Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án theo luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.08 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

KHỔNG THỊ ĐỨC HẬU

CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN THEO LUẬT TỔ CHỨC
TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

KHỔNG THỊ ĐỨC HẬU

CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN THEO LUẬT TỔ CHỨC
TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014
Chuyên ngành: Luật Hành chính – Hiến pháp


Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Thái Vĩnh Thắng

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, em đã nhận được sự giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt
tình của quý thầy cô tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô
Khoa Hành chính nhà nước, khoa Sau đại học trường Đại học Luật Hà Nội và
quý thầy cô tham gia giảng dạy đã tận tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ em
trong thời gian học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS.
Thái Vĩnh Thắng đã dành nhiều thời gian, công sức trong giảng dạy và hướng
dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc là nơi em công tác đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em thực hiện
Luận văn tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp cao học Luật Hành chính Hiến pháp khóa 22 trường Đại học Luật Hà Nội, bạn bè và đồng nghiệp đã hỗ
trợ trong quá trình thu thập tài liệu, chia sẻ những kinh nghiệm hữu ích để
thực hiện đề tài.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè là nguồn
động viên lớn, tạo điều kiện và hết lòng chăm sóc, khuyến khích em tham gia
học tập và nghiên cứu, để em có thể hoàn thành luận văn này.
Luận văn là thành quả sự nỗ lực của cá nhân tác giả trong thời gian qua.
Tuy nhiên, do kiến thức bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi

những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu của quý thầy cô và
các bạn để Luận văn này được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2016
Học viên

Khổng Thị Đức Hậu


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giảng viên hướng dẫn là GS.TS. Thái Vĩnh Thắng. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài là trung thực. Những số liệu phục vụ cho
việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử
dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ
chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Tác giả hoàn toàn
chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của Luận văn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

HỌC VIÊN

GS.TS. Thái Vĩnh Thắng

Khổng Thị Đức Hậu


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐND

Hội đồng nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................................ 7
1.1. Khái niệm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ........ 7
1.2. Quá trình hình thành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở
Việt Nam ................................................................................................ 9
1.2.1. Nguyên tắc TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử . 10
1.2.2. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán; bầu, cử Hội thẩm..................... 18
1.2.3. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn ...................................... 25
1.2.4. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm .................................................... 28
1.2.5. Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai ............. 32
1.2.6. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn............................................ 34
1.2.7. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ........................ 35
1.2.8. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm .................. 45
1.2.9. Nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm và bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự .................................................................................. 46
1.2.10. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật ................. 48
1.2.11. Nguyên tắc mọi người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án .......................................... 50
1.2.12. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TAND .... 52



1.2.13. Nguyên tắc TAND chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước ............................................................................................... 54
1.3. Một số nguyên tắc tổ chức và hoạt động điển hình của Tòa án một số
nước trên thế giới ................................................................................. 55
1.3.1. Về bổ nhiệm Thẩm phán; bầu, cử Hội thẩm .................................. 56
1.3.2. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ........................ 58
CHƯƠNG 2: THỰC HIỆN CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA TÒA ÁN THEO LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN
NĂM 2014 ................................................................................................... 67
2.1. Cải cách tư pháp ở Việt Nam và việc đảm bảo thực hiện các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Tòa án .......................................................... 67
2.2. Việc thực hiện các nguyên tắc mới và những bất cập trong thực tiễn
hoạt động của Tòa án hiện nay ............................................................. 73
2.2.1. Về phương diện tổ chức ................................................................ 73
2.2.2. Về phương diện hoạt động ............................................................ 75
2.2.3. Về đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân .................................. 78
2.3. Phương hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Tòa án ....................................................................... 81
2.3.1. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.................................... 81
2.3.2 Về mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân............................... 81
2.3.3. Về việc áp dụng các nguyên tắc mới ............................................. 83
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, Chủ tịch nước công bố ngày 08/12/2013, có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn
diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc
tế của nước ta trong thời kỳ mới, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới của
lịch sử lập hiến Việt Nam. Trong tổ chức bộ máy nhà nước CHXHCN Việt
Nam, Tòa án nhân dân là một bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước và giữ vị
trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Bằng việc quy định “Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102), Hiến pháp năm 2013 xác định rõ ràng, cụ
thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước; khẳng định vị trí
trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động
xét xử trong các hoạt động tư pháp.
TAND là cơ quan tài phán, có vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ quan
nhà nước nên để các quy định của Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống và
phát huy hiệu lực, các quy định đó cần được cụ thể hóa bằng việc ban hành
các luật khác nhau, mà trước hết là Luật Tổ chức TAND năm 2014. Ngày 2411-2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XIII đã thông qua Luật Tổ chức TAND. Đây là một trong những
đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội thông qua
theo tinh thần Hiến pháp mới; thể chế hóa các quan điểm lớn, tiến bộ của
Đảng và Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa
các quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan


2


trọng cho sự phát triển của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người. Công tác của
TAND cũng có những nét đặc thù so với công tác của cơ quan nhà nước khác,
nên bên cạnh các nguyên tắc chung thì tổ chức và hoạt động Tòa án phải tuân
theo những nguyên tắc riêng thì mới tạo lập được bộ máy thống nhất, hoạt
động rõ ràng, hiệu quả. Luật tổ chức Toà án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ
các nguyên tắc cơ bản về Tòa án được quy định trong Hiến pháp và bổ sung
thêm những nguyên tắc mới, quan trọng, có tính chất đặc thù trong tổ chức và
hoạt động của Tòa án. Những nguyên tắc này sẽ là nguyên lý, tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt toàn bộ tổ chức và hoạt động của TAND.
Việc nghiên cứu các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án theo
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 góp phần nâng cao nhận thức để áp
dụng đúng đắn, linh hoạt các nguyên tắc này đảm bảo cho Tòa án thực sự là
công cụ bảo vệ công bằng, công lý, các quyền con người, quyền công dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong nhiều giai đoạn lịch sử của Nhà nước ta, Toà án nhân dân đã trải
qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức cũng như phương thức hoạt
động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề của nền tư pháp, nhất là trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Vấn đề hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của TAND ngày càng nhận được sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và toàn dân. Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học, tôi
thấy có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề “tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân”, nổi bật là các công trình :
- Luận án tiến sĩ Luật học của Tiến sĩ Lê Thành Dương năm 2002,
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay”;


3


- Luận án tiến sĩ Luật học của Tiến sĩ Trần Huy Liệu năm 2003, “Đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam”;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia: “Cải cách tổ chức
và hoạt động hệ thống Tòa án Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền”, mã số QGTĐ 09.10 do GS.TS Nguyễn Đăng Dung làm chủ
nhiệm đề tài, bảo vệ thành công năm 2010;
- Công trình của PGS.TS Tô Văn Hòa “Tính độc lập của Tòa án –
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và khuyến nghị
đối với Việt Nam”, xuất bản tại Lund, Thụy Điển năm 2006.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên
cứu các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở Việt Nam và nước
ngoài trong những giai đoạn khác nhau. Các công trình nghiên cứu khoa học
đó đóng góp vai trò quan trọng cho cải cách Tòa án ở Việt Nam trong giai
đoạn qua nhất là việc xây dựng Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Tuy vậy, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 mới có hiệu lực nên
cho đến thời điểm này, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án theo
Luật mới vẫn là đề tài bỏ ngỏ cho những người nghiên cứu khoa học. Với đề
tài “ Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án theo Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014”, hy vọng Luận văn sẽ phản ánh được những nội
dung mới và đóng góp thêm những kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống
về mặt lý luận, đánh giá một cách có căn cứ và khoa học về các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Tòa án được xác định theo Luật tổ chức tòa án nhân
dân năm 2014. Qua đánh giá thực tiễn tổ chức và hoạt động sẽ đưa ra các



4

phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Tòa án.
Hy vọng rằng quá trình nghiên cứu đề tài không chỉ mang đến những
kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho bản thân tác giả mà kết quả nghiên cứu
còn mang lại thông tin hữu ích, có cái nhìn tổng quan hơn cho mọi người.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu chủ yếu
của đề tài được xác định là các Hiến pháp và các Luật tổ chức Tòa án nhân
dân ở nước ta, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể như sau:
- Quy định của pháp luật qua các thời kỳ về tổ chức và hoạt động của
hệ thống Tòa án Việt Nam; tham khảo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của cơ quan Tòa án ở nước ngoài.
- Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc mới và những bất cập trong
thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay.
- Đề ra phương pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án theo Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
năm 2014.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu làm rõ những câu hỏi sau:
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án là gì? Nguyên tắc có ý
nghĩa như thế nào trong hoạt động của cơ quan Tòa án?
- Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014, có những nguyên tắc nào mới trong tổ chức và hoạt động của cơ quan
Tòa án?
- Những nguyên tắc nào trong tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước
ngoài có thể áp dụng ở Việt Nam?



5

- Những điều kiện nào đảm bảo cho các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án được thực hiện?
- Để đảm bảo thực hiện những nguyên tắc mới của tổ chức và hoạt
động Tòa án theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cần có những đổi
mới gì trong tổ chức và hoạt động của Tòa án Việt Nam hiện nay?
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và của nhà nước ta về nhà nước
pháp quyền và hoạt động tư pháp; các học thuyết chính trị về nhà nước pháp
quyền trên thế giới. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014, Pháp lệnh về thẩm
phán và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân.
Việc nghiên cứu đánh giá các vấn đề trong luận văn nhất quán dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Để đạt được nội dung nghiên cứu tác giả có sử dụng nhiều phương
pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê, lịch sử…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Là một công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện,
khoa học về vấn đề: “Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án theo
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014”, luận văn này bên cạnh việc đã làm
rõ được những vấn đề lý luận về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa
án còn phân tích nội dung, ý nghĩa của từng nguyên tắc theo Luật tổ chức tòa
án mới, trên cơ sở đánh giá khách quan những thành tựu đạt được và những
hạn chế của việc thực hiện các nguyên tắc, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc
hiện nay, và kiến nghị tiến hành những biện pháp nhằm đảm bảo việc tuân thủ
triệt để các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án.



6

Hy vọng rằng, những kết quả của luận văn sẽ là những đóng góp có
giá trị cho quá trình hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án và quá trình áp dụng trong thực tiễn, là tài liệu tham khảo
bổ ích cho những người nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập về Luật
tổ chức Tòa án.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục
lục, luận văn được cơ cấu thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân.
Chương 2: Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án
theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.


7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Theo từ điển tiếng Việt “nguyên tắc” là: “Điều cơ bản đã định ra, nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [29, tr.672]. Nguyên tắc là sản
phẩm của quá trình nhận thức thế giới khách quan, được đúc rút lại thành
những nguyên lý, phản ánh những quy luật khách quan và được coi là “cái
chuẩn” cho một quá trình hoạt động.
Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa chung nhất thì nguyên tắc của pháp

luật là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm,
thể hiện tính toàn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung
và hiệu lực của pháp luật. Bất cứ một hệ thống pháp luật nào cũng được xây
dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Những tư tưởng chỉ đạo
quán xuyến, xuyên suốt quá trình lập pháp cũng như quá trình thi hành và áp
dụng pháp luật. Để có một sự nhất quán trong quá trình lập pháp, thi hành và
áp dụng cần phải có những nguyên lý chỉ đạo mang tính bắt buộc chung gọi là
nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
Bộ máy nhà nước được xây dựng trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Hệ thống pháp luật luôn có những nguyên tắc chung, giữ vai trò là những
nguyên lý chỉ đạo chung nhất cho cả một hệ thống pháp luật, là cơ sở pháp lý
cao nhất, thống nhất cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Mỗi cơ quan cấu thành nên bộ máy nhà nước lại có những nguyên
tắc đặc thù tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mình. Những nguyên tắc đặc thù
đó chính là sự cụ thể hóa những nguyên tắc chung trong một lĩnh vực điều
chỉnh và phù hợp với những nguyên tắc chung. Thông thường, trong những
văn bản pháp luật ở Việt Nam, những nguyên tắc cơ bản được quy định trong
phần đầu: những quy định chung. Những nguyên tắc cơ bản của một ngành


8

luật được thể hiện trong những văn bản pháp luật thường bao gồm các nguyên
tắc chung và những nguyên tắc đặc thù trong một lĩnh vực điều chỉnh.
Đối với hệ thống Tòa án ở Việt Nam, những nguyên tắc riêng này được
cụ thể hóa tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Việc tuân theo các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trong việc vận hành bộ máy nhà nước và đảm bảo hiệu quả hoạt động đặc thù
của Tòa án... Căn cứ vào Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân năm
2014, có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND như sau:

- Nguyên tắc TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử
(Điều 5);
- Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán; bầu, cử hội thẩm (Điều 7);
- Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 8);
- Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
thẩm phán, hội thẩm (Điều 9);
- Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 11);
- Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 10);
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 13);
- Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Điều 6);
- Nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm và bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
(Điều 14);
- Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 12);


9

- Nguyên tắc mọi người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án (Điều 15);
- Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TAND (Điều 16);
- Nguyên tắc TAND chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
(Điều 19).
1.2. Quá trình hình thành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở
Việt Nam
Nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà nước là tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tòa án nhân dân thuộc hệ thống cơ

quan tư pháp đã cùng với hệ thống cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp hợp
thành bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, Tòa án
cũng thực hiện các nguyên tắc chung trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước như: Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Nguyên tắc tập trung dân chủ;
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa... Song với tính chất là cơ quan xét xử
nên Tòa án nhân dân có những đặc thù riêng, Tòa án nhân dân còn phải thực
hiện các nguyên tắc riêng do pháp luật quy định.
Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam được hình thành và phát triển gắn
với các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam, tùy vào yêu cầu thực tế
của mỗi giai đoạn cách mạng. Do đó, ở mỗi thời kỳ hệ thống Tòa án nhân dân
lại được tổ chức và hoạt động khác nhau.
Quá trình hình thành các nguyên tắc có sự thay đổi theo mỗi giai đoạn
tình hình đất nước, thể hiện một cách rõ nét qua các bản Hiến pháp và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân. Dựa trên các mốc thời gian ban hành các Hiến pháp
Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển hệ thống Tòa án có thể chia thành
các giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959;


10

- Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980;
- Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992;
- Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013;
- Giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
1.2.1. Nguyên tắc TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959:
Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã ra Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán. Sắc

lệnh này lần đầu tiên quy định về độc lập xét xử của Tòa án như sau: “Tòa án
tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành chính” (Điều 47 Sắc lệnh số
13/SL ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hòa về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán).
Sơ đồ Tổ chức Tòa án nhân dân
(Theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946) [32]
Toà thượng thẩm Bắc Kỳ

Toà thượng thẩm Trung Kỳ

Toà thượng thẩm Nam Kỳ

Toà án đệ nhị cấp
(ở các tỉnh)

Toà án sơ cấp
(ở các quận, huyện)

Ban tư pháp
(ở các xã)

Ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông
qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp


11

này quy định về “Cơ quan tư pháp”, theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các
Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Tuy nhiên, thực dân Pháp trở lại xâm

lược nước ta lần nữa, chiến tranh nổ ra, toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống
Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN
(Theo Hiến pháp năm 1946) [32]
Toà án tối cao

Các Toà án phúc thẩm

Các Toà án đệ nhị cấp
(ở các tỉnh)
Các Toà án sơ cấp
(ở các quận, huyện)

Ban tư pháp xã

Trong giai đoạn cải cách tư pháp 1950 đến 1958, sau gần 5 năm kể từ
ngày giành được chính quyền, chúng ta đã bãi bỏ bộ máy tư pháp của chế độ
chính quyền, thực dân, phong kiến, thiết lập những Tòa án mới, trong đó có
Tòa án Quân sự và Tòa án binh. Tuy nhiên, các Tòa án thường còn mang
nặng những ảnh hưởng của nền tư pháp cũ. Thực hiện một cách máy móc
“Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các Cơ quan hành chính” (Điều 42 Sắc lệnh số
13 ngày 24-01-1946). Ngày 05/6/1950, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra Sắc lệnh số 103/SL quy định liên hệ giữa Ủy ban kháng chiến
hành chính và các cơ quan chuyên môn. Ủy ban kháng chiến hành chính các
cấp có nhiệm vụ lãnh đạo và điều khiển các ngành chuyên môn cấp tương
đương. Theo Thông tư số 21-TTg ngày 07/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ


12


giải thích việc thi hành Sắc lệnh số 103/SL thì: “Đối với ngành xử án - Ủy
ban có thể vạch đường lối từng thời kỳ nhất định và đặc biệt có thể vạch
đường lối cho một vụ án xét thấy quan trọng. Tuy nhiên Tòa án không nhất
thiết phải theo. Tòa án có thể xử khác nhưng phải nói lý do. Ủy ban có thể
giao Công tố viện kháng cáo lên Tòa án trên”. Điều đó chứng tỏ rằng, tình
hình kháng chiến đã dẫn đến việc buộc phải “can thiệp” vào công tác xét xử
của Tòa án từ cơ quan Chính phủ nhưng cũng chỉ hạn chế ở mức đưa ra
khuyến nghị về đường lối xét xử cho những vụ án quan trọng và Tòa án chỉ
có nghĩa vụ tham khảo mà thôi.
- Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN (1959-1980) [33]
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Uỷ ban Thẩm phán TANDTC
Toà hình sự

Toà dân sự

Toà phúc thẩm

TAND khu tự trị
Việt Bắc

TAND khu tự trị
Tây Bắc

TAND tỉnh trong
khu tự trị Việt Bắc

TAND tỉnh trong
khu tự trị Tây Bắc


TAND thị xã,
huyện trong khu
tự trị Việt Bắc

TAND thị xã,
huyện trong khu
tự trị Tây Bắc

Toà án quân sự
trung ương

Các TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương
hoặc đơn vị hành chính
tương đương

Các TAND huyện, thành
phố thuộc tỉnh, thị xã
hoặc đơn vị hành chính
tương đương

Hội đồng toàn
thể Thẩm phán

Các TAQS ở cấp quân
khu, quân binh chủng,
sư đoàn trực thuộc Bộ
và tương đương



13

Vào tháng 4/1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối
cao và Viện công tố nhân dân trung ương, tách hệ thống Tòa án nhân dân và
Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp. Quyết định này đánh dấu một giai đoạn phát
triển mới của Tòa án nhân dân và tinh thần Nghị quyết này được ghi nhận vào
Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Về độc lập xét xử, Điều 100 Hiến pháp năm 1959 quy định rằng: “Khi
xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Căn cứ
vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Toà
án nhân dân, ngày 14-7-1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
khoá II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 tại Điều 4 cũng quy định, khi
xét xử Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Luật
cũng quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu (với nhiệm
kỳ là 5 năm) và bãi miễn; các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thẩm phán dự
khuyết, Ủy viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy ban
thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu
(với nhiệm kỳ 4 năm) và bãi miễn. Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu (với nhiệm kỳ 3 năm) và bãi miễn (Các Điều 26, 27 và 28 Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960).
Trong giai đoạn này, Hiến pháp và pháp luật quy định về độc lập xét xử
theo hướng Tòa án độc lập khi xét xử (chứ không phải là sự độc lập của Thẩm
phán như được quy định tại các giai đoạn sau). Chưa có một công trình
nghiên cứu nào lý giải tại sao trong giai đoạn này Hiến pháp lại quy định về
độc lập của Tòa án chứ không phải độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Tuy

nhiên, một trong những cơ sở có thể lý giải vấn đề này là do pháp luật Liên
Xô (cũ) giai đoạn đó quy định về độc lập của Tòa án khi xét xử, nên trong
một chừng mực nào đó, có sự ảnh hưởng nhất định khi tham khảo kinh
nghiệm của Liên Xô (cũ) trong quá trình xây dựng và ban hành Hiến pháp


14

năm 1959. Và cũng có thể vì Hiến pháp năm 1959 không quy định độc lập
của Thẩm phán nên một số quy định khá tiến bộ về độc lập xét xử như quyền
bất khả xâm phạm, chế độ lương bổng riêng cho Thẩm phán trong giai đoạn
trước đó đã không còn được áp dụng.
- Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992:
Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Tòa án nhân dân, được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 3-71981 và được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án
nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 22-12-1988. Theo Điều 2 của đạo luật này thì “các Tòa án nhân dân
gồm có: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và cấp tương đương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự” và “Trong tình hình đặc biệt
hoặc trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội
đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt”. Đối với cấp xã,
phường “thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của
pháp luật”.
Năm 1981 Bộ Tư pháp được thành lập lại và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1981 đã giao “việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt
tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối
hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện

nhiệm vụ đó” (Điều 16). Về quản lý các Tòa án quân sự, thì Pháp lệnh năm
1985 đã giao “Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý về mặt
tổ chức các Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tòa án quân
sự khu vực”.


15

SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TOÀ ÁN NHÂN DÂN
(Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981, được sửa đổi, bổ sung năm
1988 và Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự, được sửa đổi, bổ sung năm 1990) [34]
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Uỷ ban Thẩm phán TANDTC
Toà hình sự

Toà Dân sự Các Toà phúc thẩm tại Hà Nội,
Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và cấp tương đương
Uỷ ban Thẩm phán

Bộ máy
giúp việc

Toà án quân
sự cấp cao


Toà án quân sự quân khu
và cấp tương đương
Uỷ ban Thẩm phán

Toà hình sự

Toà dân sự

Bộ máy giúp việc

TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

Toà án quân sự khu vực

Tóm lại, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương trong giai đoạn
này do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, nhưng chủ yếu là việc trình tổng số biên chế
và quy định biên chế cụ thể cho từng Tòa án nhân dân địa phương. Về cơ bản,
các quy định về độc lập xét xử ở giai đoạn này không có sự thay đổi nhiều
hoặc tích cực hơn so với giai đoạn trước (1980-1992).


16

- Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TAND
(Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 1993 và
năm 1995; Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự năm 1993) [35]
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao


Toà
Hình
sự

Toà
Dân sự

Toà
Kinh tế

Toà
Hành
chính

Toà
Lao
động

Các Toà phúc thẩm
tại Hà Nội, Đà Nẵng,
TP.Hồ Chí Minh

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
Uỷ ban Thẩm phán
Toà
Hình
sự

Toà

Dân sự

Toà
Kinh tế

Toà
Lao
động

Bộ
máy
giúp
việc

Toà án
quân sự
trung
ương

Tòa án quân sự quân khu
và tương đương
Ủy ban Thẩm phán

Toà
Hành
chính

Bộ máy
giúp
việc


TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

Bộ máy giúp việc

Tòa án quân sự khu vực

Về độc lập xét xử, Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1992 vẫn giữ nguyên quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1981. Tuy nhiên, trong giai đoạn này có một mốc
quan trọng về độc lập xét xử được quy định tại Hiến pháp năm 1992 được sửa
đổi, bổ sung năm 2001, đó là sự thừa nhận quyền tư pháp trong mối quan hệ
thống nhất quyền lực nhà nước nhưng có sự phân công giữa các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ
sung năm 2001). Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 và sau đó là


17

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ của Quốc hội; Phó Chánh án, Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân
dân địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện) đều được bổ nhiệm thay thế cho chế
độ bầu Thẩm phán trước đây.
Về bảo đảm hoạt động của Tòa án, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
1992 lần đầu tiên có một chương quy định về vấn đề này. Kinh phí hoạt động
của Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống Tòa án do Quốc hội quyết định (Điều
44 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1992). Chế độ tiền lương, phụ cấp cho
Thẩm phán được quy định riêng bởi Ủy ban thường vụ Quốc Hội (Điều 42
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992). Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

năm 1992 được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1993, 1995 và được thay thế
bằng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 nhưng các quy định liên quan
đến độc lập xét xử không có gì thay đổi.
- Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ
bản được quy định tại Điều 103 của Hiến pháp năm 2013, bổ sung thêm
nguyên tắc có tính chất đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã
được ghi nhận tại các văn kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết
luận của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân
được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử” (Điều 5 Luật Tổ chức Toà án
nhân dân).
Với đặc thù chức năng xét xử của Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014 quy định các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập
theo thẩm quyền xét xử để bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án không bị lệ
thuộc hoặc chịu tác động không khách quan đến việc xét xử. Hệ thống tổ chức
của Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 thì hệ thống
Tòa án nhân dân năm 2014 gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân


18

cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, các Tòa án
quân sự. Về nguyên tắc thì hệ thống tòa án nhân dân hiện nay được tổ chức
độc lập theo thẩm quyền xét xử, vì vậy Tòa án nhân dân cấp cao không gắn
với đơn vị hành chính lãnh thổ như Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC TAND THEO LUẬT TỔ CHỨC TAND 2014
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA ÁN QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG


Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

Ủy ban Thẩm phán TAQSTW

Cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng

Bộ máy giúp việc

Tòa phúc thẩm
TAQSTW

Bộ máy
giúp việc

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TÒA ÁN QUÂN SỰ QUÂN
KHU VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG

Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao

Tòa
Hình
Sự

Tòa
Dân
Sự

Tòa

Hành
chính

Tòa
Kinh
tế

Tòa gia
Tòa
Bộ
đình

Lao
máy
Động người chưa giúp
thành niên việc

TAND TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

Ủy ban Thẩm phán
Tòa
Hình
Sự

Tòa
Dân
Sự

Tòa Tòa
Tòa

Hành Kinh Lao
chính Tế Động

Tòa gia đình
và người
chưa thành
niên

Ủy ban Thẩm phán

Bộ máy giúp việc

Bộ
máy
giúp
việc

TAND HUYỆN, QUẬN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH

Tòa
Tòa
Hình sự Dân sự

Tòa gia đình
và người chưa
thành niên

Tòa xử lý Bộ máy
hành
giúp việc

chính

TÒA ÁN QUÂN SỰ
KHU VỰC

So sánh các sơ đồ tổ chức hệ thống Tòa án theo sắc lệnh số 13 ngày 24-11946; theo Hiến pháp năm 1946; theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức


×