Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.24 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÒ THỊ THU HOA

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: CHLK1TB1004

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hỗ trợ
của giáo viên hướng dẫn. Các kết quả, số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn này là
trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về luận văn này nếu có sự tranh chấp
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lò Thị Thu Hoa



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADPL

Áp dụng pháp luật

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

DLBK

Dân luật Bắc Kỳ

DLTK

Dân luật Trung Kỳ

DSST

Dân sự sơ thẩm

DSPT

Dân sự phúc thẩm


GCNQSDĐ
HN&GĐ
TAND

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hôn nhân và gia đình
Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

Viện Kiêm sát nhân dân

UBND
MNLHVDS
Nghị định số
126/2014/NĐ-CP

Ủy ban nhân dân
Mất năng lực hành vi dân sự
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình

Thông tư liên tịch số
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của
VKSNDTC-BTP

Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình


MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................... ……………Error! Bookmark not defined.
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA ... …….6

1.1.Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật .......................................... 6
1.1.1.Khái niệm áp dụng pháp luật............................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật.....................Error! Bookmark not defined.

1.2. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn . .............................................................................. 10
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn Error!
Bookmark not defined.
1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ..... 11

1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại chế độ tài sản của vợ chồng........13
1.3.1. Khái niệm........................................................................................................... 13
1.3.2. Đặc điểm............................................................................................................ 14
1.3.3. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật .................................... 16
1.4. Tài sản chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn........ 17
1.4.1. Tài sản chung của vợ chồng ............................................................................. 17
1.4.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn .................................................... 20

Kết luận chương 1 .................................................................................. 32

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA................................ 33

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, dân số và điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội
đối với chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La. ............. 33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................. 33
2.1.2. Dân số và sự phân bố dân cư ........................................................................... 34
2.1.3. Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội ................................................................. 34

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La ............................................................ 36
2.2.1. Những kết quả đã đạt được trong việc áp dụng pháp luật giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La .......................................................... 36


2.2.2. Một số hạn chế trong áp dụng pháp luật giải quyết chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La ................................................................................. 44

2.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân trong thực
tiễn áp dụng pháp luật giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn tại tỉnh Sơn La ................................................................................ 46
2.3.1. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải
quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La ............................ 46
2.3.2. Những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La ........................................... 57
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 62
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU
CHỈNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA ............ 63


3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc xác định tài sản
chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn................. 63
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La..... Error! Bookmark not
defined.
Kết luận chương 3 .......................................................................................... 74
KẾT LUẬN ....................................................... Error! Bookmark not defined.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2000 ghi
nhận: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường
quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Vì vậy
vai trò của gia đình đối với xã hội là vô cùng quan trọng nên các chế định pháp luật
điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ không những phải đáp ứng được định hướng pháp
luật mà còn phải phù hợp với thực tiễn xã hội. Nếu như hôn nhân là chỉ quan hệ của
nam và nữ được xác lập sau khi kết hôn thì gia đình là một khái niệm rộng hơn khái
niệm hôn nhân gồm: vợ và chồng, cha mẹ và con, anh chị em…Bởi vì, gia đình được
hình thành từ quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Do vậy, gia đình là tế
bào của xã hội. Gia đình phát triển tốt đẹp, hòa thuận, hạnh phúc sẽ làm nền tảng cho
sự phát triển bền vững của xã hội. Khi nam, nữ kết hôn cùng nhau xây dựng gia đình
ấm no, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững là sự mong muốn của những người cha mẹ,
gia đình mà cũng là sự mong muốn của chính những người vợ, người chồng đó. Họ
cùng nhau bước vào đời sống hôn nhân, khi đã cùng về chung sống với nhau dưới một
mái nhà, hai người sẽ cùng vun đắp cho gia đình thực hiện chức năng sinh đẻ, giáo dục
và kinh tế. Hôn nhân là sự thay đổi lớn trong cuộc đời mỗi con người, gắn với họ

những quyền và nghĩa vụ giữa người vợ và người chồng như phải yêu thương, chung
thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau… vợ và chồng còn hình thành chế độ tài
sản mà trong đó có sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, quan hệ hôn nhân chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan khác nhau, đã không giữ được ý nghĩa cũng như giá trị ban đầu, cuộc sống hôn
nhân không còn hạnh phúc, để giải phóng cho người trong cuộc, họ có quyền chấm
dứt quan hệ hôn nhân đó bằng ly hôn. Khi ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn sẽ được
giải quyết, đặc biệt là về chia tài sản chung của vợ chồng.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, một số văn bản Luật của nhà
nước ta cũng đã kịp sửa đổi, bổ sung và ban hành để phù hợp với tinh thần của
Hiến pháp mới và tình hình thay đổi của đất nước, trong đó có Luật HN&GĐ năm
2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có nhiều quy
định mới tương đối cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó đặc biệt là quy
định về chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đã phát huy được hiệu quả trong việc
điều chỉnh các quan hệ pháp luật về HN&GĐ, góp phần xây dựng và phát triển chế


2

độ HN&GĐ, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hôn có
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có xu hướng gia tăng, tính chất
phức tạp cũng như giá trị của tài sản lớn đã gây rất nhiều khó khăn, áp lực cho cơ
quan xét xử. Pháp luật HN&GĐ đã có những quy định tương đối đầy đủ, có các văn
bản hướng dẫn nhằm áp dụng có hiệu quả trong công tác xét xử của tòa án về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Vì vậy, để làm sáng tỏ các quy định để áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và phát hiện những vướng
mắc, bất cập để từ đó nêu các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Sơn La, tôi đã lựa

chọn đề tài “Áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trên
địa bàn tỉnh Sơn La” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội nên việc nghiên cứu
về các tranh chấp trong HN&GĐ luôn được quan tâm, đặc biệt vấn đề về tài sản của
vợ, chồng. Các công trình nghiên cứu khoa học nói chung về chế độ tài sản, chia tài
sản của vợ chồng cũng luôn thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu.
Nhóm giáo trình và sách chuyên khảo:
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về Luật HN&GĐ năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam,
NXB trẻ, Hồ Chí Minh.
- Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Khoa luật, Đại học Cần Thơ.
Nhóm các luận án, luận văn
- Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Hồng Hải (2002), Xác định chế độ tài sản của vợ chồng – một số
vẫn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.


3

- Chu Minh Khôi (2015), Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng,
luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
- Lê Thị Huyền (2014), Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
- Tống Thị Lý (2015), Chia tài sản chung của vợ chồng để tiến hành hoạt động
kinh doanh, luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.

Nhóm các công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên báo, tạp chí chuyên
ngành pháp luật:
- Thu Hương – Duy Kiên (2013), Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ - Thực tiễn giải quyết, tạp chí TAND,
Số 5/2013.
- Bùi Minh Hồng (2009), Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong
pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam, tạp chí Luật học số 11/2009.
- TS. Nguyễn Phương Lan (2008), Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Văn Cừ (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật HN&GĐ Việt Nam, Tạp chí luật học số 4/2015.
- Nguyễn Văn Cừ (2014), Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật Việt Nam – Được kế thừa và phát triển trong dự thảo luật
HN&GĐ (sửa đổi) (Kỳ 1), Tạp chí TAND, tháng 4/2014 (số 8).
- Nguyễn Văn Cừ (2014), Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ
chồng theo pháp luật Việt Nam – Được kế thừa và phát triển trong dự thảo luật
HN&GĐ (sửa đổi) (Kỳ 2), Tạp chí TAND, tháng 5/2014 (số 9).
- Nguyễn Hoàng Long (2015), Bàn về công sức trong vụ án HN&GĐ, tạp chí
TAND, tháng 5/2015.
Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu, đề cập đến nhiều khía cạnh của
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng hoặc chỉ để cập một vấn đề nhỏ của chia tài
sản chung của vợ chồng, chưa đi sâu vào nghiên cứu việc áp dụng các quy định của
pháp luật để chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại một khoảng thời gian và
địa điểm cụ thể. Để thấy được những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng các căn cứ
pháp luật này trên thực tế, giải quyết cụ thể các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn, từ đó có những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả


4


áp dụng pháp luật trong thực tiễn đời sống và công tác xét xử. Vì vậy, đây là công
trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu tại tỉnh Sơn La
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Làm rõ các cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn; phát hiện những vướng mắc, bất cập từ các quy định của pháp
luật về điều kiện thực tế ở địa phương; kiến nghị hoàn thiện pháp luật và áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn làm rõ các quy định của pháp luật về tài sản chung của vợ chồng
và một số trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Luận văn nghiên cứu việc ADPL để chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn trong một số vụ việc cụ thể tại tỉnh Sơn La.
- Qua đó, thấy được những vướng mắc, bất cập cũng như các khó khăn khi áp
dụng pháp luật giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn để đưa ra
những giải pháp và đề xuất các kiến nghị nhằm áp dụng các quy định của pháp luật
trong chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đạt hiệu quả cao.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ xác lập
tài sản chung, riêng của vợ chồng. Căn cứ, nguyên tắc và cách thức chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
- Luận văn đưa ra một số tình huống, vụ án cụ thể mà tòa án đã xét xử giải
quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản của vợ
chồng, trong đó nghiên cứu cụ thể các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và một số văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật. Thực tiễn áp dụng các quy định định này để giải quyết một số vụ việc
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hôn trên địa bàn tỉnh Sơn La.



5

6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở nghiên cứu của luận văn là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
– Lênin và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều chỉnh quan hệ
HN&GĐ với các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp lịch sử: Sử dụng khi nghiên cứu các quy định của pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có trước khi Luật HN&GĐ năm 2014
ban hành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích về trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn; khái quát được những nội dung cơ bảo
của từng vấn đề trong luận văn.
- Phương pháp so sánh được thực hiện khi đối chiếu các quy định của pháp
luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 so
với các quy định của pháp luật trước đây.
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt
động xét xử của Tòa án, từ các số liệu cụ thể giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn
áp dụng đã phù hợp hay chưa? Các lý do? Từ đó xem xét nội dung quy định của pháp
luật về chia tài sản chung của vợ chồng, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cơ cấu luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn trên địa bàn tỉnh Sơn La.

Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp điều chỉnh nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La.


6

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA
1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật là phương tiện để thế chế hóa đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô
toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội như kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật… là phương
tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình. Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống thì ngoài yếu tố như sự
phù hợp của hệ thống quy phạm pháp luật với các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình
độ phát triển xã hội, Nhà nước còn phải quan tâm đến hoạt động tổ chức thực hiện
và áp dụng luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban hành ra những văn
bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy định của những văn bản đó
không thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều chỉnh pháp luật vẫn chưa đạt
được mà chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời
sống thực tế.
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một trong những hình thức thực hiện pháp luật
có những đặc điểm riêng và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Hoạt động ADPL bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực hiện và được bảo vệ
trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm minh, kịp thời để

bảo vệ các quan hệ xã hội đã và đang được thiết lập. ADPL là hoạt động diễn ra
hằng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện, Trong hoạt động tư pháp, ADPL thường được Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất
định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm
xác định sự thật khách quan; truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật.


7

ADPL vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ
chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
ADPL thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích hợp đối
với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không tự phát sinh nếu không
có sự tác động của Nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia
các quan hệ pháp luật mà họ không tự giải quyết được.
- Trong trường hợp Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám
sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại
hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì: ADPL được hiểu là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ
thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ
hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Theo cuốn tài liệu Học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà

nước và pháp luật (tập 1) của Viện nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì: ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật
diễn ra trong hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước được xem
như là đảm bảo đặc thù của Nhà nước sao cho các quy phạm pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Theo cuốn đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, trường Đại học Luật Hà
Nội về Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay của chủ nhiệm đề tài T.S Nguyễn
Thị Hồi cho rằng: ADPL là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành


8

nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể,
đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể1.
Như vậy, thực tế có nhiều quan điểm, cách tiếp cận và biểu đạt khác nhau về
áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều thống nhất coi ADPL là một
trong các hình thức thực hiện pháp luật và đó là hình thức thực hiện pháp luật có sự
can thiệp của nhà nước với những đặc trưng cơ bản, đặc thù làm cho áp dụng pháp
luật khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác. Tác giả đồng tình với quan
điểm theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội: ADPL là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông
qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy
phạm pháp luật vào trường hợp cụ thể đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Qua nghiên cứu cho thấy, ADPL có một số đặc điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước.
Hoạt động ADPL chỉ cơ quan có thẩm quyền tiến hành, mỗi cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, mỗi cá nhân chỉ được giao một số hoạt động nhất định trong phạm vi
thẩm quyền của mình. Hoạt động ADPL được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn
phương của các cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền không phụ
thuộc vào ý chí của những chủ thể có liên quan. Trong trường hợp cần thiết áp
dụng pháp luật được thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước. Trong quá trình áp dụng
pháp luật các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền phải xem xét cân
nhắc thận trọng và dựa trên những quy phạm pháp luật đã được xác định để ra văn
bản áp dụng pháp luật cụ thể. Văn bản ADPL là hình thức thể hiện chính thức hoạt
động áp dụng pháp luật, là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực nhà nước,
người có thẩm quyền xây dựng, được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở
những quy phạm pháp luật nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá
nhân tổ chức hoặc xác định những biện pháp, trách nhiệm pháp lý đối với những
chủ thể vi phạm pháp luật.

1

T.S Nguyễn Thi Hồi (chủ biên) (2009) “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, NXB Tư pháp, Hà Nội.


9

Thứ hai, ADPL là hoạt động được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Quyền và nghĩa vụ của các các bên tham gia quan hệ pháp luật
được pháp luật quy định rõ ràng nên các cơ quan nhà nước và những người có thẩm
quyền khi ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định để tránh sự tùy tiện có thể
dẫn đến việc ADPL không đúng, thiếu chính xác, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật. Hình thức thể hiện của áp dụng
pháp luật là văn bản ADPL được thể hiện bằng các bản án, quyết định… các loại
văn bản trên phải phù hợp với pháp luật, được dựa trên những quy phạm pháp luật
cụ thể. Văn bản ADPL có hai loại là văn bản xác định quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể và văn bản bảo về pháp luật chứa đựng những biện pháp trừng trị, cưỡng
chế đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm.
Thứ ba, ADPL là hoạt động điều chỉnh cá biệt. Mục đích của ADPL là cá biệt
hóa các quy định của pháp luật trong điều kiện cụ thể. Quy tắc xử sự chung trong
pháp luật thông qua hoạt động ADPL sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành
quy tắc xử sự cụ thể có được do việc áp dụng luật cụ thể. Đương nhiên, quy tắc xử sự
cụ thể có thể có được do việc áp dụng pháp luật không được trái với các quy tắc xử
sự chung đã nêu trong pháp luật. Như vậy, ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính cá
biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định, những quan hệ xã họi cần đến sự
điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những quy tắc chung trong pháp luật.
Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Do vậy các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật cần phải nghiên cứu kỹ vụ việc
làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn những quy phạm pháp luật, ra
văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa
quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo bằng cách áp tập quán,
áp dụng tương tự,án lệ để giải quyết vụ việc. Để làm được điều đó, đòi hỏi những
người có thẩm quyền phải có tinh thần trách nhiệm, ý thức pháp luật cao, kinh
nghiệm phong phú, đạo đức và trình độ chuyện môn nghiệp vụ tốt.
Ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi
phải đề cao vao trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là ADPL của cơ quan
tiến hành tố tụng.


10

1.2. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các
cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp

luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm
dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Các quy phạm pháp luật rất phong phú, đa dạng
nên thực hiện pháp luật cũng rất đa dạng và phong phú. Căn cứ vào tính chất của
hoạt động thực hiện các quy phạm pháp luật, khoa học pháp lý hiện nay chia thực
hiện pháp luật thành bốn hình thức sau: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Như vậy, ADPL là một trong những hình thức
thực hiện pháp luật và là hình thức có sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, sự
can thiệp của Nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan nhà nước, nhà chức trách
mà một trong số trường hợp đặc biệt một tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt
động này. Nhưng dù chủ thể của ADPL có là ai đi nữa thì cũng phải tuân thủ những
hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng
được xác lập sau khi kết hôn”. Do đó, nếu như nam nữ có đủ các điều kiện kết hôn
được quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 và không vi phạm các
điều cấm tại điểm a, b, c và d tại khoản 2 Điều 5 Luật này mà có thực hiện việc
đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cấp giấy chứng nhận
kết hôn thì họ trở thành vợ chồng. Đây là hình thức ADPL của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, cụ thể là công chức tư pháp xã thực hiện việc đăng ký kết hôn cho
nam và nữ. Pháp luật quy định khi nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau thì
sẽ làm phát sinh chế độ tài sản chung hợp nhất của vợ chồng kể từ thời điểm kết
hôn. Theo đó, những tài sản sau đó mà mỗi bên có được có thể sẽ là tài sản chung
hoặc tài sản riêng của vợ, chồng căn cứ vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc của tài
sản đó. Vì vậy, khi vợ chồng có mâu thuẫn xảy ra, một trong hai bên yêu cầu hoặc
cả hai bên yêu cầu ly hôn, Tòa án cũng ADPL để giải quyết hậu quả pháp lý của ly
hôn, trong đó có ADPL chia tài sản chung của vợ và chồng.


11


Từ các quan điểm và khái niệm mà các học giả đưa ra ở trên, ta có thể hiểu
ADPL chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước được thực hiện bởi Tòa án nhân dân (TAND) theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm đưa ra những quyết định cá biệt hoặc bản án
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
ADPL để chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là một hình thức cụ thể
của ADPL nên khi chủ thể ADPL phải tuân theo những nguyên tắc và quy trình
chung. Bên cạnh đó ADPL còn có những đặc điểm riêng biệt sau:
Thứ nhất, ADPL trong các vụ án HN&GĐ nói chung và ADPL chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn nói riêng là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước do TAND có thẩm quyền tiến hành.
Trong việc thực hiện quyền tư pháp, Điều 102 khoản 2 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp”. Trong việc thực hiện quyền tư pháp, TAND là cơ quan xét
xử, tham gia thực hiện quyền tư pháp trong phạm vi một địa giới hành chính. Với
thẩm quyền xét xử của Tòa án thì khi giải quyết các vụ việc HN&GĐ Tòa án sẽ căn
cứ vào các quy định của pháp luật, căn cứ và thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc của tài
sản để xác định đâu là tài sản chung và đâu là tài sản riêng của vợ, chồng. Từ đó, ra
những bản án, quyết định có tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể bị ADPL.
Trong trường hợp chủ thể bị ADPL không nghiêm chỉnh thực hiện quyết định của
Tòa án thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, ADPL để chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải được tiến
hành chặt chẽ theo thủ tụng mà pháp luật quy định.
Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 quy định: “Tòa án nhân danh
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các
việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài
liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng”. Như vậy, khi tiến hành giải
quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án cần căn cứ vào các tài liệu,



12

chứng cứ mà các bên đưa ra và căn cứ vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài sản để
xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng. Người nào cho rằng đó là tài sản
riêng của mình thì phải chứng minh, trường hợp không có căn cứ chúng minh tài sản
mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó sẽ được
coi là tài sản chung (khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014). Việc xem xét các tài
liệu, chứng cứ phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng quy
định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Thứ ba, ADPL trong giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng là hoạt động
mang tính cá biệt nhằm cụ thể hóa những quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng.
Khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng hoặc cha, mẹ, người thân thích theo
quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 có đơn yêu cầu ly hôn thì
“Tòa án sẽ thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng”
(Khoản 1 Điều 53 Luật HN&GĐ năm 2014). Như vậy, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết
vụ việc HN&GĐ khi có đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn yêu cầu. Vì, trong quan hệ dân sự nói chung, Tòa án tôn trọng sự thỏa thuận
của các đương sự, nếu sự thỏa thuận đó đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên,
đặc biệt là của vợ và con thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó.
Nếu như các bên đã thỏa thuận nhưng chưa thỏa thuận được hết hoặc không thỏa
thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết và Tòa án sẽ chỉ giải quyết trong
phạm vi đương sự yêu cầu. Sau đó, Tòa án“căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản
án, ... quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết
định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”(Khoản
2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014). Vì vậy, các phán quyết của Tòa án về
chia tài sản chung của vợ chồng là hoạt động mang tính cá biệt nhằm cụ thể hóa
những quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng trong các quyết định, bản án.

Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo; do vậy các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật cần phải nghiên cứu kỹ vụ việc
và các căn cứ pháp lý để ADPL chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Trong
trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng sáng
tạo bằng cách áp tập quán hoặc áp dụng tương tự để giải quyết vụ việc. Trong Luật


13

HN&GĐ năm 2014 theo Điều 7 quy định “Trong trường hợp pháp luật không quy
định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi
dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm
của Luật này được áp dụng”. Như vậy, nếu như trong các quan hệ pháp luật
HN&GĐ nói chung và trong quan hệ tài sản của vợ chồng nói riêng mà pháp luật
không quy định và các bên không có thỏa thuận thì sẽ áp dụng tập quán tốt đẹp mà
không trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ Việt Nam, không vi phạm
điều cấm thì sẽ được áp dụng để giải quyết. Ngoài ra, khoản 2 Điều 4 Luật TTDS
năm 2015 có quy định “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý
do chưa có điều luật để áp dụng”. Trên cơ sở đó, tại Điều 5 và Điều 6 BLDS năm
2015 cũng quy định cách thức giải quyết trong trường hợp này như sau: trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp
dụng tập quán; nếu không có tập quán áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật
điều chỉnh các quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự
pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều
3 của bộ luật này áp dụng án lệ và lẽ công bằng2. Như vậy, pháp luật quy định Tòa
án được phép áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật và án lệ để giải quyết
những trường hợp chưa có luật để áp dụng thể hiện tính sáng tạo khi ADPL.
1.3. Khái niệm, đặc điểm, phân loại chế độ tài sản của vợ chồng
1.3.1. Khái niệm
Theo giáo trình Luật HN&GĐ, tập 2, Khoa Luật Đại học Cần Thơ thì: “Chế

độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài
sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản
giữa vợ và chồng. Tài sản được phân loại gồm: tài sản chung và tài sản riêng. Với
quan hệ tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng
bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối
với tài sản”3. Định nghĩa này đã cho thấy những nội dung cơ bản của chế độ tài sản
2

ThS. Lê Mạnh Hùng, Áp dụng án lệ trong giải quyết vu việc dân sự tại Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 4/2016
3
Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, tập 2, Khoa Luật Đại học Cần Thơ


14

của vợ chồng, tuy nhiên còn có điểm chưa chính xác khi cho rằng chế độ tài sản
của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh “quan hệ tài sản” của
vợ chồng. Theo tinh thần của Luật HN&GĐ thì quan hệ tài sản của vợ chồng bao
gồm ba vấn đề: quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ và chồng, quyền thừa kế tài sản; trong khi đó, nói đến chế độ tài sản của vợ
chồng thường là chỉ bao gồm các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản của vợ
và chồng mà thôi.
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy
định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng
theo luật định”4. PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ cũng định nghĩa về chế độ tài sản của

vợ chồng, tuy nhiên là chỉ nói đến vấn đề sở hữu tài sản của vợ và chồng. Theo
Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng thành hai loại: chế
độ tài sản ước định và chế độ tài sản pháp định. Khi quan hệ hôn nhân tồn tại hợp
pháp thì vợ chồng trở thành chủ thể quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản của vợ
chồng. Căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng đi kèm với căn cứ
phát sinh và chấm dứt quan hệ hôn nhân. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản ước
định hay pháp định thì chế độ tài sản của vợ chồng luôn được pháp luật dự liệu làm
chuẩn mực pháp lý cho hành vi ứng xử của mỗi bên vợ, chồng.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chế độ tài sản của vợ chồng là tổng thể
các quy tắc xử sự về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm: căn cứ xác lập
quyền sở hữu tài sản; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đới với tài sản chung hoặc
tài sản riêng; phân chia tài sản của vợ chồng.
1.3.2. Đặc điểm
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng.
Xuất phát từ tính chất và mục đích đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập –
tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là
chủ thể của quan hệ pháp luật HN&GĐ, vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
4

Nguyễn Văn Cừ (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Tạp chí luật học số 4/2015


15

sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình, tham gia và các giao dịch dân sự. Vì vậy,
chế độ tài sản của vợ chồng có những điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này thì các
bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy,
để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng

lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các quy
định về điều kiện kết hôn và được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định trong pháp luật HN&GĐ.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội, nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ tài sản của vợ
chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền lợi
của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng, sau đó là lợi ích của các
thành viên trong gia đình. Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng là cơ sở tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình đối với tài sản của vợ chồng.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự phát
sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách khác, chế độ tài sản của vợ
chồng thường chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Khi hôn nhân chấm dứt chế độ tài
sản mà vợ chồng thỏa thuận, sở hữu chung hợp nhất cũng chấm dứt.
Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật hôn
nhân và gia đình được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều kiện kinh
tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể.
Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ
chồng được liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lực chọn
chế độ tài sản nào luôn được pháp luật quy định rõ. Việc phân định các loại tài sản
trong quan hệ giữa vợ và chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và
nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng và cơ sở giải
quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác
trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ
chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.


16

1.3.3. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật

Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, truyền thống và nguyện vọng của các
cặp vợ chồng. Trong đó thể hiện rõ ý chí của nhà nước khi điều chỉnh các quan hệ
tài sản giữa vợ chồng, vì suy đến cùng, tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng phản ánh điều kiện vật chất
của xã hội đó, bảo đảm phù hợp lợi ích, ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Pháp
luật các quốc gia trên thế giới đã quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng đó là
chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài
sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định).
1.3.3.1. Chế độ tài sản pháp định
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ
trước về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó;
các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh
toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản này
được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh
các quan hệ tài sản của vợ chồng. Trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn chế
độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có lựa chọn nhưng thỏa thuận của họ bị vô hiệu thì
chế độ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh theo chế độ tài sản luật định.
1.3.3.2. Chế độ tài sản ước định
Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực
chất là một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam nữ thỏa thuận, xác lập trên
nguyên tắc tự do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh
và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đó. Vì vậy pháp luật cho phép trước khi kết
hôn, hai bên được quyền tự do ký kết hôn ước (hai còn gọi là khế ước) miễn sao
không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Luật HN&GĐ năm
2014 đã quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận. Khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận thì phải lập văn bản, văn bản phải được công chứng hoặc chứng



17

thực. Văn bản thỏa thuận về tài sản phải được lập trước khi kết hôn và phải có hiệu
lực kể từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn. Văn bản thỏa thuận của các bên bao
gồm nội dung liên quan đến tài sản mà không liên quan đến quan hệ nhân thân của
vợ chồng. Nội dung thỏa thuận phải đáp ứng những nội dung cơ bản theo Khoản 1
Điều 48 và trong thời gian thực hiện vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung toàn bộ hoặc
một phần nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản (Điều 17 Nghị định số
126/2014/NĐ-CP). Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đoạt đối với tài sản của
vợ chồng, pháp luật còn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và
các thành viên trong gia đình. Trong trường hợp sự thỏa thuận xâm phạm đến các
lợi ích được pháp luật bảo vệ thì theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan, Tòa án có thể tuyên bố chế độ tài sản theo thỏa thuận bị vô hiệu khi vi phạm
Điều 50 Luật HN&GĐ năm 20145.
1.4. Tài sản chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
1.4.1. Tài sản chung của vợ chồng
1.4.1.1. Xác định tài sản chung hợp nhất của vợ chồng
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang

có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
5

Hướng dẫn học tập – tìm hiểu Luật HN&GĐ VN, NXB Lao động, HN 2015, trang 82


18

Như vậy, những tài sản là tài sản chung của vợ chồng đã được liệt kê đầy đủ
tại Điều 33. Bên cạnh đó, BLDS năm 2005 đã quy định tại Điều 219 như sau: “Sở
hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất”, kế thừa BLDS năm 2005,
BLDS năm 2015 cũng ghi nhận Sở hữu chung của vợ chồng là: “1) Sở hữu chung
của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. 2) Vợ chồng cùng nhau
tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung. 3) Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 4) Tài sản chung của vợ chồng có thể
phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án. 5) Trường hợp vợ
chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản
này”6. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
có thể phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền
sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Do vậy,
bình thường chúng ta không thể xác định được phần nào là của vợ, phần nào là của
chồng không khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung
của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản
chung đó. Xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là chung ý chí, cùng chung
công sức đóng góp trong việc tạo nên khối tài sản nhằm mục đích xây dựng gia
đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt chức năng của nó như: Phát triển kinh tế
gia đình vững mạnh, tạo điều kiện tốt cho việc nuôi dạy con, vì vậy, pháp luật quy
định tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng quy định vào nguồn gốc,

thời điểm phát sinh tài sản mà không có căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên
trong việc tạo dựng, phát triển khối tài sản đó. Có thể do điều kiện sức khỏe, đặc
điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào xây
dựng khối tài sản chung là không bằng nhau, nhưng quyền sở hữu của họ đối với
tài sản chung vẫn ngang bằng nhau7. Hơn nữa, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy
định “Lao động của vợ, chồng trong gia đình được gọi là lao động có thu nhập”
(điểm b khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014) để đảm bảo cho quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng, đặc biệt là người vợ.
6
7

Điều 213, Bộ luật Dân sự năm 2015.
Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Đại học Luật HN, năm 2012, Nxb CAND, trang 146-147


19

1.4.1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
Căn cứ quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 thì về nguyên tắc, vợ chồng có
quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau đối với tài sản chung. Cụ thể là:
- Vợ chồng chồng bình đẳng trong việc xây dựng, phát triển khối tài sản
chung. Vợ chồng phải cùng nhau bàn bạc về phương hướng phát triển kinh tế của
gia đình. Mỗi bên vợ chồng phải có ý thức tham gia lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm làm tăng khối tài sản chung của vợ chồng.
- Vợ chồng bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Vợ
chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc nắm giữ, quản lý, bảo vệ tài sản
chung. Vợ chồng cũng bình đẳng trong việc sử dụng tài sản chung của vợ chồng chi
dùng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình. Theo Khoản 20 Điều 3 Luật HN&GĐ
năm 2014 thì: “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học
tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu

cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”. Cuối cùng là vợ chồng cũng bình đẳng
với nhau trong việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Việc định đoạt tài sản chung
phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp tài sản
chung là bất động sản, là động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền
sở hữu hoặc tài sản là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. “Trong trường hợp
vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia” (khoản 1 Điều
13 Nghị Định số 126/2014/NĐ-CP). Như vậy, pháp luật quy định vợ chồng có quyền
và nghĩa vụ bình đẳng đối với việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản nhằm bảo
vệ khối tài sản chung, tránh trường hợp một trong hai bên vợ chồng có hành vi phá tán
tài sản, hủy hoại tài sản hoặc tự mình thực hiện những giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản chung làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình.
Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng tại Điều 37: “Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1) Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách
nhiệm; 2) Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình; 3) Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;


20

4) Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản
chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; 5) Nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi
thường; 6) Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”. Nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng.
1.4.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Pháp luật hiện hành quy định ba trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng:
Chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, chia tài sản chung của vợ chồng

khi một trong hai vợ hoặc chồng chết và chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Trong
đó, việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề rất phức tạp, thường có
nhiều tranh chấp giữa vợ và chồng gặp, nhiều khó khăn vướng mắc.
Nếu như kết hôn là sự kiện làm phát sinh quan hệ hôn nhân của vợ chồng thì
ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng (khoản 1 Điều 51 Luật
HN&GĐ năm 2014). Khi tình cảm không còn, vợ chồng thực sự tự nguyện ly hôn
hoặc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc hành vi vi phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân rơi vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án
quyết định cho ly hôn. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định một số trường hợp
hạn chế việc ly hôn theo khoản 3 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.
1.4.2.1. Quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo hệ thống
pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Sau khi kết hôn, buộc phải có một khối tài sản nhằm duy trì cuộc sống chung
của vợ chồng, cũng như các nhu cầu chi tiêu gia đình, chăm sóc con cái,... Điều đó
đòi hỏi phải có chế độ pháp lý điều chỉnh khối tài sản này: căn cứ xác lập, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung.... Với ý nghĩa đó, pháp luật Việt Nam
qua các thời kỳ đã có quy định về sở hữu chung tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, một
nhận xét chung nhất đó là các quy định của pháp luật Việt Nam về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn phụ thuộc vào pháp luật khi đó quy định như thế nào về


×