vấn đề quan trọng nhất xét ở khía cạnh tác
động qua lại đến bội chi NSNN và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. Nếu không

khắc phục kịp thời những tồn tại, yếu kém về nợ công nói trên thì nó sẽ trở thành lực cản,
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Ngược lại, nếu Nhà nước mạnh dạn đổi mới cách thức quản lý nợ công với những
giải pháp hữu hiệu trên đây thì nợ công sẽ trở thành lực đẩy cần thiết mang tính nền tảng
để hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta hoàn chỉnh đồng thời sẽ có tác động tích
cực đến việc lành mạnh hóa NSNN và đảm bảo cấu trúc an ninh tài chính quốc gia, qua
đó, tạo bệ phóng cho nền kinh tế nước ta cất cánh vững chắc trong điều kiện hội nhập
quốc tế hiện nay./.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12;
2. Bản tin Nợ công số 4 (2016) - Bộ Tài chính;
3. PGS.,TS. Sử Đình Thành và cộng sự (2010), Tài chính công & phân tích chính sách
thuế, NXB Lao động;
10


4.ThS. Lê Thị Khương (2016) “Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng,
(21);
5. PGS.,TS. Đặng Văn Thanh (2016), “Đổi mới và nâng cao chất lượng Quản lý sử dụng
nợ công ở Việt Nam”, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, (12);
6. Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XII;
7. IMF (2001, 2014), Hướng dẫn quản lý nợ công.
8. TS. Trần Ngọc Hoàng “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam”,
Tạp chí Kinh tế.
9. Báo điện tử Vneconomy “Nhiều doanh nghiệp nhà nước còn nợ nần thua lỗ”.

11




×