1
PHẦN A. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài “Xác định thị trường liên quan và nhận điện vị trí thống lĩnh thị
trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam” được lựa chọn
nằm trong chuỗi hoạt động nghiên cứu pháp luật thuộc lĩnh vực kinh tế ở nước ta,
mà cụ thể hơn là pháp luật về cạnh tranh được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan. Với đề tài này, giúp những người nghiên cứu về vấn
đề này có thể hiểu được khái niệm, cách xác định thị trường liên quan một cách
chính xác nhất theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Bên cạnh đó, những
người nghiên cứu cũng sẽ hiểu được khái niệm, các trường hợp vị trí thống lĩnh trị
trường hiện nay theo pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam. Trong bối cảnh hiện tại,
với việc nước ta đang trong thời kỳ mở cửa và phát triển kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp từ đó cũng trở nên đông đúc, chật chội hơn thì việc nghiên cứu về đề
tài này rất cần thiết để việc kinh doanh của các doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao
mà không bị vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành.
2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Với đề tài “Xác định thị trường liên quan và nhận điện vị trí thống lĩnh thị
trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam” chúng ta cần
làm rõ những vấn đề như sau:
Thứ nhất, về việc xác định thị trường liên quan, cần phải nghiên cứu:
- Các khái niệm có liên quan đến thị trường liên quan.
- Xác định tính thay thế cho sản phẩm.
- Xác định thị trường địa lý liên quan.
- Xác định các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan.
- Đánh giá tầm quan trọng của việc xác định thị trường liên quan.
Thứ hai, về việc nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường, cần phải nghiên cứu:
- Các khái niệm có liên quan để nhận định vị trí thống lĩnh thị trường theo
-
pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
Doanh nghiệp như thế nào thì được xác định là có vị trí thống lĩnh thị trường
-
theo pháp luật hiện hành.
Các đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định
-
của pháp luật hiện hành.
Các vụ việc thực tế của hành vi vi phạm pháp luật về lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường.
Bên cạnh đó, cũng sẽ nêu lên những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp
luật Việt Nam về xác định thị trường liên quan và nhận diện vị trí thống lĩnh thị
trường hiện tại. Từ đó, đề xuất những ý kiến của cá nhân để khắc phục những hạn
1
2
chế, bất cập trên phù hợp với pháp luật Việt Nam và cũng như trên thực tiễn của xã
hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây được xác định đó là thị trường liên quan và vị trí
thống lĩnh thị trường theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu ở đây được xác định đó là các tổ chức kinh tế, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty một thành viên, công ty từ hai thành viên trở lên, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân… (sau đây gọi chung là doanh
nghiệp) đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam hiện nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Bên cạnh các kiến thức của bản thân có được thì với sự tư vấn của GVHD, các
phương pháp nghiên cứu lý luận để lấy thông tin được áp dụng cho đề tài này bao
gồm những phương pháp sau: Thứ nhất, nghiên cứu qua tài liệu đọc như các văn
bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh; sách báo về pháp luật cạnh tranh; các bài
báo cáo, tiểu luận có liên quan; các tạp chí khoa học và pháp luật,…Thứ hai, nghiên
cứu qua mạng internet, cụ thể là bằng những đường link dẫn đến địa chỉ có tài liệu
liên quan đến đề tài này.
Các chương trong tiểu luận sẽ được triển khai nghiên cứu và sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Chương 1: Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, liệt kê,… để làm rõ cơ
sở về mặt lý luận trong đề tài
- Chương 2: Phương pháp lịch sử, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn và tổng
-
hợp được áp dụng để hoàn thành cơ sở về mặt thực tiễn của bài tiểu luận.
Chương 3: Phương pháp liệt kê, phân tích và tổng hợp sẽ là các phương pháp
chủ yếu để có thể đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trong quy định của pháp luật cạnh tranh của Việt Nam vế thị trường liên quan.
-
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sau khi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu về lý luận, tôi sẽ bắt đầu đưa
ra tình huống, vụ án thực tế liên quan về xác định thị trường liên quan và nhận điện
vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
2
3
Qua đó, sẽ có cái nhìn một cách thực tiễn, tổng quan hơn cho đề tài của bài tiểu luận
và từ đó có thể áp dụng dễ dàng hơn vào thực tế trong xã hội.
5. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Với vấn đề này, tôi sẽ tập trung nghiên cứu vào phần nhận điện vị trí thống
lĩnh thị trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam. Ở
Chương 2, tôi sẽ đưa ra một vụ việc thực tế. Cụ thể, là vụ việc về bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh (một trong
các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm quy định tại Khoản 1, Điều
13, Luật của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 27/2004/QH11
ngày 03 tháng 12 năm 2004 quy định về cạnh tranh). Bên cạnh đó, trong bài cũng sẽ
nêu lên một số vấn đề về xác định vị trí thị trường liên quan theo quy định của pháp
luật về cạnh tranh để bài tiểu luận được hoàn thiện.
6. NHỮNG GIÁ TRỊ ĐÓNG GÓP
6.1. Tính thực tiễn
Đề tài mang tính thực tiễn cao vì khách thể được nghiên cứu ở đây là các doanh
nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra, vấn đề nghiên cứu được quy định
trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam, mà cụ thể là Luật của Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 27/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 quy
định về cạnh tranh (Sau đây gọi tắt là Luật Cạnh tranh 2004). Qua đó, có thể nhìn
nhận một cách khách quan nhất, phù hợp nhất về thị trường liên quan, cũng như
nhận điện vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh
Việt Nam. Bên cạnh đó, những nghiên cứu của bài tiểu luận sẽ là tài liệu tham khảo
có giá trị trong công tác nghiên cứu lập pháp cũng như thực tiễn thi hành pháp luật
về cạnh trạnh trong lĩnh vực xác định thị trường liên quan và nhận diện được vị trí
thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Khả năng triển khai và ứng dụng thực tế
Trong thời kỳ kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng, cùng với việc ngày
càng có nhiều doanh nghiệp mọc lên hiện nay thì cạnh tranh là quy luật cơ bản của
nền kinh tế thị trường, đồng thời là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Ngoài ra, việc nghiên cứu về vấn đề này sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ hơn
như thế nào là thị trường liên quan và vị trí thống lĩnh thị trường. Từ đó, các doanh
3
4
nghiệp có thể không vi phạm phải các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh do
vấn đề trên gây ra dựa vào các giải pháp được nghiên cứu trong bài tiểu luận.
6.3. Hiệu quả về mặt xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, chúng ta đang
đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH đất nước với phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong 5 năm (2016 - 2020) được xác định, đó là:
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”1 Như vậy, việc nghiên cứu về vấn
đề thị trường liên quan và thống lĩnh thị trường sẽ là một cách để giúp cho các
doanh nghiệp trong nước cạnh tranh lành mạnh, mang lại kết quả cao trong sản
xuất, tạo nguồn thu ổn định. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội phát triển nói
riêng và hoàn thành được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra nói trên.
7. CẤU TRÚC TIỂU LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp
luật cạnh tranh Việt Nam;
Chương 2: Cơ sở thực tiễn về nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp
luật cạnh tranh Việt Nam;
Chương 3: Giải pháp.
PHẦN B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬN DIỆN VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và thuật ngữ
1.1.1Khái niệm và thuật ngữ về thị trường
Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để
tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi Doanh
1
ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, 2016, Tr.
89.
4
5
nghiệp. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, khái niệm về thị trường ngày
càng chở nên phong phú và đa dạng.
Theo Karl Marx đã nói, “hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao động xã
hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị trường chẳng
qua là sự biểu hiện của phân công lao động Xã hội và do đó có thể phát triển vô
cùng tận”.
Theo cách hiểu thông thường của các doanh nghiệp và trong kinh doanh, thị
trường được xem tương tự như là “chiến trường”, nơi mà ở đó không có sự khoan
nhượng về cạnh tranh về khả năng chiếm lĩnh, phân phối sản phẩm, thực hiện các
giao dịch giữa bên bán và bên mua.
Theo maketing, thị trường bao gồm tất cả khách hàng hiện có và tiềm
năng có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, có khả năng và sẵn sàng tham
gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hoặc mong muốn đó.
Còn trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, đó là nơi có các quan
hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có quan
hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào.
Như vậy, có hiểu khái quát về thị trường đó là nơi chuyển giao quyền sở hữu
sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về
một loại sản phẩm nhất định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng
và giá cả cần thiết của sản phẩm, dịch vụ. Thực chất, thị trường là tổng thể các
khách hàng tiềm năng cùng có một yêu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có
khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó. Hay nói một cách dễ hiểu hơn,
thị trường đó là nơi người mua và người bán (hay người có nhu cầu và người cung
cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa
và dịch vụ. 2
1.1.2 Khái niệm và thuật ngữ về thị trường liên quan
2
Thị_trường, cập nhật ngày 05/11/2017.
5
6
Theo Luật của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Luật số
27/2004/QH11) ngày 03/12/2004 về cạnh tranh (sau đây gọi tắt là Luật Cạnh tranh
2004) quy định về thị trường liên quan tại Khoản 1, Điều 3 và theo Nghị định
116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 Nghị định quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Cạnh tranh (sau đây gọi tắt là Nghị định 116/2005/NĐCP) như sau:
Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường
địa lý liên quan. Trong đó:
- Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hoá, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả;
- Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những
hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự
và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận.
1.1.3 Khái niệm và thuật ngữ về thị phần và thị phần kết hợp
1.1.3.1 Khái niệm và thuật ngữ về thị phần
Theo Khoản 5, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2014, thì thị phần của doanh nghiệp
đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định được quy định đó là tỷ lệ phần trăm
(%) giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ
% giữa doanh số mua vào của của tất cả các doanh nghiệp này với doanh số mua
vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường
liên quan theo tháng, quý, năm.
Như vậy, ta có thể đưa ra công thức tính thị phần của một doanh nghiệp như
sau:
Doanh thu của doanh nghiệp x 100%
Thị phần của doanh nghiệp (%) =
Tổng doanh thu của các doanh nghiệp
Hoặc:
Doanh số mua vào của doanh nghiệp x 100%
Thị phần của doanh nghiệp (%) =
Tổng doanh số mua vào của các doanh nghiệp
6
7
1.1.3.2 Khái niệm và thuật ngữ về thị phần kết hợp
Theo quy định tại Khoản 6, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2014 thì thị phần kết
hợp được hiểu, đó là “tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp
tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế.” Như vậy, khi
xác định tính chất vi phạm của một số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (trong đó có
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền) hay một số hành vi tập trung
kinh tế còn cần phải xác định thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia vào
các hành vi đó.
1.1.4 Khái niệm và thuật ngữ về vị trí thống lĩnh thị trường vả vị trí
độc quyền theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
1.1.4.1 Khái niệm và thuật ngữ về vị trí thống lĩnh thị trường
Pháp luật cạnh tranh không quy định cụ thể về vị trí thống lĩnh thị trường mà
chỉ quy định một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường khi thuộc
một trong hai các trường hợp sau3:
Thứ nhất, doanh nghiệp đó có thị phần từ 30% trở lên thị trường liên quan;
Hoặc
Thứ hai, doanh nghiệp đó có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể. Khả năng này được xác định dựa vào một hoặc một số trong các căn cứ quy
định tại Điều 22, Nghị định 116/NĐ-CP, bao gồm:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp;
- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp;
- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động
-
của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp;
Năng lực tài chính của công ty mẹ;
Năng lực công nghiệp;
Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
Quy mô của mạng lưới phân phối;
Các căn cứ khác mà cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh cho là phù
hợp.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam thiết lập căn cứ để xác định vị trí thống
lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ dựa vào thị phần hoặc tiềm năng kinh tế của
doanh nghiệp đó. Hai căn cứ này được quy định tách rời nhau. Theo đó, nếu một
doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên thì được xem là có vị trí thống lĩnh thị
trường mà không cần xem xét bất kỳ điều kiện nào khác. Ngoài ra, nếu doanh
3
Điều 11, Luật Cạnh tranh 2004.
7
8
nghiệp có thị phần dưới 30% nhưng lại có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể, thì vẫn được xem là có vị trí thống lĩnh.
Ngoài ra, pháp luật Cạnh trạnh cũng quy định trường hợp nhóm doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường phải cùng hành động với nhau nhằm mục đích là gây hạn
chế cạnh tranh giữa họ với doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) khác và phải
đáp ứng về điều kiện về thị phần kết hợp trên thị trường theo quy định tại Khoản 2,
Điều 11, Luật Cạnh tranh 2004.
1.4.1.2 Khái niệm và thuật ngữ vị trí độc quyền
Vị trí độc quyền là một trường hợp đặc biệt của vị trí thống lĩnh. Doanh
nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh
về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường thị trường liên
quan.4 Trong trường hợp này, thị phần của doanh nghiệp là 100%.
Như vậy, độc quyền có nghĩa là trên thị trường chỉ có một doanh nghiệp
chiếm giữ vai trò độc tôn, toàn quyền kinh doanh một loại sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ nhất định nào đó mà không có doanh nghiệp nào khác kinh doanh doanh sản
phẩm, dịch vụ có thể thay thế cho sản phẩm, dịch vụ đó. Nói cách khác, độc quyền
có nghĩa là không còn cạnh tranh hoặc không có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trên một thị trường liên quan. Thông thường, có hai dạng biểu hiện của lạm dụng
độc quyền là:
- Lạm dụng để duy trì, củng cố quyền lực;
- Lạm dụng để khai thác quyền lực.5
1.2 Điều kiện để doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường
1.2.1 Điều kiện để doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Như đã nêu ở phần khái niệm và thuật ngữ vị trí thống lĩnh thị trường, thì
doanh nghiệp đó phải có thị phần trên 30% trên thị trường hoặc có các năng lực
nhằm cạnh hạn chế cạnh tranh thì doanh nghiệp đó được xác định là doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường.
1.2.2 Điều kiện để nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
4
Điều 12, Luật Cạnh tranh 2004.
5
PGS. TS. Nguyễn Như Phát, Th.S Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận
giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr.259.
8
9
Như đã nêu ở phần khái niệm và thuật ngữ vị trí thống lĩnh thị trường, thì
nhóm doanh nghiệp đó phải đáp ứng đủ hai điều kiện. Đó là:
Thứ nhất, nhóm doanh nghiệp này phải cùng nhau thực hiện với mục đích
nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Trong trường hợp, khi xác định được một
trong nhóm doanh nghiệp đó không cùng thực hiện với một hoặc các doanh nghiệp
còn lại trong nhóm doanh nghiệp để nhằm mục dích hạn chế cạnh tranh thì doanh
nghiệp đó không được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định của pháp
luật về cạnh tranh. Đây là điều kiện đầu tiên để xác định nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh.
Thứ hai, nhóm doanh nghiệp cần phải có thị phần kết hợp tương xứng. Cụ
thể:
Đối với nhóm doanh nghiệp có hai doanh nghiệp cùng tham gia thì tổng thị
phần kết hợp phải đạt từ 50% trở lên trên thị trường liên quan.
Đối với nhóm doanh nghiệp có ba doanh nghiệp cùng tham gia thì tổng thị
phần kết hợp phải đạt từ 65% trở lên trên thị trường liên quan.
Đối với nhóm doanh nghiệp có bốn doanh nghiệp cùng tham gia thì tổng thị
phần kết hợp phải đạt từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Như vậy, nếu cứ tăng thêm một doanh nghiệp cùng tham gia thì tổng thị phần
kết hợp sẽ tăng dần từ 10 đến 15%, cho tới khi lên đến 100%. Tuy nhiên, pháp luật
cạnh tranh đã quy định nếu thị phần trên thị trường liên quan đạt 100% thì sẽ trở
thành vị trí độc quyền mà không còn là vị trí thống lĩnh thị trường nữa. Bên cạnh
đó, theo lý giải của cơ quan quản lý vụ việc cạnh tranh thì trường hợp từ năm doanh
nghiệp trở lên cùng kết hợp nhằm hạn chế cạnh tranh là rất khó xảy ra. Vì vậy, pháp
luật cạnh tranh chỉ quy định cao nhất cho nhóm doanh nghiệp là bốn doanh nghiệp
cùng tham gia nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Tuy
nhiên, câu lý giải này thực sự chưa thực sự thỏa đáng vì trong cuộc sống ngày nay,
việc gì cũng có thể xảy ra, cho dù nó có khó xảy ra đến mức nào đi nữa. Vì vậy, liệu
rằng, chỉ quy định nhóm doanh nghiệp cao nhất là bốn doanh nghiệp này có thể
xem là một sự thiếu sót của pháp luật cạnh tranh?
1.3 Các hành vi vi phạm pháp luật của vị trí thống lĩnh thị trường theo
pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Luật Cạnh tranh 2004 không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh mà chỉ liệt kê nhưng hành vi bị coi là lạm dụng vị trí thống
lĩnh. Theo đó, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể hiểu là những
9
10
hành vi do doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
thực hiện nhằm củng cố vị trí thống lĩnh bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra
khỏi thị trường; ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị
trường, phát triển kinh doanh dẫn đến những sai lệnh về cạnh tranh trên thị trường
hoặc nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng cách bóc lột khách hàng. Đối tượng mà
các hành vi này hướng đến là đối thủ cạnh tranh. Những hành vi lạm dụng này có
thể không đem lại lợi ích vật chất trực tiếp nhưng tạo cơ hội cho doanh nghiệp củng
cố địa vị bằng cách loại bỏ đối thủ làm giảm bớt sức ép cạnh tranh, đồng thời làm
mất đi cơ hội có được sự lựa chọn trong giao dịch trên thị trường liên quan. Điều
13, Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê cụ thể 06 hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường và bị pháp luật cấm. Cụ thể như sau:
1.3.1 Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh (Khoản 1)
Hành vi này là việc doanh nghiệp bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với
giá thấp hơn giá thành toàn bộ để thu hút khách hàng và gây khó khăn cho những
doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng hoặc cung ứng cùng một loại dịch
vụ. Theo đó, cơ quan quản lý thị trường chỉ cần xác định và tính toán tất cả các chi
phí đã được doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất, kinh doanh sản phẩm và giá bán thực
tế của chúng rồi đem so sánh với nhau; nếu hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ với
mức giá gây lỗ thì mặc nhiên sẽ được coi là định giá hủy diệt nếu doanh nghiệp
thực hiện hành vi có quyền lực thị trường và hành vi đó không thuộc những trường
hợp đặc biệt được quy định tại Khoản 2, Điều 23, Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
1.3.2 Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định
giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng (Khoản 2)
Theo quy định tại Điều 13, Luật Cạnh tranh 2004 và Điều 27, Nghị định
116/2005/NĐ-CP thì nhóm hành vi này có ba loại vi phạm cụ thể sau:
- Thứ nhất là, hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý
gây thiệt hại cho khách hàng nếu giá mua tại cùng thị trường liên quan được đặt ra
thấp hơn giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện sau: Chất lượng hàng
hóa, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó;
10
11
không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm
giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm tới mức
dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó.
- Thứ hai là, hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây
thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hóa, dịch vụ không tăng đột biến tới mức
vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn
hai điều kiện sau: Giá bán lẻ trung bình cùng thị trường liên quan trong thời gian tối
thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5% hoặc tăng nhiều lần
với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu
đó; không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch
vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng
giá.
- Thứ ba là, hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là
việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa
thấp hơn mức giá đã quy định trước.
Với hành vi này, khách hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải
mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp
hơn giá thành thực. Giá mua, giá bán sản phẩm trên thị trường không được hình
thành từ cạnh tranh mà do các doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Do đó, hành vi này
được coi là hành vi điển hình mang tính chất bóc lột khách hàng.
1.3.3 Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị
trường, cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khác hàng
(Khoản 3)
Doanh nghiệp thống lĩnh phần lớn thị trường là người nắm giữ thị phần lớn
nên đại diện cho năng lực, quy mô sản xuất, mua bán của thị trường liên quan, các
quyết định về hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, mua, bán sẽ ảnh hưởng đến mức độ
thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng. Do ở vào địa vị thấp hơn trong giao dịch bởi
quyền lựa chọn bị hạn chế nên khi bị vi phạm quyền lợi, khách hàng khó có thể
phản ứng lại vì không thể sử dụng các cơ chế của thị trường để răn đe doanh
nghiệp. Nhóm hành vi này bao gồm ba loại hành vi cụ thể:
11
12
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi giảm khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ một cách giả tạo để làm biến
động quan hệ cung – cầu theo hướng có lợi cho doanh nghiệp trong giao dịch với
khách hàng. Hành vi này được thực hiện bằng những cách thức sau:
+ Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so
với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó trong điều kiện không có biến động
lớn về quan hệ cung cầu; không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa; không
có sự cố lớn về kỹ thuật; hoặc không có tình trạng khẩn cấp.
+ Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo khan hiếm trên
thị trường.
+ Găm hàng lại không bán để gây mất ổn định thị trường.
- Giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh đã tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm mà
không có lý do chính đáng gây thiệt hai cho khách hàng. Quyền tự do kinh doanh là
quyền của doanh nghiệp nhưng việc giới hạn thị trường gây thiệt hại bị coi là vi
phạm pháp luật cạnh tranh khi doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện một
trong hai hành vi sau:
+ Chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong một hoặc một số khu vực địa lý nhất
định.
+ Chỉ mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung nhất định trừ
trường hợp các nguồn cung khác không đáp ứng được những điều kiện hợp lý và
phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên mua đặt ra.
- Cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là việc
doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên cứu phát triển kĩ
thuật, công nghệ hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ khoa học hoặc kĩ thuật và
hoạt động kinh doanh. Hành vi này bao gồm các loại hành vi sau:
+ Mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc
không sử dụng. Doanh nghiệp thực hiện hành vi không phải là tác giả mà là người
mua lại sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp từ các chủ thể khác.
12
13
+ Đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ
phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó.
1.3.4 Hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các giao
dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng trong cạnh tranh (Khoản 4)
Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các
doanh nghiệp về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong
những giao dịch mua, bán háng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất
hàng hoá, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi
hơn so với doanh nghiệp khác.
1.3.5 Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (Khoản 5)
Nhóm hành vi này có hai loại hành vi sau:
- Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:
+ Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung cứng dịch vụ
khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của
pháp luật về đại lý;
+ Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục
mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của
pháp luật;
+ Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa quy
định tại Điểm b, Khoản này;
+ Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
13
14
Theo đó, doanh nghiệp đã buộc khách hàng khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ phải
chấp nhận các điều kiện có nội dung hạn chế cạnh tranh. Ngoài nghĩa vụ của bên
mua hoặc bên bán hàng hóa, dịch vụ, khác hàng phải chấp nhận thêm các điều kiện
ký kết hợp đồng do doanh nghiệp đặt ra.
- Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến
đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng
của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người
được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm
vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.
1.3.6 Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh
mới (Khoản 6)
Đối thủ cạnh tranh mới là doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường.
Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo
ra những rào cản sau đây:
- Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới. Đây
được coi là hành vi thâu tóm khách hàng. Bằng việc yêu cầu khách hàng của mình
không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới, các doanh nghiệp đã tạo ra những khó
khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm tăng chi phí sản xuất, kinh doanh của
đối thủ.
- Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
- Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường trừ những trường hợp pháp luật cho phép. Chiến lược ngăn cản qua giá được
thực hiện để làm cho các nhà kinh doanh có ý định gia nhập phải cân nhân nhắc khả
năng có được lợi nhuận hay không với mức hiện tại.6
6
Chu Minh Khôi (2016), Phân tích các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường bị cấm. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Phân tích các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm, ngày cập nhật 15/11/2017.
14
15
Kết luận Chương 1
Xác định vị trí thống lĩnh trên thị trường là một nhiệm vụ không hề đơn giản,
đòi hỏi người xác định vị trí thống lĩnh phải có không gian và thời gian, có kiến
thức sâu rộng về pháp luật (cụ thể là về pháp luật cạnh tranh), hiểu rõ về các quy
định của pháp luật có liên quan, nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh
nghiệp được xác định là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh,... Khi đã xác định được
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường hay chưa thì việc xác định được
loại hành vi cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn trên phương diện lý thuyết.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định loại hành vi của doanh nghiệp đang có
vị trí thống lĩnh cũng không phải đơn giản trong trường hợp doanh nghiệp đó tạo
“một tấm lá chắn vô hình” để che mắt các cơ quan điều tra về vụ việc cạnh không
có chứng cứ, chứng minh xác nhận rằng doanh nghiệp này đang vi phạm về vấn đề
gì trong pháp luật cạnh tranh (mà cụ thể ở đây, đó là hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh trên thị trường).
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NHẬN DIỆN VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
2.1 Vụ việc thực tiễn về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
2.1.1. Vụ việc
Megastar là một trong những tên tuổi hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực giải
trí tại thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, theo các thông tin được đưa trên các
phương tiện truyền thông, sáu doanh nghiệp ngành điện ảnh đã nộp đơn đến Cục
Quản lý cạnh tranh để khiếu nại Megastar với lý do Megastar đã có hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Cụ thể, sáu doanh nghiệp trên đã khiếu kiện
Megastar với các lý do như sau:
Thứ nhất, theo phân tích của các doanh nghiệp đứng đơn, hiện nay 90% các
phim nhựa chiếu rạp là phim nước ngoài, được các doanh nghiệp nhập khẩu từ các
hãng sản xuất phim nước ngoài. Với mỗi phim, hãng sản xuất phim nước ngoài ký
hợp đồng với một doanh nghiệp để doanh nghiệp này nhập khẩu và phân phối lại
phim cho các doanh nghiệp khác trong nước. Các doanh nghiệp này cũng thống kê
rằng, Megastar thường chiếm khoảng 50% số phim nhập khẩu mỗi năm. Cụ thể,
tổng phim nhập khẩu trong năm 2009 là 106 phim, riêng Megastar nhập 50 phim.
Bên khiếu nại cũng cho rằng, doanh thu từ hoạt động phân phối phim nhựa nhập
15
16
khẩu của Megastar trong thời gian qua dao động từ 34% đến 75% tổng doanh thu
trên thị trường phân phối phim nhựa nhập khẩu tại Việt Nam.
Thứ hai, bên khiếu nại cho rằng, Megastar đã vi phạm Luật Cạnh tranh khi
có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Cụ thể là việc Megastar áp đặt giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng khi áp dụng chính
sách định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem. Hiểu nôm na, với mỗi phim
mà Megastar phân phối cho các doanh nghiệp khác chiếu, Megastar thu 25.000
đồng trên mỗi vé mà các doanh nghiệp này bán ra. Bên khiếu nại cho rằng, cách thu
này của Megastar (áp dụng từ đầu tháng 6/2009) đã khiến các doanh nghiệp phải
nâng giá vé để tránh lỗ và kết quả là khán giả bị thiệt hại do giá vé tăng.
Thứ ba, ngoài ra, bên khiếu nại cũng cho rằng Megastar đã áp đặt điều kiện
trong quan hệ giữa các bên. Cụ thể, Megastar buộc các doanh nghiệp này phải thuê
thêm phim khác kèm theo phim muốn thuê.
Ví dụ, muốn có phim Transformers (một phim thuộc dạng “bom tấn”, hút
khách) thì Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân (Galaxy) phải lấy kèm phim Ice
Age (là một phim hoạt hình).
Bên khiếu nại còn nêu việc Megastar đã buộc các doanh nghiệp này phải
chiếu những phim do Megastar phân phối tại những phòng chiếu do Megastar chỉ
định. Hành vi này bị bên khiếu nại cho là Megastar đã áp đặt điều kiện cho các
doanh nghiệp.
2.1.2. Bình luận về vụ việc
Về nguyên tắc, một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp này có
khả năng tác động lớn đến cạnh tranh trên thị trường. Theo qui định của Luật Cạnh
tranh Việt Nam, có hai cách để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên
thị trường liên quan, hoặc doanh nghiệp tuy không có thị phần từ 30% trở lên trên
thị trường liên quan nhưng doanh nghiệp này có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể.
Từ quy định này, có thể xác định một doanh nghiệp khi đã có thị phần từ trên
30% trên thị trường liên quan thì doanh nghiệp này đương nhiên có vị trí thống lĩnh
mà không cần phải xem xét đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này.
Luật Cạnh tranh 2004 cũng đã xác định: Thị phần của doanh nghiệp đối với
một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của
doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại
16
17
hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số
mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng,
quý, năm.
Con số 30% trên có thể là 30% tổng số mua vào hoặc 30% tổng số bán ra.
Lập luận của các bên khi khiếu nại Megastar đã khẳng định, Megastar là doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường xuất phát từ chỗ 90% các phim nhựa chiếu rạp
là phim nước ngoài, được các doanh nghiệp nhập khẩu từ các hãng sản xuất phim
nước ngoài. Với mỗi phim, hãng sản xuất phim nước ngoài ký hợp đồng với một
doanh nghiệp để doanh nghiệp này nhập khẩu và phân phối lại phim cho các doanh
nghiệp khác trong nước. Các doanh nghiệp này cũng thống kê rằng Megastar
thường chiếm khoảng 50% số phim nhập khẩu. Cụ thể, tổng phim nhập khẩu trong
năm 2009 là 106 phim, trong đó, riêng Megastar đã nhập tới 50 phim.
Tuy nhiên, để khẳng định Megastar là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường thì cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh phải xác định doanh số mua vào của
Megastar chiếm từ 30% trở lên tổng doanh số mà tất cả các nhà nhập khẩu phim của
Việt Nam bỏ ra để nhập khẩu phim. Còn nếu chỉ căn cứ vào số lượng phim nhập
khẩu của Megastar thì chưa đủ cơ sở để kết luận Megastar chiếm vị trí thống lĩnh
hay chưa. Câu trả lời còn phải chờ kết luận từ phía cơ quan quản lý cạnh tranh. Do
vậy, những phân tích tiếp sau đây chỉ có ý nghĩa khi xác định được Megastar là
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường tại Việt Nam trong lĩnh vực phân phối
phim chiếu lại tại Việt nam.
2.1.2.1 Vụ việc được coi là hành vi áp đặt giá bán bất hợp lí
Mỗi phim mà Megastar phân phối cho các doanh nghiệp khác chiếu,
Megastar thu 25.000 đồng trên mỗi vé mà các doanh nghiệp này bán ra. Vậy hành
vi này là một hành vi kinh doanh bình thường hay là hành vi “áp đặt giá bán bất hợp
lí” vi phạm Luật Cạnh tranh như sáu công ty trên khiếu nại?
Theo Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Cạnh tranh thì hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là
bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng
đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh
nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
17
18
a) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu
60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với
tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
b) Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa,
dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu
tăng giá.
Ranh giới để phân định hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh và hành vi kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận hợp pháp của doanh nghiệp trong trường hợp này là rất
mong manh. Điều này xuất phát từ đặc thù của việc kinh doanh trong lĩnh vực phim
ảnh. Về bản chất, người xem phim có nhu cầu xem ngay khi phim vừa mới phát
hành (đặc biệt là những phim ăn khách, còn gọi là phim “bom tấn”). Theo quy luật
cung cầu, trong trường hợp này giá của phim sẽ cao. Và còn có nhiều cách để tính
giá khi nhập khẩu và phân phối lại cho các công ty khác chiếu.
Theo hướng dẫn của Nghị định 116/2005/NĐ-CP, áp đặt giá bán bất hợp lý
hay không thường được nhìn trong một tiến trình. Theo đó, nếu nhu cầu không tăng
đột biến mà giá bán của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường áp đặt tăng quá
5% theo cách được hướng dẫn tại Khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP,
thì có cơ sở để kết luận là hành vi áp đặt giá bất hợp lý. Một điều quan trọng là thời
gian khảo sát kéo dài 60 ngày. Trong khi đó, một bộ phim được nhập khẩu về
thường sẽ được khởi chiếu ngay. Ít khi nào bộ phim được chiếu liên tục trong một
thời gian dài. Do vậy, một cách tất yếu, muốn thu hồi khoản tiền bỏ ra cộng với lợi
nhuận, nhà phân phối phải tính toán như thế nào đó để đạt được mục tiêu trên trong
một khoản thời gian ngắn.
Về nguyên tắc, luật không cấm việc tính phí trên mỗi vé bán ra. Do đó, dưới
góc độ luật học thì việc tính 25.000 đồng trên mỗi vé bán là chuyện bình thường.
Với những gì vừa phân tích, khó có cơ sở để khẳng định Megastar có hành vi áp đặt
giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng.
2.1.2.2 Vụ việc đã áp đặt điều kiện giao kết hợp đồng
Hành vi áp đặt các điều kiện giao kết hợp đồng được hiểu là hành bắt buộc
các đối tác phải chấp thuận các điều kiện do doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đưa ra
thì hợp đồng giữa hai bên mới được giao kết.
Theo khiếu kiện của các bên thì Megastar đã có hành vi buộc các doanh
nghiệp phải thuê thêm phim khác kèm theo phim muốn thuê. Ví dụ, muốn có
phim Transformers (một phim thuộc dạng “bom tấn”, hút khách) thì Công ty Cổ
18
19
phần Phim Thiên Ngân (Galaxy) phải lấy kèm phim Ice Age (là một phim hoạt
hình).
Nếu việc thuê kèm phim khác trở thành một điều kiện bắt buộc khi giao kết
hợp đồng, có nghĩa là bên khởi kiện muốn thuê phim Transformers mà không thuê
thêm phim Ice Age thì sẽ bị từ chối cho thuê thì hành vi này không phải là hành vi
áp đặt các điều kiện khi giao kết hợp đồng mà thực chất đây là hành vi buộc doanh
nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng.7
Với những gì mà tác giả Phạm Hoài Huấn đã bình luận về vụ việc trên, tôi
có một vài ý kiến cá nhân như sau:
Thứ nhất, cơ quan pháp luật về cạnh tranh cần xác định rõ lại Megastar đã là
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hay chưa? Điều này nếu không xác định
rõ ràng thì sẽ khó lòng xét xử được các trường hợp tương tự sau này.
Thứ hai, việc nhận biết doanh nghiệp (cụ thể ở đây là Megastar) đã có hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường đã được quy định rõ ràng hay chưa? Thực
sự, để có thể biết được điều này không phải là chuyện đơn giản ngày một ngày hai,
đòi hỏi các cơ quan xử lý vụ việc cạnh tranh cần phải nghiên cứu kỹ càng, “từ gốc
đến ngọn” của vấn đề. Như vậy, khi giải quyết vụ việc sẽ không xảy ra được tình
trạng “oan sai”.
Thứ ba, nếu xác định doanh nghiệp đó có hành vi thống lĩnh thị trường thì
việc xét xử vụ việc đã hợp lý hay chưa? Thực sự, theo tôi việc quy định các hình
thức xử phạt trong Nghị định 116/2005/NĐ-CP còn mơ hồ, quá rườm rà, gây khó
hiểu không chỉ riêng cho người học luật cũng như các doanh nghiệp biết được chính
xác và rõ ràng rằng khi có hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt như thế nào.
2.2 Bất cập của pháp luật Cạnh tranh về xử lý hành vi bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Pháp luật quy định cụ thể những trường hợp được bán dưới giá thành mà
không bị coi là hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh, đó là:
- Hạ giá bán hàng hóa tươi sống;
7
Phạm Hoài Huấn (2011), Áp dụng pháp luật cạnh tranh: Bình luận từ việc
Megastar bị khiếu nại, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, cập nhật ngày 15/11/2017
19
20
- Hạ giá bán hàng hoá tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù
-
hợp với thị hiếu người tiêu dùng;
- Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ;
Hạ giá bán hàng hoá trong chương trình khuyến mại theo quy định của pháp luật;
Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản
-
xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh;
Các biện pháp thực hiện chính sách bình ổn giá của nhà nước theo quy định hiện
hành của pháp luật về giá.
Các trường hợp hạ giá bán quy định nêu trên phải được niêm yết công khai,
rõ ràng tại cửa hàng, nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời gian hạ giá.
Còn các nếu không thuộc các trường hợp nêu trên coi như bị xác định bán hạ giá là
hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, bán hạ dưới giá thành là hành vi của những
doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính, nhằm chịu lỗ trong một thời gian nhất định,
đến khi các đối thủ cạnh tranh thuộc các doanh nghiệp nhỏ không chịu nổi áp lực về
giá thì họ bắt buộc phải lựa chọn: Thứ nhất, bán đúng giá để đảm bảo hoạt động của
doanh nghiệp, nghĩa là bán với giá cao hơn đối thủ cạnh tranh đưa ra, điều này dẫn
đến thị trường sẽ không chấp nhận, hàng hóa sẽ bị lưu kho; thứ hai, bán hạ giá thấp
hơn giá thành sẽ dẫn đến doanh nghiệp thua lỗ, và đến một thời điểm nhất định nào
đó sẽ không đảm bảo cho việc tồn tại hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Đến
thời điểm đó, đối thủ cạnh tranh sẽ bù đắp các khoản lỗ bằng cách: Bán đúng với
giá doanh nghiệp xây dựng hoặc tăng thêm do sự khan hiếm của hàng hóa nên thị
trường phải chấp nhận; doanh số sẽ tăng thêm do không còn đối thủ sản xuất loại
hàng hóa tương tự.
Như vậy, nếu xét tại thời điểm cạnh tranh không lành mạnh thì doanh nghiệp
có hành vi vi phạm sẽ không có lãi, như đã phân tích nêu trên. Tuy vậy, để xử lý
hành vi vi phạm này, pháp luật lại quy định ngoài việc bị xử phạt tiền, còn bị áp
dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Thiết nghĩ, đối với hành vi vi
phạm trong lĩnh vực này khó có thể che giấu; do vậy sẽ bị cơ quan có thẩm quyền
phát hiện hoặc các doanh nghiệp có liên quan sẽ khiếu nại ngay từ thời điểm bắt đầu
20
21
đối tượng có hành vi vi phạm; do vậy, đề nghị bỏ quy định “tịch thu toàn bộ khoản
lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm”, vì không cần thiết8.9
Ngoài ra, việc xác định nhóm thống lĩnh thị trường chưa thật sự rõ ràng. Vì
nếu xét theo thị phần của doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp), sẽ rất dễ bỏ qua
các trường hợp doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) đó có thị phần dưới 30%
nhưng vẫn có khả năng gây hạn chế thị trường, đặc biệt là đối với nhóm doanh
nghiệp Luật Cạnh tranh 2004 đã bỏ qua điều này mà chỉ xác định thống lĩnh dựa
trên mức thị phần của nhóm doanh nghiệp đó, đây được xem là một “kẽ hở lớn”, đủ
để cho các doanh nghiệp lách luật mà không bị xử phạt theo quy định của Luật
Cạnh tranh 2004.
Kết luận Chương 2
Tính từ khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
01/07/2005, thì đã có nhiều vụ việc liên quan đến cạnh tranh đã được xử lý và giải
quyết. Nhưng trên thực tế, số vụ việc mà Cục Quản lí cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh xử lí quá ít ỏi. Điều đó không có nghĩa là các hành vi vi phạm luật cạnh tranh,
đặc biệt là các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường không xảy ra mà bởi
tâm lí e ngại của các bên có liên quan trong việc cầu viện đến những quy định của
pháp luật cạnh tranh. Nhưng trước mắt, với hành vi khiếu kiện Megastar là một
động thái cho thấy các doanh nghiệp dường như đã bắt đầu quan tâm hơn đến luật
cạnh tranh trong quá trình hoạt động của mình. Bên cạnh đó, pháp luật cạnh tranh
Việt Nam vẫn còn nhiều sự bất cập, cần phải được chỉnh sửa, bổ sung để tạo hành
lang pháp lý đầy đủ, dễ hiểu và dễ áp dụng hơn không chỉ riêng đối với người học
luật, mà còn là những người dân, những doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay tại
Việt Nam.
8
Điểm a, Khoản 4, Điều 18, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP.
9 Theo
Lê Ngọc Thạch, Một số bất cập của pháp luật cạnh tranh hiện hành, Tạp chí
Dân chủ & Pháp luật (Pháp luật Kinh tế).
21
22
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BẤT CẬP VỀ NHẬN DIỆN VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
VIỆT NAM
Sau khi đã tìm ra những bất cập của việc nhận diện vị trí thống lĩnh thị
trường trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam, tôi có một vài giải pháp để khắc phục
như sau:
Thứ nhất, pháp luật cạnh tranh cần phải sửa đổi, bổ sung, theo xu hướng
chung của các Bộ luật, các Luật mới đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực áp
dụng như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,… Từ đó, tạo một Luật Cạnh tranh mới
có hành lang pháp lý chặt chẽ, phù hợp hơn với thực trạng hiện nay (đặc biệt là về
vấn đề nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường). Bên cạnh đó, nếu Dự thảo Luật Cạnh
tranh được thông qua, thì cũng sẽ giúp cho các quy định của các đạo luật này không
bị chồng chéo nhau về góc độ pháp lý và phải chọn lựa một trong các luật để có thể
áp dụng trong nghiên cứu, cũng như xét xử.
Thứ hai, pháp luật cạnh tranh cần phải nêu cao tinh thần hơn nữa về việc bảo
vệ người tiêu dùng (bởi lẽ, đây là chủ thể luôn dễ bị tổn thương nhất khi có hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường do các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp xảy ra).
Thứ ba, một thực tế hiện nay cho thấy, khi người tiêu dùng phải gánh chịu hệ
quả của việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (ví dụ áp đặt giá, làm tăng giá bán
của sản phẩm, hàng hóa nào đó trên thị trường Việt Nam) thì họ không biết kêu ai
để có thể giải quyết được vấn đề này cho họ. Vì vậy, thiết nghĩ pháp luật cạnh tranh
cần quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan giải quyết vụ
việc cạnh tranh. Có như vậy, người tiêu dùng mới có thể yên tâm mua bán, trao đổi
hảng hóa mà không sợ bị “móc túi” nữa.
Thứ tư, khi xác định vị trí thống lĩnh trên thị trường, ta nên xét theo năng lực
gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) đó, còn thị
phần chỉ là phần bổ sung thêm để xác định rõ hơn rằng doanh nghiệp đó là doanh
nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) đó có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định
của pháp luật cạnh tranh. Từ đó, sẽ không để lọt những hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh mà Luật Cạnh tranh 2004 đang bỏ sót.
22
23
PHẦN C. KẾT LUẬN
Trải qua các thời kỳ áp dụng pháp luật cạnh tranh, mà cụ thể hơn ở đây là về
nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường, chúng ta có thể thấy được nếu như không có
pháp luật về cạnh tranh điều chỉnh các hoạt động này thì rất có thể nền kinh tế của
nước ta sẽ lâm vào tình trạng rất khó khăn, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh sẽ
có cơ hội để làm lũng loạn thị trường Việt Nam và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh hiện tại, nước ta ngày càng mở rộng thị trường, tham
gia vào các tổ chức kinh tế lớn trong khu vực (ASEAN) và trên thế giới (WTO), các
doanh nghiệp từ đây xuất hiện sẽ ngày càng nhiều thì việc tổ chức, kiểm tra, giám
sát, xử lý các hành vi về cạnh tranh theo quy định của pháp luật cạnh tranh là vô
cùng bức thiết. Qua đó, có thể thấy dược tầm quan trọng của pháp luật cạnh tranh là
lớn đến như thế nào. Vì vậy, nếu chúng ta xây dựng nên một cơ chế pháp lý về cạnh
tranh một cách hoàn hảo, có quy mô, có tổ chức, phù hợp với thực trạng hiện tại,
cũng như áp dụng nó một cách dễ hiểu nhất nữa thì chúng ta sẽ trở nên thành công
trong việc thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó, tạo điều
kiện thuận lợi để đất nước ta có thể hoàn thành được nhiệm vụ, đi thời kỳ “từ quá
độ chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội” mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Bên cạnh đó, ở khía cạnh hẹp hơn, thì cho dù là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(kể cả doanh nghiệp mới được thành lập) khi tham gia vào thị trường Việt Nam
cũng sẽ tạo ta một môi trường cạnh tranh lành mạnh, sòng phẳng với các doanh
nghiệp lớn. Các doanh nghiệp lớn cũng sẽ không vi phạm pháp luật về cạnh tranh
(cụ thể ở đây là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường Việt Nam). Đây
được xem là mục tiêu mà pháp luật về cạnh tranh nói riêng và pháp luật về kinh tế
nói chung luôn hướng đến, mặc cho khó có thể trở thành hiện thực được.
Và điều cuối cùng, chúng ta cũng không thể quên nhắc đến trong pháp luật
về cạnh tranh, đó là việc liên quan đến người tiêu dùng – là người trực tiếp sử dụng
các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp lớn nhỏ. Khi pháp luật cạnh
tranh được hoàn thiện, người tiêu dùng lúc đó sẽ được thoải mái mua sắm, sử dụng
những gì mà họ có nhu cầu. Qua đó, tạo ra nguồn thu không chỉ cho doanh nghiệp,
mà còn cho cả đất nước (bằng với việc tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước).
Tuy nhiên, để xây dựng nên pháp luật cạnh tranh một cách hoàn chỉnh đến
như vậy, không phải một sớm một chiều mà có thể làm được. Điều này phải đòi hỏi
sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
xây dựng hệ thống pháp luật về cạnh tranh. Đồng thởi, phải tạo một sợi dây liên kết
23
24
chặt chẽ giữa pháp luật cạnh tranh – doanh nghiệp – người tiêu dùng. Có như vậy,
pháp luật về cạnh tranh mới đi vào và áp dụng trong cuộc sống hiện nay được.
24