Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.22 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ NÓI RIÊNG...............................2
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Công đoàn............................2
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về công đoàn......................................................3
3.Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về công đoàn trong thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.....................................5
4.Quan điểm của công đoàn Giáo dục Việt Nam........................................6
5.Nội dung hoạt động công đoàn trong thời kỳ hiện nay............................7
CHƯƠNG 2: VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................8
1.Khái niệm tổ chức công đoàn và Công đoàn cơ sở..................................8
2.Sự ra đời tất yếu của tổ chức Công đoàn.................................................8
3.Tính chất của công đoàn Việt Nam........................................................14
4. Vị trí của tổ chức Công đoàn trong điều kiện chính trị, xã hội.............15
5.Vai trò của Công đoàn Việt Nam............................................................16
6. Chức năng của Công đoàn Việt Nam....................................................17
7.Vai trò của Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.....18
8. Ưu, nhược điểm của Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.....................................................................................................35
CHƯƠNG 3:CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA
TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY...........................................................................................38
1.Đối với cấp trên của Công đoàn cơ sở...................................................38
2.Đối với Công đoàn cơ sở.......................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................40


LỜI MỞ ĐẦU


Sự ra đời của tổ chức Công đoàn đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân và và những
người lao động. Đặc biệt trong xã hội ngày nay, tổ chức Công đoàn ngày càng
được coi trọng trong các doanh nghiệp. Trong phạm vi quan hệ lao động,
Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện,bảo vệ người lao động,tham
gia,thương lượng,kí kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập
thể…Ý thức được sự quan trọng của tổ chức Công đoàn, trong bài tiểu luận
này tôi xin làm về đề tài: “ Vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Bài tiểu luận gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ NÓI RIÊNG
CHƯƠNG 2: VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TỔ CHỨC
CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG 3:CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong bài tiểu luận còn nhiều sai sót do kiến thức còn hạn chế,kính
mong thầy cô cho ý kiến, những lời phê bình và nhận xét để bài tiểu luận của
tôi ở lần này và những lần sau có thể tốt hơn. Tôi xin chân thành cám ơn!

1


CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ NÓI RIÊNG
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Công đoàn
Để xây dựng học thuyết của mình, C. Mác đã dầy công nghiên cứu quá
trình hình thành, phát triển của phong trào công nhân, công đoàn thế giới cuối
thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, Mác đã nêu: “Công đoàn giữ vai trò trường

học – loại trường học đặc biệt” trường học tranh đấu giai cấp.Kế tục và phát
triển học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I. Lênin đã làm rõ nhiều
vấn đề về giai cấp công nhân và phong trào công đoàn. Theo Lênin:“Công
đoàn là trường học chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công
nhân, là một trường học kiểu hoàn toàn không bình thường, là trường học liên
hợp, trường học đoàn kết, trường học bảo vệ quyền lợi, trường học quản
lí kinh tế”; “Công đoàn nói chung và trường học chủ nghĩa cộng sản nói riêng
là trường học quản lí công nghiệp xã hội chủ nghĩa (rồi dần dần quản lí nông
nghiệp) cho tất cả những người lao động”.“Nhiệm vụ chủ yếu của công đoàn
là

bảo

vệ

lợi

ích

của

quần

chúng

lao

động

theo nghĩa trực tiếp nhất và chính xác nhất của danh từ đó”; “Công đoàn là

cái khâu nối liền Đảng và hàng triệu quần chúng lao động”.
Về vị trí của công đoàn, Lê nin cũng chỉ rõ: “Trong hệ thống chuyên
chính vô sản, công đoàn có một vị trí giữa Đảng, chính quyền nhà nước, công
đoàn tạo ra mối liên hệ giữa đội tiên phong với quần chúng”; “Công đoàn gần
gũi sản xuất hơn cả và công đoàn là sự tập hợp tất yếu của công nhân để làm
cho việc quản lí toàn bộ nền kinh tế trong nước tuần tự chuyển trước hết sang
tay giai cấp công nhân và sau sang tay toàn thể những người lao động”.
Ngày nay, tư tưởng và những luận điểm cơ bản về công đoàn của Mác
và Lênin vẫn mang ý nghĩa thời sự và giá trị thực tiễn. Trong điều kiện mới,
công đoàn có thể sử dụng nhiều phương pháp và hình thức hoạt động; trong
đó phương pháp tham gia quản lí (bao hàm cả đấu tranh) là rất quan trọng.
Tuy nhiên giáo dục, thuyết phục tức là vận động vẫn là phương pháp cơ bản
của công đoàn. Muốn thế thì công đoàn phải liên hệ với quần chúng, đi sâu
2


vào quần chúng như Lênin nói:
“Liên hệ với quần chúng là điều quan trọng nhất, căn bản nhất cho mọi
hoạt động công đoàn thành công. Cán bộ công đoàn phải sống lâu vào đời
sống công nhân, biết tường tận vào đời sống công nhân, xác định một cách
chắc chắn tâm trạng, nhu cầu, nguyện vọng, ý nghĩ thực sự của họ” và “Chủ
nghĩa quan liêu là một điều hết sức nhục nhã” đối với công đoàn.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về công đoàn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo các luận điểm của
Mác và Lênin về công đoàn vào thực tiễn Việt Nam để xác định đối tượng,
xây dựng tổ chức, chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, phương pháp hoạt động công
đoàn và đào tạo cán bộ công đoàn. Trong cuốn “Bản án chế độ thực dân
Pháp” (xuất bản 1925), Người đã chỉ rõ “Việc cần thiết hiện nay là phát động
một cuộc tuyên truyền lớn để thành lập các tổ chức công đoàn ở các nước
thuộc địa, nửa thuộc địa và phát triển các công đoàn hiện có dưới hình thức

phôi thai”. Một thời gian sau, trong tác phẩm “ Đường cách mệnh” (xuất bản
1927), Người đã nêu tính chất, nhiệm vụ của tổ chức Công hội nay là Công
đoàn và nhấn mạnh “Tổ chức Công hội trước là để công nhân đi lại với nhau
cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh
hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho
công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của công đoàn Việt Nam và cán
bộ công đoàn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là: “Công đoàn phải
thực sự trở thành trường học quản lí nhà nước, quản lí kinh tế và văn hóa của
giai cấp công nhân”. Do đó, công đoàn phải vận động quần chúng tham gia
ngày càng rộng rãi vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng nền kinh tế quốc dân, vào
các kế hoạch kinh tế, sản xuất, phân phối. Công đoàn phải vận động quần
chúng lao động tham gia xây dựng nền kinh tế quốc dân. Hồ Chí Minh khẳng
định rằng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, từ sản xuất
nhỏ, từ hai bàn tay trắng đi lên nên khó khăn còn rất nhiều và lâu dài, công
đoàn cần thấy hết tình hình khách quan đó mà ra sức vận động công nhân, lao
3


động sản xuất, đi đôi với thực hành tiết kiệm, vượt mọi khó khăn để xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá cuả giai cấp công nhân nói riêng và nhân dân nói
chung.
Về nhiệm vụ của công đoàn: Người nêu tóm tắt: “Nhiệm vụ của công
nhân và công đoàn hiện nay là phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế
công đoàn phải tổ chức, giáo dục, lãnh đạo công nhân đẩy mạnh sản xuất,
thực hành tiết kiệm, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch của đảng
và nhà nước đề ra”.Từ nhiệm vụ chung đó, Người chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể cho
công đoàn. Đó là:
Về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng: Công đoàn phải tuyên

truyền đường lối chính sách của Đảng vì là Đảng của giai cấp công nhân
“Công nhân không có sự lãnh đạo của Đảng thì không làm cách mạng thành
công được, không thắng lợi được”. Do đó, mọi đường lối, chính sách của
Đảng phải được công nhân quán triệt và thực hiện thông qua tổ chức công
đoàn. Công đoàn phải giáo dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức
cách mạng. Công đoàn phải giáo dục cho công nhân thái độ của người làm
chủ nước nhà, làm cho công nhân phải hiểu được rằng “tương lai của công
nhân và tương lai của xí nghiệp phải dính liền’’. Công nhân phải bảo vệ chế
độ của ta, phải hiểu lao động là vẻ vang, phải tự nguyện, tự giác giữ kỉ luật
lao động, giữ gìn của công, chống tham ô lãng phí. Cải thiện sinh hoạt phải
dựa trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Công tác giáo
dục phải gắn với nhiệm vụ cụ thể, tránh chung chung chính trị suông.
Về lề lối làm việc của công đoàn: Người căn dặn các cấp công đoàn
cần đổi mới cách thức làm sao cho mọi hoạt động của công đoàn đi vào chiều
sâu và có hiệu quả thiết thực. Người chỉ rõ: “Công đoàn các cấp cần cải tiến lề
lối làm việc, cần đi sát quần chúng, tăng cường đôn đốc, kiểm tra. Cần bớt
giấy tờ từng đống và hội họp lu bù. Cán bộ cấp trên cần thường xuyên đi đến
cơ sở để giúp đỡ họ một cách thiết thực hơn”.
Công đoàn phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người
4


lao động, thường xuyên quan tâm đến lợi ích vật chất và tinh thần của người
lao động.
Hồ Chí Minh căn dặn công đoàn phải bảo vệ cho công nhân, người lao
động có quyền thực sự trong xí nghiệp, có quyền phê bình tất cả mọi việc và
mọi trong xí nghiệp, trong sản xuất và đời sống.
Muốn cho phong trào công đoàn mạnh cần có cán bộ công đoàn tốt.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công đoàn cần tích cực để không ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt, Người nói: “Kinh tế của ta ngày càng phát triển, hàng

ngũ công nhân ngày càng thêm đông. Muốn làn tròn nhiệm vụ của mình thì
người cán bộ công đoàn phải cố gắng học tập vươn lên để không ngừng tiến
bộ. Có học tập mới có hiểu biết được khoa học, có hiểu biết được khoa học
mới tổ chức được phong trào”.
Cán bộ công đoàn phải là trung tâm của đoàn kết, phải có trách nhiệm
cao, vì lợi ích giai cấp, vì lợi ích cách mạng. “Muốn giáo dục tốt công nhân,
trước hết đội ngũ cán bộ công đoàn phải đoàn kết nhất trí’’ phải là nòng cốt
của khối đoàn kết trong hệ thống công đoàn, phải làm gương cho công nhân
noi theo. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về công đoàn và cán bộ công
đoàn đến nay vẫn là định hướng quý báu cho sự phát triển tổ chức công đoàn
và cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
3.Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về công đoàn trong thời
kì đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
Đối với tổ chức công đoàn Đảng ta đã xác định “Công đoàn Việt Nam
có vai trò quan trọng trực tiếp chăm lo xây dựng giai cấp công nhân, mọi hoạt
động của công đoàn phải thực sự hướng về cơ sở, giải đáp những vấn đề thực
tiễn sản xuất đặt ra...
Công đoàn phải chủ động đi sâu nghiên cứu nắm bắt kịp thời tâm tư
nguyện vọng của quần chúng và những đòi hỏi bức xúc ở cơ sở tập hợp trí tuệ
của công nhân viên chức, người lao động tham gia xây dựng và hoàn thiện
chính sách pháp luật, tổ chức kiểm tra giám sát có hiệu quả việc thực hiện
pháp luật và các chế độ chính sách đối với người lao động, thực sự chăm lo
5


quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân viên chức, người lao động các cấp
Công đoàn phải quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan
điểm, tư tưởng, nghị quyết Đại hội X của Đảng, đặc biệt là nghị quyết hội
nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X về tiếp tục xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa

đất nước, đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động, tổ chức hoạt động nhằm thu
hút ngày càng đông đảo công nhân viên chức, người lao động tự giác gia nhập
và tham gia hoạt động công đoàn, quan tâm hơn nữa công tác bồi dưỡng để
phát triển Đảng trong công nhân viên chức,người lao động, tăng cường tình
đoàn kết quốc tế giữa giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam với
giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn thế giới”.
4.Quan điểm của công đoàn Giáo dục Việt Nam
Trong ngành giáo dục- đào tạo, tổ chức công đoàn cơ sở giữ một vị trí
rất quan trọng: vừa thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Công đoàn vừa
tham gia tổ chức các cuộc vận động lớn của ngành và của nhà trường, vừa tổ
chức phong trào thi đua “Hai tốt” vừa là trung tâm đoàn kết, là người bạn thân
thiết, tin cậy đồng hành cùng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên xây
dựng trường học tiên tiến, xây dựng đoàn thể vững mạnh. Trong thời kỳ hiện
nay, những người lãnh đạo công tác Công đoàn là người có bản lĩnh, có tầm
nhìn chiến lược và phải là người biết đặt quyền lợi tập thể lên trên hết. Đồng
thời cần phải có sự tháo vát, luôn cập nhật những thông tin mới nhất để tránh
xa rời thực tế hoặc lệch hướng vai trò của mình.
Để nâng cao chất lương hoạt động Công đoàn nhằm đảm bảo cho Công
đoàn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, góp phần phát triển kinh
tế xã hội, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động, làm
cho đoàn viên Công đoàn, gắn bó với tổ chức Công đoàn. Mọi hoạt động của
Công đoàn cơ sở trường học đều phải hướng tới phục vụ trường học, tạo điều
kiện cho nhà trường giải quyết những khó khăn, chăm lo, xây dựng đào tạo
đội ngũ cán bộ, giáo viên, phát huy quyền chủ động, sáng tạo của Công đoàn
viên, khắc phục những biểu hiện quan liêu, bảo thủ trong công tác Công
6


đoàn.
5.Nội dung hoạt động công đoàn trong thời kỳ hiện nay

Thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Vai trò của
công đoàn tiếp tục được khẳng định. Công đoàn có quyền đại diện cho người
lao động, có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho
người lao động; tham gia trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, cụ thể
là:
- Công đoàn tham gia đổi mới và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới;
đẩy mạnh hoạt động công đoàn trong các thành phần kinh tế, vận động người
lao động nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Công đoàn góp phần tích cực vào việc xây dựng và nâng cao hiệu quả
hệ thống chính trị, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
lao động; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức trở thành nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân,
góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Công đoàn tuyên truyền, giáo dục người lao động không ngừng nâng
cao trình độ, tính tổ chức, kỷ luật, trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Công đoàn giáo dục người lao động nâng cao lập trường giai cấp công
nhân, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại, giáo dục lối sống mới, góp phần xây dựng nề văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

7



CHƯƠNG 2: VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TỔ CHỨC CÔNG
ĐOÀN VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Khái niệm tổ chức công đoàn và Công đoàn cơ sở
Căn cứ vào Điều 1 Luật công đoàn quy định về định nghĩa công
đoàn:
"Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công
nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành
viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và
những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động
người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa."
Công đoàn cơ sở là tổ chức cơ sở của công đoàn, tập hợp đoàn viên
công đoàn trong một hoặt một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở công nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam
và Điều lệ Công đoàn Việt Nam (Điều 4 Luật Công đoàn).
2.Sự ra đời tất yếu của tổ chức Công đoàn
Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn trên thế giới
Giữa thế kỷ 18, cuộc Cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở Anh, sau đó
tiếp tục ở nhiều nước khác. Cuộc cách mạng này bắt đầu từ việc phát minh và
sử dụng các máy kéo sợi, máy dệt và đặc biệt là máy hơi nước cùng các máy
móc khác, chuyển lao động bằng tay sang lao động bằng máy đưa năng suất
lao động lên cao chưa từng thấy.
Từ cuộc cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
đã ra đời. Hai giai cấp này đối lập nhau về quyền lợi. Do bị bóc lột tàn tệ, giai

8


cấp công nhân đã đấu tranh chống giai cấp tư sản từ lẻ tẻ, rời rạc, tự phát dần
dần thành cuộc đấu tranh của cả một phân xưởng, một nhà máy, một ngành,
một địa phương. Trong đấu tranh, công nhân nhận thấy cần tập hợp lực
lượng,thống nhất hành động mới bảo vệ được quyền lợi của mình. Do đó đã
hình thành một tổ chức để đáp ứng yêu cầu ấy- đó là Công đoàn.
Vậy nguyên nhân chủ yếu công đoàn ra đời là vì quan hệ lao động do
mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ và để tập hợp bảo vệ quyền lợi của công
nhân, công đoàn ra đời là tất yếu khách quan. Công đoàn ra đời đầu tiên ở
Anh vào đầu năm 1776, Pháp năm 1789, Mỹ năm 1827, Đức năm 1848.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của công nhân
ngày càng được củng cố. Để truyền bá Chủ nghĩa Mác vào sâu rộng trong giai
cấp công nhân, Mác và Ăng-gen đã đứng ra thành lập Hội Liên hiệp Lao động
quốc tế (tức Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28-9-1864 ở Luân Đôn. Quốc tế thứ
nhất đồng thời làm nhiệm vụ Quốc tế công đoàn, vạch ra cương lĩnh cơ bản
và tích cực đấu tranh cho các yêu cầu cụ thể của công đoàn.
Phong trào đấu tranh của công nhân và công đoàn ngày càng diễn ra
mạnh mẽ, đặc biệt là sau Quốc tế II được thành lập ngày 14-5-1889 và trong
những năm Chiến tranh thế giới lần thứ I tháng 8-1914. Thắng lợi Cách mạng
tháng 10 Nga 1917 đã làm vang dội thế giới, giải phóng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Nga, thành lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới,
phong trào công đoàn thế giới bước sang giai đoạn mới.
Trong thời kỳ này, công đoàn Xô Viết có một vị trí cực kỳ quan trọng
trong tổ chức công đoàn quốc tế. Từ sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10
Nga, phong trào công nhân và công đoàn đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước
khác trên thế giới như Ý, Hung-ra-ri& Sự ra đời của quốc tế III (1919) và
Công hội Đỏ (RILU) năm 1921 đã đánh dấu một bước tiến mới của công
đoàn thế giới.

Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa
ra đời thể hiện sự cân bằng lực lượng giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư
bản. Bấy giờ, tổ chức công đoàn đã tích cực tham gia quản lý kinh tế -xã hội.
9


Trong thời kỳ này, nhiều tổ chức công đoàn ra đời tiêu biểu nhất là Liên hiệp
công đoàn thế giới tháng 10-1945 (Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của tổ chức này từ năm 1949); Liên hiệp Quốc tế các công đoàn tự do (1949).
Những tổ chức công đoàn mang tính quốc tế này vẫn tồn tại cho đến ngày
nay.
Tuy nhiên, vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20, khi chế độ Xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào công đoàn thế giới đã có
những khủng hoảng về kinh nghiệm, mô hình tổ chức, nội dung và phương
pháp hoạt động. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Trung
Quốc, Cu-ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, công đoàn dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền đang tiến hành đổi mới để phù hợp với
tình hình mới.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường đang diễn ra sôi động trên phạm vi
toàn thế giới, các tập đoàn tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia đã áp
dụng chính sách đầu tư linh hoạt và phương pháp quản lý mềm dẻo, tăng
cường bóc lột công nhân. Thêm vào đó là tình hình việc làm của công nhân và
người lao động trên thế giới đang trở thành vấn đề lớn.Vì vậy, công đoàn thế
giới cần phải đổi mới, kiện toàn tổ chức công đoàn phải phấn đấu vươn lên
không ngừng vì sự nghiệp hoà bình thế giới, ổn định kinh tế xã hội và bảo vệ
người lao động.
Trải qua một thời gian dài phát triển, nhiều tổ chức công đoàn ở các
quốc gia đã có đủ điều kiện nhận thức và kinh nghiệm xây dựng tổ chức công
đoàn, vai trò và vị trí công đoàn ngày càng được khẳng định. Nhiều tổ chức
công đoàn đã đứng ra đấu tranh đòi dân chủ, công bằng xã hội, đưa ra nhiều

kiến nghị đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm, giải quyết việc làm, cải thiện đời
sống& cho người lao động. Từ khi ra đời cho đến nay, tổ chức công đoàn đã
có nhiều đóng góp đáng kể cho tiến trình cách mạng thế giới. Ngày nay, công
đoàn đã trở thành một tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị của nhiều
quốc gia.

10


Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn ở Việt Nam
Sau Đại chiến thế giới lần thứ I, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai
thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) ở nước ta. Đây là lúc giai cấp công nhân
Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến
cuối năm 1929, số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22.000 người với cơ
cấu thuần nhất, sống tập trung và phân bố đều trên địa bàn kinh tế cả nước.
Ảnh hưởng từ Cách mạng tháng 10 Nga và sau đó đặc biệt là với sự
truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào
công nhân Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển
biến từ tự phát sang tự giác, từ đó, sự hình thành và phát triển của tổ chức
công đoàn Việt Nam gắn chặt với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói,
từ khi Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập (tháng 61925) đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất
hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân nước
ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét ý thức giai cấp, mục đích
chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế buổi đầu đã dần dần
xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia vụ binh biến
Hắc Hải bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công hội đỏ
Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn chợ Quán, xưởng Ba Son. Trong cuộc
bãi công lịch sử ở Ba Son(tháng 8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn
lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử công nhân Việt Nam.
Cùng lúc ấy, một số công nhân và thuỷ thủ Việt Nam làm việc ở Pháp

và Trung Quốc được kết nạp vào Tổng công đoàn thống nhất Pháp và Hải
viên Công hội (Công nhân tàu biển). Từ mùa thu 1928, khi Kỳ bộ Bắc kỳ của
Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào vô sản
hoá thì Công hội đỏ càng lớn mạnh nhất là ở Bắc kỳ- trung tâm của phong
trào công nhân nước ta.
Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn
Đức Cảnh đã triệu tập Hội nghị Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ I vào ngày 28-71929 tại số nhà 15 Phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao
11


động, tạp chí Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận.
Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong
nước và đi đầu trong các cuộc bãi công mở đường cho việc thành lập Xô Viết
Nghệ Tĩnh. Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi
dự Đại hội Công hội đỏ quốc tế lần thứ VI ở Mát-xcơ-va. Khi ấy thông qua
Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú đã đi khảo sát phong trào công nhân Nam
Định Hải phòng, Hòn Gai& để viết bản Luận cương chính trị lịch sử. Được cử
làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày 20-1-1931 tại Sài Gòn, đồng chí
Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu tập Hội nghị công nhân
Đông Dương lần thứ I vạch ra phương hướng tổ chức và đấu tranh cho phong
trào công nhân và công đoàn.
Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) hưởng ứng
phong trào Đông Dương đại hội và đòi tự do cơm áo hoà bình dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương hàng ngàn cuộc bãi công của nửa triệu
công nhân tham gia đã nổ ra liên tiếp ở các thành phố lớn trong cả nước. Đầu
năm 1937 công nhân đấu tranh sôi sục đòi quyền tự do lập nghiệp đoàn ở Hà
Nội, Sài Gòn, Vinh& Mặc dù bọn phản động thuộc địa ngăn cản, nhiều nghiệp
đoàn vẫn được thành lập và tự do hoạt động, báo chí vẫn tự do xuất bản và
công khai tuyên truyền Chủ nghĩa Mác- Lênin. Chưa giành được toàn bộ

quyền tự do nghiệp đoàn, công nhân Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội lập các Hội
ái hữu ở khắp nơi.
Tháng 9-1939, Đại chiến Thế giới lần thứ II bùng nổ, các tổ chức của
công nhân và công bộ công đoàn phải rút vào bí mật.
Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám (1939-1945), Hội công
nhân cứu quốc - một lực lượng quan trọng của Mặt trận Việt Minh được thành
lập nhất là ở Bắc và Trung Bộ. Hội công nhân cứu quốc vừa bí mật đấu tranh
đòi quyền lợi hằng ngày, vừa tổ chức các đội võ trang làm nòng cốt cho cuộc
nổi dậy ở đô thị.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân lao động Việt Nam từ chỗ
12


là dân nô lệ mất nước đã đứng lên làm chủ đất nước, chủ xí nghiệp. Ngày 2-91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà- nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Để thực sự thống nhất về tổ chức công đoàn, Hội nghị cán bộ công nhân
cứu quốc họp ngày 20-5-1946 quyết định đổi Hội công nhân cứu quốc thành
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Ngày 20-7-1946, tại thủ đô Hà Nội, Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam chính thức tuyên bố thành lập đánh dấu bước
ngoặt của phong trào công đoàn Việt Nam với một tổ chức thống nhất và ổn
định thật sự trong cả nước.
Tháng 1-1949, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ I họp ở Thái
Nguyên đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng
làm Chủ tịch danh dự và đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch.
Trong sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp
giải phóng miền Nam (1954-1975), công đoàn Việt Nam lớn mạnh vượt bậc.
Ngày 14-9-1957, Quốc hội nhất trí thông qua Luật công đoàn qui định vai trò,
trách nhiệm, quyền hạn của công đoàn Việt Nam.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), trong Đại hội
công đoàn Việt Nam lần thứ II (tháng 2-1961), Tổng Liên đoàn lao động Việt

Nam đổi tên thành Tổng công đoàn Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới.
Tháng 2-1974, tiến hành đại hội Đại biểu lần thứ III.
Khi nước nhà đã thống nhất từ năm 1978 đến nay công đoàn Việt Nam
đã tiến hành 5 lần đại hội: Đại hội lần thứ IV (tháng 5-1978) và tiếp theo Đại
hội công đoàn Việt Nam lần thứ V (tháng 11-1983), Đại hội công đoàn lần VI
(tháng 10-1988), Đại hội công đoàn lần VII (tháng 11-1993), Đại hội công
đoàn lần VIII (tháng 11-1998). Đặc biệt tại Đại hội công đoàn lần VI, đại hội
quyết định đổi tên Tổng công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam nhằm xác định rõ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động
công đoàn không thể chú trọng đến đối tượng công nhân- viên chức trong các
cơ quan, doanh nghiệp nhà nước mà phải mở rộng đến mọi công nhân lao
động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cả doanh nghiệp có vốn
13


đầu tư nước ngoài.
Để định hướng và xây dựng nền tảng cho hoạt động công đoàn trong
giai đoạn mới, Nhà nước ta đã ban hành Luật công đoàn được Quốc hội thông
qua ngày 30-6-1990 thay cho Luật công đoàn 1957; đồng thời các kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Công đoàn Việt Nam đã thông qua Điều lệ Công đoàn
Việt Nam, và Điều lệ Công đoàn Việt Nam hiện hành được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX thông qua vào ngày 13/10/2003. Đại hội lần IX công
đoàn Việt Nam đã thành công tốt đẹp, với sứ mệnh lịch sử của mình công
đoàn sẽ tiếp tục là một nhân tố không thể thiếu được trong công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu không ngừng cho sự
nghiệp công đoàn, cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.
3.Tính chất của công đoàn Việt Nam
Tính chất là đặc trưng của sự vật nói nên cái này khác với cái kia. Tinh
chất của một tổ chức là “đặc điểm riêng” tương đối ổn định của tổ chức, phản
ánh thực tế khách quan về mục tiêu, tôn chỉ của tổ chức khi hình thành và

xuyên suốt trong quá trình phát triển, với các mối quan hệ, các nguyên tắc,
phương pháp tổ chức hoạt động.
Giai cấp công nhân vừa là nguồn gốc vừa là cơ sở xã hội hình thành,
tồn tại phát triển tổ chức công đoàn. Bởi công đoàn ra đời là bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Hình thức tổ chức của công đoàn là
liên hiệp công nhân lao động theo nghề nghiệp (Trade Union) và dựa trên
nguyên tắc tự nguyện…Từ những “đặc điểm riêng đó” đã xác định Công đoàn
ViệtNam có hai tính chất: tính chất quần chúng và tính chất giai cấp của giai
cấp công nhân.
*Biểu hiện tính chất giai cấp của giai cấp công nhân
- Công đoàn Việt Nam là tổ chức đoàn thể của giai cấp công nhân, ra
đời tồn tại phát triển nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của giai
cấp công nhân. - Công đoàn Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội
ngũ tiên phong của giai cấp công nhân; thực hiện mục tiêu, quán triệt nguyên
tắc tổ chức - tập trung dân chủ, đường lối xây dựng cán bộ của Đảng.
14


* Biểu hiện tính chất quần chúng
- Kết nạp Công nhân viên chức,người lao động vào tổ chức không
phân biệt nghề nghiệp tín ngưỡng thành phần…
- Cán bộ công đoàn trưởng thành từ phong trào quần chúng Công nhân
viên chức, người lao động và được họ tín nhiệm bầu ra.
- Nội dung hoạt động của Công đoàn đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng
của đông đảo Công nhân viên chức, người lao động.
Hai tính chất của Công đoàn có quan hệ gắn bó mật thiết phản ánh bản
chất của Công đoàn Việt Nam. Cần quán triệt sâu sắc hai tính chất này trong
tư tưởng chỉ đạo, xây dựng tổ chức và hoạt động, không coi trọng tính chất
hoặc xem nhẹ tính chất kia.
4. Vị trí của tổ chức Công đoàn trong điều kiện chính trị, xã hội

Công đoàn Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy Công đoàn
có một vị thế nhất định trong đời sống chính trị xã hội Việt Nam và trong tâm
thức của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam nói chung. Cụ thể
hơn vị trí Công đoàn Việt Nam còn được thể hiện trên cơ sở pháp lý, quy định
trong các văn bản pháp luật cơ bản, hiện hành và các văn bản dưới luật. Tại
khoản 1 Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam năm 1990 quy định: “Công đoàn là
thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam”.
Nghiên cứu vị trí của Công đoàn Việt Nam để từ đó biết được các mối
quan hệ với các tổ chức chính trị, xã hội khác nhằm thực hiện chức năng
nhiệm vụ của công đoàn:
- Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng.
- Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn
nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công
đoàn hoạt động.
- Với tổ chức chính trị, xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh Công, Nông, trí thức,
15


bình đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị
quyết liên tịch…)
5.Vai trò của Công đoàn Việt Nam
Vai trò của một tổ chức là nói đến sự tác động của tổ chức đó đến tiến
trình phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội và tư tưởng mà tổ chức đó tồn tại và phát triển. Sự tác động
của tổ chức công đoàn được dựa trên cơ sở tính chất, vị trí của tổ chức thông
qua các hoạt động phong trào cách mạng của quần chúng công nhân lao động.
Để các phong trào hành động cách mạng của quần chúng trước hết công đoàn

phải có quá trình tập hợp, tuyên truyền, hướng dẫn công nhân viên chức,
người lao động… Đó chính là vai trò trường học của Công đoàn. Vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong các thời kỳ:
-Thời kỳ chưa có chính quyền, Công đoàn có vai trò là trường học đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc.
-Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Công đoàn có vai trò là trường
học Chủ nghĩa xã hội của người lao động: Công đoàn tham gia quản lý sản
xuất, quản lý xí nghiệp…; tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, hoàn thiện các chính sách kinh tế…; giáo dục thái độ lao động mới,
giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, văn hoá, lối sống…
Ngày nay trong giai đoạn cách mạng mới, đất nước bước vào thời kỳ
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa vai trò của Công đoàn Việt Nam ngày càng
phát triển, mở rộng thông qua các phong trào cách mạng của tác động công
nhân viên chức, người lao động các lĩnh vực:
- Kinh tế: trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Công đoàn tham
gia đổi mới cơ chế quản lý, củng cố nguyên tắc tập trung mở rộng dân chủ,
đẩy mạnh hoạt động công đoàn trong các thành phần kinh tế, đảm bảo kinh tế
quốc doanh giữ vai trò then chốt, chủ đạo…
- Chính trị: Công đoàn là sợi dây chuyền nối tăng cường mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng với quần chúng công nhân viên chức, người lao động,
xây dựng giai cấp công nhân, củng cố khối liên minh công, nông và tri thức,
16


góp phần ổn định chính trị.
- Văn hoá - xã hội: Công đoàn tuyên truyền giáo dục công nhân viên
chức, người lao động chống tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng và phát triển
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ văn hoá
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, tính tích cực sáng tạo của công nhân viên
chức, người lao động.

6. Chức năng của Công đoàn Việt Nam
Chức năng của một tổ chức là sự phân công tất yếu, sự quy định chức
trách một cách tương đối ổn định và hợp lý trong điều kiện lịch sử - xã hội
nhất định. Chức năng của Công đoàn mang tính khách quan, nó được xác định
bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức Công đoàn. Song từng điều kiện lịch
sử và phát triển kinh tế, xã hội, các chức năng của Công đoàn được bổ sung
nội dung, ý nghĩa mới cho phù hợp. Công đoàn Việt Nam có ba chức năng.
*Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng
của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản
xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động.
*Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ
quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vị
chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của cơ
quan đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật.
*Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục động viên người lao
động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây
dựng và phát triển bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, đan
xen tương tác lẫn nhau. Trong đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao
động mang ý nghĩa trung tâm - mục tiêu hoạt động công đoàn. Từ các chức
năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của công đoàn.

17


7.Vai trò của Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vai
trò của Công đoàn không ngừng được nâng cao. Công đoàn không chỉ tổ

chức, thành lập trong khu vực Nhà nước mà còn phải mở rộng phạm vi hoạt
động ra các thành phần kinh tế khác để tập hợp đông đảo công nhân lao động
vào tổ chức Công đoàn. Đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động cho phù
hợp với nền kinh tế thị trường.
Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế nhà nước ngày càng thu hẹp từ
12.600 doanh nghiệp (năm 1990) đến ngày 31.12.2003 chỉ còn 5.231 doanh
nghiệp.
Trong những năm qua, công đoàn các cấp đã xây dựng được 10.434
công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn, hội nghề nâng tổng số Công đoàn cơ sở trong
cả nước đến đầu năm 2004 lên 58.619 công đoàn cơ sở với 4.055.720 đoàn
viên. Doanh nghiệp nhà nước trung ương là 1.903, doanh nghiệp nhà nước địa
phương là 3.328. Theo chiến lược sắp xếp, phát triển doanh nghiệp từ nay đến
năm 2010 thì nhà nước chỉ giũ lại khoảng 2.500 doanh nghiệp, số còn lại sẽ
cổ phần hóa, bán khoán, cho thuê.
Trước năm 1990, cả nước gần như không có doanh nghiệp kinh tế khu
vực ngoài quốc doanh, chỉ có các hộ kinh doanh cá thể. Đến năm 1992, cả
nước đã có 2.885 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, 550 dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Đến đầu năm 2004, cả nước đã
có 49.492 doanh nghiệp ngoài thành phần kinh tế nhà nước. Lĩnh vực đầu tư
nước ngoài có 2040 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 1337 doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, 677 doanh nghiệp liên doanh giữa Việt Nam và
nước ngoài. Tổng số lao động khu vực ngoài thành phần kinh tế nhà nước là
1.994.135 người.( Giáo trình Công tác Dân vận chương trình trung cấp lý luận
chính trị-Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – NXB. Lý luận chính trị
- 2004, trang 171 – 172.)

18


*Chăm lo,bảo về quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công

nhân,viên chức,lao động
Lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, viên chức lao động bao
gồm lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần. Lợi ích vật chất đối với công nhân viên
chức, lao động hiện nay là bảo đảm việc làm ổn định, phù hợp với năng lực,
trình độ, sức khỏe, thời gian lao động hợp lý, có thu nhập tương xứng với kết
quả lao động và bảo đảm đời sống của bản thân: gia đình, cải thiện điều kiện
lao động. Lợi ích tinh thần là mọi người được đối xử bình đẳng, được tạo điều
kiện, cơ hội như nhau trong lao động, học tập và công tác; được quan tâm đến
đời sống văn hóa.
Chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân,
viên chức lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người lao động, đến
sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước nói chung. Vì vậy, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công nhân, viên chức, lao động là vai trò quan trọng của công đoàn cơ sở.
Để hoạt động công đoàn cơ sở thực hiện tốt vai trò đại diện chăm lo,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức, lao
động, công đoàn cơ sở cần tập trung vào những hoạt động sau:
- Hướng dẫn, giúp đỡ người lao động ký giao kết hợp đồng với người
sử dụng lao động theo đúng quy định của Bộ luật lao động.
Trong quá trình sản xuất ở doanh nghiệp hình thành nên quan hệ lao
động dựa vào pháp luật lao động. Đó là mối quan hệ lao động mang tính chất
chung nhất của những người lao động và những người sử dụng lao động, ở
mọi loại hình doanh nghiệp, mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế. Còn khi
tập thể lao động và người sử dụng lao động đã ký Thỏa ước lao động tập thể
thì quan hệ đó đã mang những nét cụ thể dựa trên những đặc điểm của doanh
nghiệp, như trình độ công nghệ, ngành nghề, địa bàn sản xuất kinh doanh, khả
năng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực của
người lao động.
- Công đoàn cơ sở đại diện cho công nhân, viên chức, lao động tham
19



gia xây dựng Thỏa ước lao động tập thể: tổ chức cho công nhân, viên chức,
lao động tham gia xây dựng Thỏa ước lao động tập thể và đại diện cho công
nhân, viên chức, lao động thương lượng với người sử dụng lao động.
Thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động
và người sử dụng lao động (hoặc đại diện người sử dụng lao động) về điều
kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
trong quan hệ lao động.
Thỏa ước lao động tập thể là cơ sở pháp lý chủ yếu trong doanh nghiệp
để từ đó hình thành nên mối quan hệ lao động có tính tập thể, giữa tập thể lao
động với người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Thỏa ước lao động
tập thể tạo nên sự cộng đồng trách nhiệm của cả tập thể người lao động và
người sử dụng lao động, trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh
trong quan hệ lao động.
Thông qua Thỏa ước lao động tập thể, quyền lợi và nghĩa vụ của công
nhân, viên chức, lao động được bảo đảm như quy định của pháp luật, được áp
dụng vào điều kiện thực tế tại doanh nghiệp và có thể còn được hưởng nhiều
quyền lợi cao hơn các quy định của pháp luật.
Thỏa ước lao động tập thể tạo ra mối quan hệ hài hòa hơn giữa người
lao động và người sử dụng lao động. Thông qua việc thương lượng, ký kết
những nội dung của Thỏa ước lao động tập thể người lao động và người sử
dụng lao động hiểu nhau hơn. Vì vậy, hạn chế được những mâu thuẫn, bất
đồng không cần thiết, tạo điều kiện để người lao động và người sử dụng lao
động gắn bó với nhau hơn trong quan hệ lao động.
Thực hiện tốt Thỏa ước lao động tập thể sẽ tạo ra sự ổn định, hài hòa
trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Người sử dụng lao động cũng chính vì thế mà có nhiều
thời gian dành cho việc nghiên cứu thị trường đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng cường sức

cạnh tranh của doanh nghiệp...
Thỏa ước lao động tập thể là cơ sở, là công cụ có tính pháp lý, là căn
20


cứ để người lao động và người sử dụng lao động giao kết hợp đồng lao động,
đồng thời là cơ sở, là căn cứ để giải quyết các tranh chấp lao động về lợi ích.
Thông qua theo dõi, quản lý việc thương lượng, ký kết Thỏa ước lao động tập
thể của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, Nhà nước có những tài
liệu thực tiễn phong phú cần thiết để điều chỉnh các chế độ chính sách cho
phù hợp với điều kiện thực tế tại doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân.
- Công đoàn cơ sở thay mặt công nhân, viên chức, lao động ký kết
Thỏa ước lao động tập thể với chủ doanh nghiệp.
Tổ chức công đoàn đại diện tập thể công nhân, viên chức, lao động xây
dựng, thương lượng, ký kết Thỏa ước lao động tập thể với chủ doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động này, công đoàn cơ sở sâu sát công nhân lao động hơn,
hiểu rõ hơn hoạt động của doanh nghiệp và các chế độ, chính sách có liên
quan đến quyền và lợi ích của công nhân viên chức, lao động. Công đoàn đại
diện, mang tiếng nói của công nhân, viên chức, lao động đến người sử dụng
lao động, củng cố vị trí, tăng cường vai trò của công đoàn trong đơn vị. Thông
qua việc thương lượng, ký kết Thỏa ước lao động tập thể, công đoàn mang lại
quyền và lợi ích cho công nhân, viên chức, lao động như quy định của pháp
luật. Vì vậy, được người lao động tin tưởng, tạo ra sức thu hút, tập hợp người
lao động gia nhập tổ chức công đoàn và tham gia hoạt động công đoàn.
- Sau khi Thỏa ước lao động tập thể đã được ký kết, công đoàn vận
động, tổ chức công nhân, viên chức, lao động thực hiện tốt Thỏa ước lao động
tập thể và giám sát việc thực hiện những quy định trong Thỏa ước lao động
tập thể do các bên ký kết. Công đoàn cơ sở giám sát việc thực hiện pháp lệnh
bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động, chính sách bảo hiểm xã hội, y tế và

các biện pháp phòng ngừa bệnh nghề nghiệp...
- Tổ chức giúp đỡ công nhân, viên chức, lao động phát triển kinh tế gia
đình. Hoạt động chăm lo đến đời sống công nhân, lao động của tổ chức công
đoàn cơ sơ còn là tổ chức giúp đỡ công nhân lao động phát triển kinh tế gia
đình, làm giàu hợp pháp theo những điều kiện cụ thể của mỗi người. Công
21


đoàn tín chấp giúp công nhân, viên chức, lao động vay được vốn từ ngân hàng
để có vốn tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho gia
đình.
*Vai trò tham gia quản lý doanh nghiệp của Công đoàn cơ sở
Tham gia quản lý doanh nghiệp là một trong những vai trò của công
đoàn. Thực chất của tham gia quản lý doanh nghiệp là nhằm phát huy quyền
làm chủ của người lao động, bảo vệ lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài, lợi ích
cá nhân, lợi ích tập thể của người lao động.
Tùy theo điều kiện hoạt động của công đoàn cơ sở, việc thực hiện vai
trò này có nội dung khác nhau chia làm ba nhóm là: công đoàn cơ sở trong
các đơn vị hành chính sự nghiệp; công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp nhà nước;
công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Tuy
nhiên, dù ở đơn vị nào công đoàn cũng có chức năng tham gia quản lý dưới
các hình thức phù hợp, được quy định bởi pháp luật, thể hiện quyền làm chủ
của người lao động.
Vai trò của công đoàn cơ sở trong việc tham gia quản lý bao gồm:
- Tổ chức Đại hội công nhân viên chức, hoặc Hội nghị cán bộ công
chức theo quy định của pháp luật và hướng dẫn liên tịch của Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; xây dựng quan
hệ lao động hài hòa, tiến bộ giữa người sử dụng lao động và người lao động.
- Tổ chức các phong trào thi đua lao động sản xuất trong công nhân,
viên chức, lao động.

Tổ chức thi đua trong điều kiện hiện nay thực chất là khơi dậy truyền
thống yêu nước, yêu lao động sản xuất của giai cấp công nhân Việt Nam. Qua
phong trào thi đua mà rèn luyện công nhân, viên chức, lao động trở thành
những người lao động giỏi, có tác phong công nghiệp, có đạo đức xã hội chủ
nghĩa.
Phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động gồm nhiều nội
dung, như: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến nghiệp vụ, lề lối
công tác, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và các sáng chế, đổi mới thiết bị,
22


phương pháp sản xuất hiện đại nhằm từng bước tạo ra sự biến đổi về chất của
lực lượng sản xuất, đem lại hiệu quả to lớn cho đơn vị mình và cho toàn bộ xã
hội...
- Công đoàn có trách nhiệm tham gia với chuyên môn và các tổ chức,
đoàn thể trong đơn vị phối hợp tổ chức, chỉ đạo mọi hoạt động phát huy sáng
kiến, sáng chế; công đoàn tham gia xét duyệt, công nhận sang kiến, sáng chế
ở cơ sở, thúc đẩy phong trào lao động sáng tạo trong công nhân, viên chức,
lao động, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Công đoàn vận động công nhân, viên chức, lao động nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao, đạt
năng suất, chất lượng tốt, có tinh thần tự lực cánh sinh, đoàn kết giúp đỡ nhau
trong sản xuất hiệu quả lao động giỏi, tổng kết kinh nghiệm tổ chức phong
trào.
- Công đoàn động viên công nhân, viên chức, lao động thực hành tiết
kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây
dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa, phong trào thi đua người tốt,
việc tốt trong cơ quan doanh nghiệp...
Những phong trào này khi đã được công nhân, lao động ủng hộ, tham

gia tích cực sẽ không chỉ củng cố phát huy truyền thống thi đua yêu nước
trong giai cấp công nhân mà còn tạo động lực để hoàn thành nhiệm vụ công
tác, sản xuất, kinh doanh, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay.
- Tham gia xây dựng và giám sát thực hiện chế độ, chính sách, pháp
luật liên quan đến người lao động.
Tham gia xây dựng và giám sát thực hiện chế độ, chính sách pháp luật
liên quan đến người lao động là nhiệm vụ quan trọng của công đoàn. Công
đoàn tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo các văn bản, pháp luật, chính sách,
chế độ có liên quan thực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao
động; chủ động đề xuất những kiến nghị, các dự án luật ra trước cơ quan có
23


thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật; tổ chức cho công nhân, viên
chức, lao động thảo luận, tham gia ý kiến xây dựng luật, pháp lệnh liên quan
đến quyền nghĩa vụ và lợi ích của mình.
- Tham gia với các cấp quản lý nhà nước xây dựng và thực hiện chương
trình phát triển kinh tế - xã hội, các chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý
kinh tế, quản lý xã hội có liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của công
nhân, viên chức lao động, đặc biệt là các vấn đề về tiền lương, bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, nghỉ ngơi dưỡng sức...
Với tư cách đại diện cho người lao động, công đoàn có quyền kiến nghị
với các cơ quan nhà nước xử lý các hành động vi phạm quyền, lợi ích của
công nhân, viên chức, lao động theo quy định của pháp luật.
- Công đoàn tham gia triển khai thực hiện các chế độ chính sách về tiền
lương, về thi hành chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động
cho công nhân, viên chức, lao động, cho môi trường sinh thái.
Trong một số lĩnh vực, công đoàn có quyền được thỏa thuận với các
cấp quản lý trước khi thủ trưởng các cấp quản lý ban hành các quyết định văn

bản
- Đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban Thanh tra nhân
dân và Ủy ban Kiểm tra công đoàn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của công đoàn cơ sở là
tham gia xây dựng và giám sát thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật liên
quan đến công nhân, viên chức, lao động. Đậy là một nội dung của chức năng
tham gia quản lý của Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Các cấp công đoàn tham gia với cơ quan thanh tra nhà nước kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật như: kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về hợp đồng lao động; kiểm tra việc tuyển dụng và cho thôi
việc, tiền lương, tiền thưởng, bảo hộ lao động, thời gian làm việc và thời gian
nghỉ ngơi. Công đoàn giám sát việc thực hiện Thỏa ước lao động tập thể, giải
quyết các khiếu nại, tố cáo của người lao động.
24


×