Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đăng ký doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn thi hành tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN NGUYỄN ĐAN QUỲNH

ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS.NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Viết Tý. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài này là trung thực và chƣa công bố dƣới bất kỳ hình thức nào trƣớc
đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá đƣợc chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu
tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng nhƣ số


liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn
gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 7 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

NGƢỜI CAM ĐOAN

PGS. TS. Nguyễn Viết Tý

Trần Nguyễn Đan Quỳnh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP

8

VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái quát về đăng ký doanh nghiệp

8


1.1.1.

Khái niệm đăng ký kinh doanh

8

1.1.2.

Khái niệm đăng ký doanh nghiệp

9

1.1.3.

Vai trò, ý nghĩa của đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh

10

1.2.

Pháp luật về đăng ký doanh nghiệp (đăng ký kinh doanh)

12

1.2.1.

Khái niệm, đặc điểm pháp luật đăng ký kinh doanh

12


1.2.2.

Nội dung pháp luật về đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh

14

nghiệp năm 2014
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN ĐĂNG KÝ

41

THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐHỒ CHÍ MINH
2.1.

Tổng quan các điều kiện kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí

41

Minh có ảnh hƣởng đến hoạt động đăng ký doanh nghiệp
2.1.1.

Điều kiện kinh tế

41

2.1.2.

Điều kiện xã hội


42

2.2.

Tình hình đăng ký thành lập các doanh nghiệp trên địa bàn Thành

44

phố Hồ Chí Minh
2.2.1.

Tình hình đăng ký thành lập doanh nghiệp

44

2.2.2.

Những thuận lợi về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp

45


2.2.3.

Những khó khăn về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp

51

2.2.4.


Nguyên nhân của tồn tại hạn chế

54

2.3.

Đánh giá việc áp dụng pháp luật về đăng ký thành lập doanh

55

nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1.

Kết quả đạt được

55

2.3.2.

Một số tồn tại, hạn chế trong đăng ký doanh nghiệp

58

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO

60

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
3.1.


Giải pháp hoàn thiện pháp luật, chính sách về đăng ký doanh

60

nghiệp
3.1.1.

Ban hành đầy đủ và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên

60

quan
3.1.2.

Triển khai thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với doanh

66

nghiệp
3.1.3.

Tiếp tục cải cách hành chính, công khai thủ tục hành chính

70

3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký doanh nghiệp

73


Nâng cao chất lượng công tác cán bộ; tăng cường hướng dẫn,

73

3.2.1.

trao đổi nghiệp vụ đăng ký doanh nghiệp
3.2.2.

Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật; làm rõ trách nhiệm

77

của người thành lập doanh nghiệp trong đăng ký doanh nghiệp
3.2.3.

Nâng cao hiệu quả của các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp

79

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do kinh doanh không chỉ là nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng
mà còn là một trong những quyền cơ bản của công dân đƣợc quy định tại Điều 33
Hiến pháp Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ ngh a Việt Nam năm 2013: “Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quyền
tự do kinh doanh trƣớc hết thể hiện ở quyền thành lập doanh nghiệp, vì vậy, đăng
ký thành lập doanh nghiệp (trƣớc đây gọi là đăng ký kinh doanh) là một nội dung, là
một chế định quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp, là thủ tục hành chính cho sự
ra đời của một doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp có vai trò pháp lý và thông tin
quan trọng đối các chủ thể trong nên kinh tế thị trƣờng.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đăng ký doanh nghiệp. Đảng và Nhà nƣớc
đặc biệt quan tâm đến vấn đề này khi ban hành các văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó đƣợc thể hiện rõ nét ở việc ban hành các luật
doanh nghiệp, kể từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, nhƣ: Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tƣ nhân ngày 21/12/1990; Luật Doanh nghiệp ngày 12 6 1999;
Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2005 và mới nhất là Luật Doanh nghiệp ngày
26/11/2014. Cũng nhƣ các văn bản luật trƣớc đó, Luật Doanh nghiệp (2014) quy
định về đăng ký doanh nghiệp theo hƣớng ngày càng mở rộng quyền tự do thành
lập doanh nghiệp cho các nhà đầu tƣ. Ở đây, cần thiết nghiên cứu cụ thể, sâu sắc các
quy định về thành lập doanh nghiệp theo Luật 2014 (văn bản đang hiện hành), đặc
biệt những quy định liên quan đến “khuôn khổ pháp luật” để doanh nghiệp tự do
thực hiện quyền thành lập doanh nghiệp của mình.
Luật Doanh nghiệp (2014) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 7 2015 là văn bản
pháp luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, trong đó
có một bộ phận quy định pháp luật về đăng ký doanh nghiệp. Trên cơ sở các quy
định của Luật Doanh nghiệp, hoạt động đăng ký doanh nghiệp đã đƣợc tiến hành
khá nhanh chóng về thủ tục, thông thoáng về điều kiện thành lập. Cùng với việc đơn



2

giản hoá thủ tục là việc giảm chi phí để thành lập mới một doanh nghiệp, bãi bỏ
những điều kiện mà doanh nghiệp khó đáp ứng, đồng thời nâng cao yêu cầu và trách
nhiệm của cơ quan nhà nƣớc với các doanh nghiệp, của cán bộ công chức thực hiện
nhiệm vụ đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ tạo
nên môi trƣờng kinh doanh tại Việt Nam chuyển biến khá tích cực, thông thoáng
hơn, sản xuất kinh doanh sôi động hơn, tạo dựng lòng tin cho các nhà đầu tƣ trong
và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, thực tế việc áp
dụng những quy định của Luật Doanh nghiệp (2014) về đăng ký doanh nghiệp cũng
đã có không ít những tồn tại và bất cập cần khắc phục để những quy định của Luật
về đăng ký doanh nghiệp đi vào cuộc sống.
Trên thực tế, Luật Doanh nghiệp (2014) nói chung và những quy định về đăng
ký doanh nghiệp theo Luật này nói riêng đƣợc áp dụng trong phạm vi cả nƣớc,
trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất Việt Nam xét về quy mô dân
số và mức độ đô thị hóa, đồng thời giữ vai trò đầu tàu kinh tế và là một trong những
trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng của cả nƣớc. Thành phố Hồ Chí Minh là
thành phố có đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp mạnh, hiện có khoảng 140.000
doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 1 3 số lƣợng doanh nghiệp đang hoạt động của
cả nƣớc. Với số lƣợng doanh nghiệp đƣợc hình thành khá lớn nhƣ vậy tại thành phố
Hồ Chí Minh, việc đăng ký doanh nghiệp và quản lý hoạt động của doanh nghiệp
sao cho không vƣợt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan nhà nƣớc là một vấn đề rất
quan trọng. Thực tế, hoạt động đăng ký doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
theo Luật Doanh nghiệp (2014) gặp nhiều vƣớng mắc, khó khăn gây rất nhiều trở
ngại cho các nhà đầu tƣ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi phải
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động đăng ký doanh nghiệp để có thể tìm ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả diều chỉnh của Luật Doanh nghiệp (2014).

Tất cả đó là lý do em lựa chọn vấn đề “Đăng ký doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp (2014) và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài
nghiên cứu trong luận văn cao học của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhìn chung, hoạt động kinh doanh nói chung và pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp nói riêng đã đƣợc nghiên cứu và thực hiện từ trƣớc khi các Luật Doanh
nghiệp đƣợc ban hành. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp (2014) ban hành và có
hiệu lực cũng đã có rất nhiều những khảo sát, nghiên cứu, đánh giá của các chuyên
gia về những điểm quy định mới, mức độ khả thi khi áp dụng Luật doanh nghiệp.
Điển hình trong số đó là: cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ƣơng (CIEM) phối hợp cùng chƣơng trình phát triển Liên Hợp Quốc UNDP
về Luật Doanh nghiệp đƣợc tiến hành năm 2004, Cuộc khảo sát của Phòng Thƣơng
mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng với chƣơng trình phát triển kinh tế tƣ
nhân MPDF năm 2005; chƣơng trình nghiên cứu về khu vực kinh tế phi chính thức
của Ngân Hàng Thế Giới năm 2003. Báo cáo đánh giá sáu năm thi hành Luật Doanh
nghiệp của CIEM và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức. Bên cạnh đó còn nhiều những
bài viết trong các luận văn, luận án; các báo, tạp chí chuyên ngành về quản lý nhà
nƣớc, chính sách pháp luật, chính sách kinh tế. Chẳng hạn Luật văn của Nguyễn Thị
Loan “về quyền tự do kinh doanh”; "Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh" của TS.Nguyễn Am Hiểu; Luật doanh nghiệp
2005 từ một góc nhìn so sánh" của PGS.TS Phạm Duy Ngh a; “Tiếp nhận pháp luật
nƣớc ngoài nhìn từ ví dụ luật công ty của Nhật và Luật doanh nghiệp của Việt
Nam” của Ths.Nguyễn Đức Lam; "Pháp luật về cấp giấy phép thành lập doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh ở Việt Nam - thực trạng và một vài kiến nghị" của
TS.Dƣơng Đăng Huệ đăng trên tạp chí quản lý nhà nƣớc và pháp luật số 4 1994;
"Quản lý nhà nƣớc về đăng ký kinh doanh và thuế đối với công ty Trách nhiệm hữu

hạn, Công ty cổ phần và Doanh nghiệp tƣ nhân", luận văn thạc sỹ luật học của Lê
Thị Tố Hoa, 1996; "Chế độ về cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh của
các loại hình doanh nghiệp ở nƣớc ta", luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Thanh
Ngọc, 1996; "Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp Việt Nam", luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Kim Hiền - 2002; "Chế độ
pháp lý về đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2005”; “Một số ý kiến


4

về công tác đăng ký kinh doanh năm 2012 - nhiệm vụ của năm 2013 và sửa đổi luật
doanh nghiệp” của Lê Xuân Hiển - trƣởng phòng đăng ký kinh doanh tỉnh Hải
Dƣơng - báo cáo Hội nghị tổng kết Đăng ký doanh nghiệp năm 2012; “Cải cách
đăng ký kinh doanh tại Việt Nam trong 25 năm sau đổi mới”; “Khung pháp lý về
đăng ký doanh nghiệp dần đƣợc hoàn thiện” của ông Lê Quang Mạnh - Cục trƣởng
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ - báo cáo định hƣớng kế
hoạch đầu năm; “Cơ chế tiền đăng hậu kiểm - chìa khóa của cải cách”, tài liệu của
Tổng cục thống kê, Hà nội năm 2012; “Chƣơng trình cải cách đăng ký doanh
nghiệp quốc gia: một số kết quả đạt đƣợc và phƣơng hƣớng hoàn thiện trong thời
gian tới” của Ông Lê Quang Mạnh - Cục trƣởng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh
Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, tổng kết hội nghị phát triển doanh nghiệp; “Quy định tiến
bộ về quản lý doanh nghiệp qua hoạt động đăng ký doanh nghiệp”.
Nhìn chung, các bài viết trong những công trình nghiên cứu cũng nhƣ trong
các báo, tạp chí, báo cáo đã có nhiều tìm tòi, đánh giá và đề cập đến nhiều khía cạnh
ở các mức độ khác nhau của quy định pháp luật đối với hoạt động đăng ký kinh
doanh của các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đã khái quát đƣợc bức
tranh tƣơng đối thực tế về hoạt động đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp và của
cơ quan nhà nƣớc trên cơ sở những số liệu khảo sát thực tế. Các công trình nghiên
cứu cũng đã vạch ra những bất cập trong hệ thống pháp luật và những yếu kém
trong tổ chức bộ máy về đăng ký doanh nghiệp, cũng nhƣ những yếu kém trong

thực thi pháp luật về đăng ký doanh nghiệp.
Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới phần nào phác hoạ đƣợc những
thành công hay hạn chế của Luật Doanh nghiệp nói chung khi đƣợc áp dụng trong
thực tiễn hay chỉ mới nghiên cứu so sánh chung về luật doanh nghiệp hoặc là so
sánh một l nh vực cụ thể nào đó của luật doanh nghiệp mà chƣa đƣa ra đƣợc
những đánh giá và yêu cầu riêng đối với pháp luật về đăng ký doanh nghiệp tại
thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, là những vấn đề mới
phát sinh khi áp dụng những quy định mới theo Luật Doanh nghiệp (2014) trong
giai đoạn hiện nay.


5

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về đăng ký doanh nghiệp của
các công trình khoa học đã đƣợc công bố; luận văn đi sâu tìm hiểu các chính sách,
quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, để có cái nhìn toàn diện về thực trạng đăng ký doanh nghiệp
hiện nay. Từ đó tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật doanh
nghiệp trong phạm vi cả nƣớc nói chung và ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng,
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: là các quy định về đăng ký doanh
nghiệp trong các Luật Doanh nghiệp, đắc biệt là Luật Doanh nghiệp (2014) và thực
tiễn trong hoạt động đăng ký kinh doanh nghiệp dƣới góc độ hoạt động quản lý nhà
nƣớc cũng nhƣ sự vận dụng pháp luật trong quá trình thành lập doanh nghiệp ở một
địa phƣơng cụ thể, đó là Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu và phân
tích những quy định về việc đăng ký đối với doanh nghiệp mới thành lập; phân tích
và đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp
mới của doanh nhân bao gồm những yếu tố tác động đến doanh nhân trong quá trình
doanh nhân thực hiện các quy định của pháp luật về đăng ký thành lập doanh

nghiệp mới. Bên cạch việc tập trung nghiên cứu hoạt động đăng ký thành lập doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn áp dụng dụng
quy định của pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:
Luận văn này đƣợc thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận cũng
nhƣ nội dung của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
(2014); phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký doanh nghiệp ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; tìm kiếm những giải pháp và góp phần xây dựng
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về đăng ký thành lập
doanh nghiệp.


6

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn:
Những câu hỏi nghiên cứu trong luận văn này gồm:
(i) Khái niệm đăng ký doanh nghiệp và pháp luật đăng ký doanh nghiệp?
(ii) Nội dung của Luật Doanh nghiệp (2014) về đăng ký doanh nghiệp?
(iii) Thực tiễn hoạt động đăng ký doanh nghiệp và những thuận lợi, khó khăn
trong hoạt động đăng ký doanh nghiệp ở TP Hồ Chí Minh?
(iv) Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp và nâng cao
hiệu quả hoạt động đăng ký doanh nghiệp?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận
văn là: Phép duy vật biện chứng và phép du vật lịch sử.
Các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể bao gồm: Phƣơng pháp phân
tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp thống kê và
phƣơng pháp tổng hợp đánh giá. Ngoài ra, bài luận văn còn có sự kế thừa những
thành tựu đã đạt đƣợc của các công trình khoa học đi trƣớc, từ đó khai triển theo ý

tƣởng của riêng mình gắn lý luận với thực tiễn nhằm phát hiện những ƣu điểm, hạn
chế của các quy định, những vấn đề còn tồn tại và đƣa ra những kiến nghị có tính
khả thi nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của tổ chức và cá nhân.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài đƣợc nghiên cứu trong bối cảnh việc thực hiện đăng ký doanh nghiệp,
đặc biệt là đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đang đƣợc
thực hiện theo Luật Doanh nghiệp (2014). Luận văn hệ thống hóa các cơ sở lý luận,
nghiên cứu các nội dung cụ thể của hoạt động đăng ký doanh nghiệp; phân tích
đánh giá thực trạng hoạt động đăng ký doanh nghiệp, hoạt động quản lý của cơ
quan nhà nƣớc trong quá trình thành lập doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động đăng ký doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh, đề tài đề xuất các giải pháp về mặt lý luận cũng nhƣ


7

thực tiễn để nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký doanh nghiệp tại thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng và hoàn thiện chế định pháp lý về đăng ký doanh nghiệp của
Việt Nam nói chung.
8. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về đăng ký doanh nghiệp và pháp luật về
đăng ký doanh nghiệp;
Chƣơng 2: Thực trạng và đánh giá việc thực hiện đăng ký thành lập doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động
đăng ký doanh nghiệp



8

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh
Ở Việt Nam từ 1990 thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” đã đƣợc nêu trong Luật
Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tƣ nhân 1990, Luật Doanh nghiệp 1999,
Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tƣ 2005, Luật Thƣơng mại 2005 và các văn bản
pháp luật hƣớng dẫn thi hành.Khái niệm đăng ký kinh doanh đƣợc xem xét ở những
góc độ khác nhau nhƣ:
Ở góc độ kinh tế, đăng ký kinh doanh là hoạt động tuy không trực tiếp tạo ra
của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy,
tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp chƣa thực
sự hình thành, song chi phí trong quá trình đăng ký kinh doanh thành lập doanh
nghiệp vẫn đƣợc tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp sau khi hình thành và
đƣợc khấu trừ trong khi tính thuế.
Ở góc độ quản lý nhà nƣớc, đăng ký kinh doanh đƣợc coi là biện pháp quản lý
nhà nƣớc về kinh tế, là hoạt động quản lý đầu tiên của Nhà nƣớc đối với doanh
nghiệp, điều này tạo điều kiện cho các hoạt động quản lý tiếp theo của Nhà nƣớc
khi doanh nghiệp đi vào sản xuất.
Ở góc độ chính trị, đăng ký kinh doanh lại đƣợc hiểu là quyền tự do của công
dân. Tuy nhiên, quyền này phải đƣợc hiểu là tự do trong “khuôn khổ của pháp luật”.
Quyền tự do kinh doanh của công dân có nội hàm bao gồm cả quyền tự do lựa chọn
ngành nghề, hình thức kinh doanh và tự do đăng ký kinh doanh. Bất cứ một cá
nhân, tổ chức nào có đủ điều kiện kinh doanh đều có thể đăng ký với Nhà nƣớc để
tiến hành hoạt động kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép.
Ở góc độ pháp lý, đăng ký kinh doanh còn đƣợc hiểu là một thủ tục pháp lý,



9

theo đó nhà đầu tƣ phải khai báo với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về dự kiến
hoạt động của mình và đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, đăng ký kinh doanh đƣợc hiểu là hoạt động pháp lý, bao gồm hành vi
của chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy
định của pháp luật với các nội dung cụ thể và cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
đăng ký kinh doanh tiến hành ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh, đồng thời, cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho chủ thể đăng ký kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp
Khái niệm đăng ký doanh nghiệp đƣợc ghi nhận đầu tiên trong Nghị định
43 2010 NĐ-CP ngày 15/4/2010 và tiếp tục đƣợc ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp
(2014). Khái niêm đăng ký doanh nghiệp cũng đƣợc nhìn nhận ở những giác độ
khác nhau.
Ở góc độ kinh tế, đăng ký doanh nghiệp là việc chuẩn bị các điều kiện vật chất
cần và đủ để hình thành một tổ chức kinh doanh. Nhà đầu tƣ phải chuẩn bị trụ sở, nhà
xƣởng, dây chuyền sản xuất, thiết bị k thật, đội ngũ nhân công, nhà quản lý v.v...1
Ở góc độ pháp lý, đăng ký doanh nghiệp là thủ tục pháp lý, đƣợc thực hiện tại
cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, tuỳ thuộc
vào mức độ cải cách hành chính và thái độ của Nhà nƣớc đối với quyền tự do kinh
doanh mà thủ tục pháp lý này có tính đơn giản hay phức tạp khác nhau. Theo đó.
thủ tục đăng ký doanh nghiệp có thể bao gồm thủ tục cho phép thành lập doanh
nghiệp và thủ tục đăng ký kinh doanh hoặc chỉ có một thủ tục duy nhất là đăng ký
kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh là thủ tục bắt buộc, nó cho phép xác lập tƣ
cách pháp lý của chủ thể kinh doanh2.

1


Những đối tƣợng bị cấm góp vốn, thành lập, quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành, tại địa chỉ:
ngày truy cập 27 5 2016
2
Những đối tƣợng bị cấm góp vốn, thành lập, quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành, tại địa chỉ:
ngày truy cập 27 5 2016


10

Với cách tiếp cận khái niệm đăng ký doanh nghiệp ở góc độ pháp lý nhƣ nêu
trên theo Nghị định 43 2010 NĐ-CP ngày 15/4/2010 giải thích đăng ký doanh
nghiệp là thủ tục pháp lý bao gồm thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế đối
với các loại hình doanh nghiệp thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và đăng ký
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp3. Đến Nghị định 78 2015 NĐ-CP ngày
14 9 2015 giải thích đăng ký doanh nghiệp là việc ngƣời thành lập doanh nghiệp
đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký những
thay đổi hoặc dự kiến thay đổi trong thông tin về đăng ký doanh nghiệp với cơ quan
đăng ký kinh doanh. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập doanh
nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp và các ngh a vụ đăng ký,
thông báo khác…4
Nhƣ vậy, đăng ký doanh nghiệp là thủ tục do pháp luật quy định nhằm khai
sinh về mặt pháp lý cho doanh nghiệp và đƣợc hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
về đăng ký doanh nghiệp với cá nhân, tổ chức về việc đăng ký thành lập mới doanh
nghiệp hay thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh
● Đối với Nhà nước:
Đối với Nhà nƣớc, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh có vai trò, ý
ngh a sau:

(i) Thông qua đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh thể hiện sự bảo
hộ của Nhà nƣớc bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói
chung và các chủ doanh nghiệp nói riêng; đặt cơ sở cho công tác thanh tra, kiểm tra
và giám sát của Nhà nƣớc đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

3
4

Xem khoản 1, điều 3 Nghị định 43 2010 NĐ-CP ngày 15/4/2010
Xem khoản 1 điều 3 của Nghị định 78 2015 NĐ-CP ngày 14/9/2015


11

(ii) Thông qua đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh Nhà nƣớc có cơ
sở định hƣớng phát triển kinh tế một cách hợp lý, giúp nhà nƣớc trong việc hoạch
định các chính sách quản lý kinh tế v mô.
(iii) Thông qua đăng ký kinh doanh, Nhà nƣớc thực hiện công tác thu thuế
đúng và đủ.
Ngoài ra, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh còn có ý ngh a trong
việc tạo công ăn, việc làm cho ngƣời lao động kết hợp với phát triển kinh tế, bảo vệ
môi trƣờng…
● Đối với doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh có vai
trò, ý ngh a sau:
(i) Thông qua hoạt động đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh Nhà
nƣớc thừa nhận địa vị pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
(ii) Thông qua đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, chủ thể kinh
doanh công khai hoá hoạt động kinh doanh của mình.
(iii) Đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh còn có tác dụng to lớn đối

với doanh nghiệp trong quá trình khởi sự cũng nhƣ chấm dứt hoạt động.
(iv) Ngoài ra, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh còn có ý ngh a về
mặt xã hội và kinh tế đối với doanh nghiệp, nhƣ:
Về mặt xã hội, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh còn nhằm công
khai hoá các hoạt động của doanh nghiệp trƣớc công chúng. Xã hội có đƣợc các
thông tin và các đảm bảo về tƣ cách pháp lý của doanh nghiệp. Từ đó, tạo ra niềm
tin ở các đối tác khi thực hiện các giao dịch. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để một
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Về mặt kinh tế, khi bƣớc vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp với tƣ
cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các hoạt động của
doanh nghiệp còn góp phần tác động vào sự phát triển kinh tế của toàn xã hội.


12

Nhƣ vậy, việc thành lập doanh nghiệp không chỉ có ý ngh a quan trọng đối
với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân các doanh nghiệp mà còn có ý ngh a đối
với việc bảo đảm trật tự quản lý nhà nƣớc và bảo vệ lợi ích cho các chủ thể khác
trong xã hội. Vì vậy, đăng ký doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh vừa là một nhu
cầu tất yếu vừa là một đòi hỏi mang tính ngh a vụ đối với mỗi doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trƣờng phát triển nhƣ hiên nay5.
1.2. Pháp luật về đăng ký doanh nghiệp (đăng ký kinh doanh)
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật đăng ký kinh doanh
● Khái niệm
Pháp luật về đăng ký kinh doanh là một bộ phận của pháp luật kinh tế, đƣợc
hình thành và phát triển cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế
hoạch, tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng. Nhƣ vậy, hiểu
pháp luật đăng ký kinh doanh theo ngh a hẹp là một bộ phận của pháp luật doanh
nghiệp, là toàn bộ các quy định pháp luật do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban
hành, điều chỉnh quan hệ trong quá trình tiến hành đăng ký kinh doanh theo những

quy định về trình tự, thủ tục cụ thể, rõ ràng.
Khi xác định khái niệm pháp luật về đăng ký doanh nghiệp (đăng ký kinh
doanh), tôi hoàn toàn thống nhất quan điểm của Lê Thế Phúc. Theo đó: “Pháp luật
về đăng ký kinh doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành
hoặc thừa nhận bắt buộc áp dụng và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những vấn
đề về điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục đăng ký kinh doanh.” 6
Theo khái niệm này, pháp luật về đăng ký kinh doanh sẽ không chỉ giới hạn
trong các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp mà sẽ bao gồm
cả những quy phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh đƣợc ban hành tại các văn bản
pháp luật khác nhƣ Luật đầu tƣ, Luật Thƣơng mại, Luật Dân sự... Tuy vậy, trong
5

ngày truy cập 31/5/2016
6
Đăng ký kinh doanh theo luật Doanh nghiệp Việt Nam – Thực trạng và một vài kiến nghị, Lê Thế phúc, tại địa chỉ:
ngày truy cập 05 6 2016


13

phạm vi luận văn này các quy định pháp luật đƣợc nghiên cứu chủ yếu là các quy
định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và một số văn bản pháp luật
hƣớng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, có thể hiểu pháp luật về đăng ký kinh doanh là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền về đăng ký kinh doanh với cá nhân, tổ chức có liên quan về việc đăng ký,
thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh tại Việt Nam. Các quy định của pháp luật về
đăng ký kinh doanh chủ yếu đƣợc điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân trong
nƣớc, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Pháp luật
về đăng ký kinh doanh theo ngh a rộng cũng điều chỉnh hoạt động kinh doanh và

đăng ký kinh doanh ra nƣớc ngoài của các tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, trong phạm
vi luận văn này không đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật về đăng ký kinh
doanh ra nƣớc ngoài mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về đăng ký kinh
doanh theo Luật Doanh nghiệp.
● Đặc điểm
Nhƣ trên đã nêu pháp luật về đăng ký doanh nghiêp là một bộ phận của pháp
luật kinh tế, vì vậy pháp luật về đăng ký doanh nghiệp mang đầy đủ những đặc
điểm chung của pháp luật kinh tế nhƣ: (i) Đối tƣợng điều chỉnh là các quan hệ kinh
tế phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nƣớc và các chủ thể kinh doanh; (ii) Chủ thể
là các cá nhân, tổ chức có hoạt động kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nƣớc.
Bên cạnh đó, pháp luật về đăng ký doanh nghiệp còn có những đặc điểm riêng
của nó, đó là:
Thứ nhất, về đối tƣợng điều chỉnh, pháp luật đăng ký kinh doanh điều chỉnh
những quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nƣớc
trƣớc khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính hành chính, trình tự
thực hiện, thủ tục thực hiện.
Thứ hai, về phƣơng pháp điều chỉnh, pháp luật đăng ký kinh doanh sử dụng
phƣơng pháp mệnh lệnh, kiểm tra và hƣớng dẫn mà không dùng phƣơng pháp thoả


14

thuận, bình đẳng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý
nhà nƣớc hƣớng dẫn, kiểm tra chủ thể kinh doanh tiến hành đăng ký kinh doanh,
không có sự thƣơng lƣợng, thoả thuận giữa các chủ thể với nhau về những quy định,
nội dung, điều kiện đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, về vai trò quản lý Nhà nƣớc, ngoài vai trò của pháp luật kinh tế nói
chung pháp luật về đăng ký kinh doanh còn có vai trò quan trọng khác đó là công cụ
để Nhà nƣớc quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng, duy trì môi trƣờng kinh doanh bình đẳng.

1.2.2. Nội dung pháp luật về đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp
năm 2014
● Cơ quan có thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp
Đa số các quốc gia đều cần tổ chức một hệ thống các cơ quan đăng ký kinh
doanh thống nhất, chuyên biệt hoặc thậm chí là một cơ quan duy nhất tập trung cho
nghiệp vụ chuyên môn này nhƣ: ở Singapore việc đăng ký kinh doanh đƣợc thực
hiện thông qua Cơ quan quản lý kế toán và doanh nghiệp (ACRA); ở Thụy Điển
đăng ký kinh doanh đƣợc thực hiện ở Cơ quan cấp bằng sáng chế và đăng ký kinh
doanh gọi tắt là PRO; ở Đức thực hiện đăng ký kinh doanh tại Toà án Hành chính;
Trung Quốc thủ tục đăng ký kinh doanh đƣợc diễn ra tại Cục quản lý Hành chính
Công thƣơng…và một số nƣớc khác trên thế giới chủ yếu việc đăng ký kinh doanh
đƣợc thực hiện tại Tòa án.
Đối với Việt Nam thẩm quyền đăng ký kinh doanh đƣợc quy định cụ thể trong
Luật Doanh nghiệp và các văn bản hƣớng dẫn thi hành.
Trƣớc đây, theo Luật Doanh nghiệp 2005, thẩm quyền đăng kí kinh doanh
thuộc về rất nhiều cơ quan nhà nƣớc khác nhau, đƣợc quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật. Thẩm quyền đăng kí kinh doanh đƣợc quy định tại Điều 163
Luật Doanh nghiệp 2005 và đƣợc cụ thể hóa tại điều 9 Nghị định số 43 2010 NĐCP ngày 15/4/2010 hƣớng dẫn đăng ký doanh nghiệp. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đƣợc quy định tại Điều 10 Nghị định


15

số 43 2010 NĐ-CP. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh
doanh cấp huyện đƣợc quy định tại Điều 11 của Nghị định này7.
Hiện nay, theo quy định của Luật Doanh nghiệp (2014), cơ quan có thẩm
quyền đăng ký kinh doanh đã có những thay đổi và đƣợc quy định cụ thể hơn.
Thẩm quyền đăng ký kinh doanh đƣợc quy định tại Điều 209 Luật doanh nghiệp
(2014) và cụ thể hóa tại Điều 13 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP ngày 14/9/2015.
Điều 13 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP quy định, các cơ quan có thẩm quyền

đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp, cụ thể nhƣ sau: Cơ quan đăng ký
kinh doanh đƣợc tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi chung là cấp
tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), bao
gồm: (1) Ở cấp tỉnh: Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tƣ (gọi
chung là Phòng Đăng ký kinh doanh). Phòng Đăng ký kinh doanh có thể tổ chức
các điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh tại các địa
điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh. Tuy nhiên, do đặc thù nên tại Thành phố Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có thể thành lập thêm một hoặc hai Phòng Đăng ký
kinh doanh và các phòng này đƣợc đánh số theo thứ tự. Việc thành lập thêm
Phòng Đăng ký kinh doanh do Ủy ban nhân dân thành phố quyết định sau khi thống
nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ. (2) Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ đăng ký hộ kinh doanh quy
định tại Điều 15 Nghị định 78 2015 NĐ-CP (gọi chung là cơ quan đăng ký kinh
doanh cấp huyện)”. Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con dấu riêng.
Tóm lại, với quy định về cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện đăng ký
kinh doanh theo điều 13 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP quy định cụ thể hơn, rõ hơn
về các địa điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng Đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, hạn chế không cho Phòng Đăng ký kinh doanh của Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ chuyển đổi hình thức hoạt động sang

7

Xem Điều điều 11 Nghị định số 43 2010 NĐ-CP ngày 15/4/2010


16

đơn vị sự nghiệp có thu. Ngoài ra, điều 13 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP không cho
thành lập Phòng Đăng ký kinh doanh ở cấp huyện.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Đăng ký kinh doanh đƣợc quy định cụ thể tại

Điều 14 và 15 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP. So với quy định tại điều 10, điều 11
Nghị định số 43 2010 NĐ-CP thì cơ bản quy định về cơ quan có thẩm quyền đăng
ký kinh doanh của điều 14, điều 15 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP không thay đổi.
Nhƣ vậy, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh không chỉ
dừng chấm dứt tại thời điểm khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp mà còn tiếp tục đƣợc thực hiện trong quá trình doanh nghiệp đã đi
vào sản xuất, kinh doanh. Việc quy định quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan đăng
ký kinh doanh nhƣ điều 14, điều 15 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP là hợp lý bởi
trong cơ chế mới không có sự kiểm soát chặt chẽ ở khâu đầu vào, Nhà nƣớc chỉ
thực hiện việc đăng kí sau đó thực hiện công tác “hậu kiểm”. Việc đăng ký kinh
doanh đƣợc tiến hành tại cơ quan đăng ký kinh doanh nên mọi thông tin về các chủ
thể kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh đều nắm rõ nên họ có điều kiện tốt để
thực hiện việc kiểm tra đối với doanh nghiệp, các chủ thể hoạt động kinh doanh.
● Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp
Để thành lập một doanh nghiệp trƣớc hết nhà đầu tƣ phải xác định, lựa chọn
đƣợc loại hình doanh nghiệp, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp lựa chọn mà nhà
đầu tƣ sẽ chuẩn bị một bộ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phù hợp. Hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (2014) đã đƣợc quy định một cách chi tiết,
cụ thể. Ngay từ trong Luật Doanh nghiệp (2014) đã đƣợc quy định thể hiện ở các
điều sau: Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp tƣ nhân (Điều 20); Hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp của công ty hợp danh (Điều 21); Hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp của công ty TNHH (Điều 22); Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp của
công ty cổ phần (Điều 23).
So với quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì Luật Doanh nghiệp (2014)
bỏ quy định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp của công ty đầu tƣ của nhà đầu tƣ nƣớc


17

ngoài lần đầu tiên đầu tƣ vào Việt Nam theo Điều 20 Luật Doanh nghiệp 2005. Luật

Doanh nghiệp (2014) đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tƣ có thể đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, khi muốn
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tƣ, sau đó sẽ chuẩn bị hồ sơ thực hiện thủ tục thành lập
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Về thực chất, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bao gồm các giấy tờ, tài liệu chứng
minh cho các điều kiện thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp (2014) và Nghị
định số 78 2015 NĐ-CP quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cho tất cả
các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tùy thuộc vào bản chất
cũng nhƣ điều kiện thành lập từng loại hình doanh nghiệp mà pháp luật quy định
những giấy tờ tài liệu cần có trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, có những loại hình
doanh nghiệp khi thành lập cần có hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đơn giản, cũng có
những loại hình loại hình doanh nghiệp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phức tạp. Ví
dụ: Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tƣ nhân rất đơn giản, chỉ đƣợc quy định trong một
điều của Luật Doanh nghiệp (2014) (Điều 20) và cụ thể hóa trong 1 điều trong
Nghị định số 78 2015 NĐ-CP (Điều 21), bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký doanh
nghiệp và một số giấy tờ khác liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp 8.
Trong lúc đó hồ sơ đăng ký công ty cổ phần phức tạp hơn nhiều. Theo Điều 23 Luật
Doanh nghiệp (2014 hồ sơ đăng ký công ty cổ phần gồm có: (i) Giấy đề nghị đăng
ký doanh nghiệp; (ii) Điều lệ công ty; (iii) Danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông
là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. (iv) Bản sao các giấy tờ liên quan đến nhân thân của cổ
đông.Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp cho công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, công ty cổ phần và công ty hợp danh đƣợc quy định cụ thể hơn
tại Điều 22 Nghị định số 78 2015 NĐ-CP.
Cùng với việc quy định hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
mới thành lập, Nghị định 78 2015 NĐ-CP (văn bản hƣớng dẫn Luật doanh nghiệp
2014) còn hƣớng dẫn cụ thể về Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với các công ty
8

Xem điều 20 LDN 2014



18

đƣợc thành lập trên cơ sở chia, tách, hợp nhất và công ty nhận sáp nhập 9 và hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp đối với các trƣờng hợp chuyển đổi doanh nghiệp10.
Để đƣợc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ngƣời thành lập doanh
nghiệp phải xây dựng hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và phải chịu trách nhiệm về tính
trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và các
báo cáo; trƣờng hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác,
chƣa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó11.
● Điều kiện đăng ký doanh nghiệp
- Đối tƣợng đƣợc đăng ký thành lập doanh nghiệp
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số
78 20105 NĐ-CP của Chính phủ quy định về đăng ký doanh nghiệp, việc thành lập,
đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam là quyền của cá nhân và
tổ chức đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ. Luật nghiêm cấm các cơ quan đăng ký kinh doanh
và các cơ quan khác gây phiền hà cho ngƣời thành lập doanh nghiệp12.
Luật Doanh nghiệp 2005 đã có sự mở rộng chủ thể thành lập Doanh nghiệp là
tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài và họ có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ở
Việt Nam13; đồng thời họ cũng có quyền góp vốn, mua cổ phần đối với các công ty
Trách nhiệm hữu hạn, công ty Hợp danh và công ty Cổ phần14. Các doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài còn đƣợc quyền kinh doanh tất cả các ngành nghề mà
pháp luật không cấm chứ không chỉ giới hạn trong nội dung các giấy phép đầu tƣ 15.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2005 còn mở rộng đáng kể quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp. Mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng có
ngh a là sự hạn chế can thiệt hành chính tuỳ ý của cơ quan Nhà nƣớc vào hoạt động
của doanh nghiệp.
9


Xem điều 24 NĐ 78 2015 NĐ-CP
Xem điều 25 LDN 2014
11
Xem khoản 7 điều 8 LDN 2014
12
Xem điều 5 NĐ78 2015/NĐ-CP, điều 18 LDN 2014
13
Xem khoản 1 điều 13 LDN 2005
14
Xem khoản 3 điều 13 LDN 2005
15
Xem điều 7 LDN 2005
10


19

Kế thừa tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp (2014)
vẫn ghi nhận sự mở rộng chủ thể thành lập Doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân nƣớc
ngoài. Luật Doanh nghiệp (2014) quy định thông thoáng hơn, không có sự phân
biệt, tách bạch giữa chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp trong nƣớc và nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài. Cũng giống Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp (2014)
quy định nhà đầu tƣ nƣớc ngoài cũng có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ở
Việt Nam, quyền này đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Doanh nghiệp
(2014)16. Ngoài ra, họ còn có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh 17 và Luật Doanh
nghiệp hiện hành cũng mở rộng đáng kể quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
quyền tự do kinh doanh là quyền của doanh nghiệp đƣợc tự chủ kinh doanh và lựa
chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; quyết

định các vấn đề trong các hoạt động kinh doanh, quyền đầu tƣ kinh doanh và quyền
huy động vốn18…. đặc biệt là từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy
định pháp luật, tham gia tố tụng theo quy định pháp luật.
Mặt khác, với quy định không tách bạch chủ thể là chủ doanh nghiệp trong
nƣớc và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nên pháp luật hiện hành không dành một điều để
quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện, nội dung cho việc đăng ký kinh doanh, đầu
tƣ của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài lần đầu tại Việt Nam. Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thực
hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp nhƣ các chủ doanh nghiệp trong nƣớc.
Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp (2014) quy định 06 đối tƣợng không
đƣợc thành lập doanh nghiệp đó là: (1) Cơ quan nhà nƣớc, đơn vị vũ trang nhân dân
sử dụng tài sản nhà nƣớc để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình; (2) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức, viên chức; (3) S quan, hạ s quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
16

Xem khoản 1 điều 18 LDN 2014
Xem khoản 3 điều 18 LDN 2005
18
Xem điều 7 LDN 2014
17


20

dân; s quan, hạ s quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân Việt Nam, trừ những ngƣời đƣợc cử làm đại diện theo ủy quyền để quản
lý phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh nghiệp; (4) Cán bộ lãnh đạo, quản lý
nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nƣớc, trừ những ngƣời đƣợc cử làm đại diện theo
ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh nghiệp khác; (5) Ngƣời

chƣa thành niên; ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự; tổ chức không có tƣ cách pháp nhân; (6) Ngƣời đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở
cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh
doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh
theo quyết định của Tòa án; các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật về phá
sản, phòng, chống tham nhũng. So với Luật Doanh nghiệp 2005 việc quy định này
đã đƣợc gom bớt một đối tƣợng và mở rộng phạm vi điều chỉnh. Trƣớc đây, Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định trƣờng hợp thứ 07 không đƣợc thành lập doanh
nghiệp là “các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản”, theo pháp
luật hiện hành thì quy định “các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về
phá sản, phòng, chống tham nhũng”.
- Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Để thực hiện và thể chế hóa
đầy đủ quyền tự do kinh doanh đƣợc quy định tại Điều 33 Hiến pháp, Luật Doanh
nghiệp (2014) đã chuyển từ nguyên tắc tự do kinh doanh những gì ghi trên Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sang nguyên tắc tự do kinh doanh những gì mà
pháp luật không cấm thông qua việc bỏ nội dung về ngành, nghề kinh doanh trên
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. “Tự do” ở đây không đƣợc hiểu theo ngh a
doanh nghiệp có thể kinh doanh bất cứ ngành nghề nào mà không gặp "rào cản".
Luật Đầu tƣ 2014 quy định 267 ngành, nghề không thuộc danh mục cấm đầu tƣ,
kinh doanh nhƣng lại có điều kiện. Mặt khác, nhà đầu tƣ nƣớc ngoài còn bị hạn chế


21

kinh doanh trong một số l nh vực19. Vì vậy, doanh nghiệp luôn phải đáp ứng đủ điều
kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tƣ, kinh doanh có điều kiện theo
quy định của Pháp luật và phải bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tƣ, kinh doanh đó

trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Ví dụ, với ngành, nghề kinh doanh bất
động sản, Luật Doanh nghiệp (2014) không yêu cầu doanh nghiệp phải có xác nhận
vốn pháp định khi thành lập doanh nghiệp, nhƣng khi doanh nghiệp thực hiện kinh
doanh ngành nghề này đƣơng nhiên phải đủ vốn pháp định là 20 tỷ đồng theo quy
định tại khoản 1, điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản số 66 2014 QH13. Tƣơng
tự, còn rất nhiều điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp bắt buộc phải có thì mới
đƣợc kinh doanh nhƣ khám chữa bệnh, mua bán dƣợc phẩm, nhóm ngành, nghề về
thiết kế, giám sát, khảo sát, quy hoạch xây dựng, nhóm ngành, nghề về môi giới
nhƣ môi giới lao động, việc làm, môi giới bất động sản….Quy định nhƣ vậy không
những giảm đáng kể chi phí tuân thủ thực hiện thủ tục hành chính mà còn nâng cao
tính chủ động, linh hoạt cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.
Nhƣ vậy, theo quy định mới, khi doanh nghiệp thấy có cơ hội kinh doanh,
thấy mình đáp ứng đƣợc điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh
doanh ngay. Khi doanh nghiệp muốn bổ sung ngành, nghề kinh doanh, doanh
nghiệp chỉ cần gửi thông báo đến cơ quan đăng ký kinh doanh bổ sung ngành, nghề
kinh doanh để cơ quan đăng ký kinh doanh ghi nhận theo đúng quy định mà không
phải cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp 20. Thực hiện việc này sẽ rất
thuận lợi, nhanh chóng cho doanh nghiệp. Đồng thời, muốn biết doanh nghiệp kinh
doanh ngành, nghề gì, trƣớc kia phải lệ thuộc vào nội dung ngành, nghề kinh doanh
ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thì nay sẽ vô cùng đơn giản,
thuận tiện, doanh nghiệp chỉ cần truy cập địa chỉ dangkykinhdoanh.gov.vn, nhập tên
hoặc mã số doanh nghiệp để tra cứu các thông tin cơ bản của doanh nghiệp, trong
đó có thông tin ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đăng ký.

19
20

Xem khoản 2 điều 7 LĐT 2014
Xem điều 32 LDN 2014 và điều 49 NĐ 78 2015 NĐ-CP



×