Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.1 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các số liệu, kết quả trong Luận văn là trung thực, đảm bảo độ
tin cậy. Các tài liệu tham khảo được trích dẫn nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Ngọc Anh



LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giáo viên hướng dẫn tôi thực
hiện Luận văn này – PGS. TS Nguyễn Thị Ánh Vân – người đã cho tôi những hướng
dẫn hết sức quý báu, giúp tôi hoàn thành Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các lãnh đạo, các thầy cô trường Đại học Luật Hà Nội,
Khoa sau Đại học, Khoa Pháp luật Kinh tế đã tạo điều kiện cho tôi có thể học tập,
nghiên cứu tại trường cùng sự tận tình khi giảng dạy cũng như truyền đạt kiến thức cho
chúng tôi.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi có thời gian tham gia khóa học và
nghiên cứu hoàn thành Luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn một cách tốt
nhất, nhưng Luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
những nhận xét, ý kiến đóng góp để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài....................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ......................................................................................3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.............................................3
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ......................................................4
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài....................................................................4

5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài....................................................................4
6. Cơ cấu của luận văn ...............................................................................................5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ..........................................6
1.1. Khái quát về quản lý thuế thu nhập......................................................................6
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập................................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế thu nhập ................................................................................. 9
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thuế thu nhập................................ 14
1.1.3.1. Các yếu tố khách quan .............................................................................................. 14
1.1.3.2. Các yếu tố chủ quan ................................................................................................... 15
1.2. Khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập ....................................................16
1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế và pháp luật quản lý thuế thu nhập ........... 16
1.2.2. Vai trò của pháp luật quản lý thuế thu nhập........................................................... 19
1.3. Sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến pháp luật quản lý thuế thu nhập...22
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ......................................................................................................26
2.1. Thành công của pháp luật quản lý thuế thu nhập ...............................................26
2.1.1. Những đánh giá chung .................................................................................................. 26
2.1.1.1. Hệ thống chính sách thuế thu nhập của Việt Nam đã và đang từng bước
được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu hội nhập ........................................................... 26
2.1.1.2. Pháp luật quản lý thuế đã có những sửa đổi, bổ sung giúp cho công tác quản lý
thuế thu nhập đạt được mục tiêu cải cách, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế ..........................27
2.1.2. Kết quả trong từng lĩnh vực cụ thể ............................................................................ 32
2.1.2.1. Về công tác quản lý đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế thu nhập ............. 32
2.1.2.2. Về công tác kiểm tra, thanh tra, quản lý nợ thuế thu nhập ............................. 34


2.1.2.3. Về công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế thu nhập .... 35
2.1.2.4. Về kết quả thu ngân sách nhà nước ....................................................................... 37
2.2. Một số bất cập của Pháp luật quản lý thuế thu nhập...........................................38

2.2.1. Qui định về triển khai phương thức nộp thuế điện tử trong thực tiễn thiếu
đồng bộ và hoàn chỉnh .............................................................................................................. 38
2.2.2. Qui định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế “thu hồi giấy chứng
nhận kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề” gây khó
khăn cho các đối tượng nợ thuế và chưa nhất quán giữa các văn bản pháp luật .... 40
2.2.3. Qui định hoàn thuế, xử lý số thuế TNCN nộp thừa không khuyến khích NNT
tự giác và mạnh dạn thực hiện nghĩa vụ thuế..................................................................... 44
2.2.4. Qui định về thời hạn xóa nợ tiền thuế, tiền phạt chưa phát huy được vai trò
của mình ....................................................................................................................................... 45
2.2.5. Qui định thành viên hợp danh trong Công ty Hợp danh phải đóng thuế
TNCN đối với khoản lợi nhuận từ vốn góp vào công ty là đánh thuế chồng thuế và
không đảm bảo công bằng xã hội .......................................................................................... 46
2.2.6. Căn cứ xác định thu nhập chịu thuế TNDN gây trở ngại trong việc xác định
thu nhập chịu thuế, làm giảm hiệu quả quản lý thuế TNDN của cơ quan thuế......... 50
2.2.7. Qui định về công khai thông tin doanh nghiệp vi phạm pháp luật về thuế làm
giảm khả năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và gây bất lợi tới doanh
nghiệp trong bối cảnh HNKTQT............................................................................................ 53
2.2.8. Một số tồn tại về bộ máy quản lý thuế và người nộp thuế làm giảm hiệu quả công
tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng ............................................. 56
2.2.8.1. Cơ quan thuế chưa có phương tiện hữu hiệu để nắm bắt được thông tin về
thu nhập của NNT gây khó khăn cho công tác kiểm soát thu nhập của NNT ............ 56
2.2.8.2. Nguồn nhân lực cán bộ thuế vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng chưa
đảm bảo thực hiện các hoạt động quản lý thuế hiệu quả........................................................ 57
2.2.8.3. Ý thức chấp hành pháp luật của người có thu nhập chịu thuế chưa cao..... 58
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ..............................59
3.1. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế...................................................59
3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam......... 59
3.1.2.Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế .............................................................................. 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế ...........................................................................................61


3.2.1. Hoàn thiện các qui định pháp luật về nộp thuế điện tử nhằm giảm tải cho các chủ
thể thực hiện công tác quản lý thuế thu nhập ........................................................................... 61
3.2.2. Cân nhắc bãi bỏ chế tài “Thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh, giấy phép
thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề” áp dụng với các cá nhân và doanh
nghiệp vi phạm pháp luật về thuế .......................................................................................... 63
3.2.3. Cần qui định rõ về việc hoàn thuế, về xử lý số thuế TNCN nộp thừa nhằm
khuyến khích NNT tự giác và mạnh dạn thực hiện nghĩa vụ thuế................................. 64
3.2.4. Điều kiện về thời hạn xóa nợ tiền thuế, tiền phạt cần được xem xét rút ngắn
nhằm đảm bảo cho việc xóa nợ tiền thuế, tiền phạt phát huy được vai trò và mang
lại hiệu quả cho quản lý thuế thu nhập ................................................................................ 64
3.2.5. Cần nghiên cứu bãi bỏ qui định đánh thuế TNCN vào thu nhập từ vốn góp
của thành viên hợp danh trong Công ty Hợp danh để đảm bảo công bằng xã hội .. 65
3.2.6. Hoàn thiện qui định pháp luật về xác định chi phí tính TNDN nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý thuế TNDN của cơ quan thuế ................................................................. 65
3.2.7. Sửa đổi biện pháp cưỡng chế thi hành pháp luật thuế bằng việc công khai
thông tin vi phạm pháp luật thuế theo hướng tạo điều kiện phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp nợ thuế ................................................................................................................ 67
3.2.8. Một số kiến nghị về hoàn thiện bộ máy quản lý thuế và ý thức chấp hành pháp luật
của người nộp thuế nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế nói chung và quản lý
thuế thu nhập nói riêng ................................................................................................................ 69
3.2.8.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ ngành thuế, phát triển cơ sở vật chất
ngành thuế ................................................................................................................................... 69
3.2.8.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm minh các trường hợp
vi phạm .......................................................................................................................................... 70
3.2.8.3. Đề cao công tác xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng CNTT trong quản lý

thuế thu nhập, phát triển hình thức thanh toán điện tử trong quản lý thuế .......................... 71
3.2.8.4. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về thuế thu nhập nâng cao
hiểu biết và ý thức chấp hành của NNT ............................................................................... 72
KẾT LUẬN................................................................................................................74
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHXNCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CNTT

: Công nghệ thông tin

HNKTQT

: Hội nhập kinh tế quốc tế

NNT

: Người nộp thuế

NSNN

: Ngân sách nhà nước


TNCN

: Thu nhập cá nhân

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không còn là điều mới mẻ mà đã trở thành một
xu hướng tất yếu, một cái đích cần đạt tới của tất cả các quốc gia và khu vực trên thế
giới chứ không riêng gì Việt Nam. Nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập của đất nước
đòi hỏi về một chính sách thuế như như thế nào để đáp ứng tốt nhất yêu cầu ấy mà các
nhà kinh tế, các nhà làm luật phải hướng tới.
Quản lý thuế chịu ảnh hưởng của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, trước xu thế
đó, các nước sẽ phải hợp tác với nhau và đi đến những điểm chung nhất định. Trong
điều kiện nền kinh tế hội nhập quốc tế, vấn đề quản lý thuế sẽ không tránh khỏi phát
sinh những thay đổi như cạnh tranh về thuế nhằm thu hút vốn đầu tư, đánh thuế trùng…
Vấn đề này cần giải quyết như thế nào để vừa hài hòa lợi ích quốc gia vừa phù hợp với
yêu cầu chung của quốc tế là một bài toán nan giải. Đặc biệt là ở những nước nền kinh
tế mới chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường mà điển hình là Việt Nam thì vai trò
của pháp luật quản lý thuế lại càng quan trọng, đặt các nhà làm luật trước những thách

thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện. Nhìn nhận vai trò của pháp luật thuế, trong
đó đặc biệt là pháp luật thuế thu nhập trong thời gian qua, chúng ta không thể phủ nhận
sự đóng góp tích cực của công cụ tài chính này trong việc tạo lập nguồn thu cho Ngân
sách nhà nước (NSNN), thực hiện công bằng xã hội và điều tiết hiệu quả nền kinh tế,
đưa kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu và đúng định hướng. Tuy nhiên, trong bối
cảnh nền kinh tế hội nhập và cạnh tranh đã làm cho nhiều doanh nghiệp lâm vào tình
trạng khó khăn về tài chính, doanh thu khiêm tốn, thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá
sản. Vì vậy, chính sách thuế của nhà nước và việc quản lý thuế thu nhập đối với các
doanh nghiệp này cũng phải rất linh hoạt, có những ưu đãi nhất định để làm sao khích
lệ doanh nghiệp tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh, đảm bảo doanh thu ổn định, từ
đó đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thuế. Đối với thu nhập của cá nhân cũng rất cần có
những biện pháp kiểm soát hợp lý để đảm bảo ý thức tự giác kê khai thuế và nộp thuế.
Với tư cách là loại thuế trực thu điển hình, thuế thu nhập luôn được xem là loại thuế có
tính nhạy cảm và khó quản lý so với thuế gián thu, có tỷ lệ thất thu cao do loại thuế này
điều tiết và tác động trực tiếp đến thu nhập của người nộp thuế (NNT). Cải cách thuế
thu nhập cần được kết hợp chặt chẽ và tương thích giữa pháp luật và công tác quản lý
thuế thu nhập vì một hệ thống chính sách dù có tiên tiến đến đâu cũng không phát huy
được tác dụng nếu không phù hợp với trình độ quản lý và ngược lại, cải cách quản lý
hành chính thuế cần được dựa trên một hệ thống chính sách thuế ổn định và rõ ràng. Do


2
vậy, công tác quản lý thuế TNCN, thuế TNDN sao cho hiệu quả và phù hợp với điều
kiện HNKTQT là vô cùng quan trọng, không những kiểm soát nguồn thu, đảm bảo
công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế của các chủ thể mà còn mang lại nhiều lợi ích
xã hội.
Trước thực tế đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận về quản lý thuế thu nhập, tạo cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu và đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài để đi đến đánh giá thực trạng
pháp luật và chỉ ra được hướng hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập là điều thiết

thực, góp phần quản lý hiệu quả thuế thu nhập trong điều hội nhập kinh tế ở Việt Nam.
Vì các lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp
cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam thời gian qua cũng có không ít công trình triển khai nghiên cứu về
vấn đề quản lý thuế và chính sách thuế thu nhập dưới dạng luận án tiến sĩ, luận văn thạc
sĩ, khóa luận tốt nghiệp, sách, tạp chí hoặc các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, các đề tài
nghiên cứu cấp trường. Có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu điển hình như: Đề
tài luận án tiến sĩ luật học: “Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2012) của tác giả Vũ Văn Cương; Luận án tiế



4
- Phương pháp so sánh luật học: nghiên cứu các qui định của pháp luật Việt
Nam về quản lý thuế với các qui định của pháp luật nuớc ngoài, khu vực về vấn đề này,
thông qua đó so sánh và rút kinh nghiệm, đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nuớc trong quá trình HNKTQT.
- Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, đề tài cũng sử dụng cách thức
tiếp cận truyền thống là đi từ nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực tiễn áp dụng,
chỉ ra thực trạng pháp luật và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài trước hết nhằm hệ thống hóa những lý luận cơ bản các
khía cạnh liên quan đến pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật quản lý hai loại
thuế thu nhập, gồm thuế TNCN và thuế TNDN nói riêng; luận giải các khái niệm, đặc
điểm pháp lý của từng loại thuế nói trên và khái niệm, vai trò của pháp luật quản lý thuế
thu nhập; đặt quản lý thuế thu nhập trong điều kiện hội nhập để làm nền tảng cho việc
đạt được mục đích tiếp theo của đề tài nghiên cứu.

Bên cạnh đó, đề tài đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng các qui định của
pháp luật quản lý thuế thu nhập gắn với thực tiễn thi hành mảng pháp luật này nhằm
tìm ra những kết quả đã đạt được và chỉ ra những hạn chế của pháp luật hiện hành trong
việc điều chỉnh hoạt động quản lý thuế thu nhập trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và
xác định những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó.
Dựa trên những phân tích, luận giải về những hạn chế và nguyên nhân nói trên,
đặt trong bối cảnh thực tiễn đang đổi thay của công tác quản lý thuế thu nhập ở Việt
Nam trong tiến trình HNKTQT, Luận văn mạnh dạn đi đến đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật một cách phù hợp. Hy vọng rằng Luận văn sẽ đóng góp một vài
tiếng nói nhỏ nhoi, có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà nuớc hữu quan trong quá
trình hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam.
5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích và luận giải các khái niệm cơ bản liên quan đến quản lý thuế thu
nhập; những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thuế thu nhập; vai trò của công tác
quản lý thuế thu nhập cũng như pháp luật quản lý thuế thu nhập.
- Đánh giá thực trạng các qui định của pháp luật hiện hành về quản lý thuế
thu nhập.


5
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật quản lý thuế thu nhập
để từ đó chỉ ra những mặt tích cực đã đạt được và những hạn chế, tồn tại; xác định
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó; và cuối cùng đưa ra những kiến nghị nhằm
đóng góp ý kiến hoàn thiện các qui định pháp luật về quản lý thuế thu nhập của Việt
Nam trong điều kiện HNKTQT.
- Luôn lưu ý đặt các phân tích, đánh giá, bình luận các qui định pháp luật và thực
tiễn thi hành pháp luật quản lý thuế thu nhập trong điều kiện HNKTQT của Việt Nam
để đảm bảo bám sát đề tài nghiên cứu.
6. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục văn bản pháp luật được sử dụng trong
luận văn và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được cơ cấu gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái quát về quản lý thuế thu nhập
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập
Thuế thu nhập đã được áp dụng từ lâu trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm.
Cho đến nay, trên thế giới có hai mô hình đánh thuế thu nhập: mô hình đánh thuế trên
tổng thu nhập và mô hình đánh thuế trên từng loại thu nhập và có hai loại thuế thu
nhập: Thuế TNCN và Thuế TNDN. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về từng loại
thuế thu nhập như: thuế TNCN và thuế TNDN nhưng dường như hiếm thấy một công
trình nào nghiên cứu về thuế thu nhập nói chung. Vì vậy, việc làm sáng tỏ khái niệm
thuế thu nhập là việc làm cần thiết để làm cơ sở xác định rõ phạm vi nghiên cứu của
Luận văn.
Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập là sắc
thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện
phân phối công bằng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân
hay pháp nhân nào khi nhận được thu nhập dưới bất cứ hình thức nào (hiện vật hay giá
trị) và bất kể từ nguồn nào (do lao động hay đầu tư) đều phải trích một phần từ thu nhập
đó để nộp cho nhà nước dưới dạng thuế thu nhập. Nếu thuế đánh vào thu nhập của cá
nhân có thu nhập thì được gọi là thuế TNCN và nếu thuế đánh vào thu nhập của cơ sở
kinh doanh thì được gọi là thuế TNDN.

Có thể khái quát:“Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập
của các cơ sở kinh doanh hoặc cá nhân có thu nhập phát sinh từng lần hoặc trong một
khoảng thời gian xác định từ một số nguồn nhất định”.
Như vậy, thuế thu nhập có một số đặc điểm quan trọng khác với các loại thuế
khác như sau:
Thứ nhất, thuế thu nhập là thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của chủ thể
nộp thuế. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thuế thu nhập với các loại thuế gián thu
khác như thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt - loại thuế mà chủ thể nộp thuế
không đồng thời là chủ thể chịu thuế. Tính chất trực thu của loại thuế này thể hiện ở sự
đồng nhất giữa người chịu thuế và người nộp thuế. NNT thu nhập theo luật định không
có khả năng chuyển nghĩa vụ thuế sang cho bất kỳ đối tượng nào khác. NNT là cá nhân
(trong trường hợp thuế TNCN) hoặc là tổ chức (trong trường hợp thuế TNDN).
Thứ hai, thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập. Thực tế hệ thống


7
thuế của các nước cho thấy, bất kỳ loại thuế nào, suy cho cùng cũng đều lấy từ thu nhập
của dân cư trong xã hội để tập trung vào quỹ NSNN. Tuy nhiên, không phải loại thuế
nào cũng là thuế thu nhập. Thuế thu nhập khác với thuế tiêu dùng (thuế Giá trị gia tăng;
thuế Tiêu thụ đặc biệt) ở chỗ: thuế thu nhập là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu
nhập của các tổ chức, cá nhân khi có thu nhập chịu thuế phát sinh. Còn thuế tiêu dùng
là loại thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập của người tiêu dùng, thông qua
việc người tiêu dùng sử dụng thu nhập để mua hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, phần thuế
nhà nước thu được cộng vào trong giá bán hàng hóa, dịch vụ. Do thuế thu nhập có đối
tượng đánh thuế là thu nhập phát sinh, vì thế, một trong những nội dung quan trọng
trong chính sách thuế thu nhập là phải xác định được đúng và đủ thu nhập chịu thuế.
Thứ ba, thuế thu nhập là một loại thuế phức tạp, có tính ổn định không cao, phụ
thuộc vào chính sách điều tiết kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ khác
nhau. Việc quản lý thuế thuế thu nhập tương đối khó khăn hơn so với các loại thuế
khác. Đối với thuế thu nhập, ngoài việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế còn phải

xác định nguồn gốc thu nhập, địa điểm phát sinh thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở
hữa thu nhập, tính ổn định của thu nhập… Trong phần xác định thu nhập chịu thuế,
phải xác định được các khoản chi phí được trừ hợp lý và đúng qui định để tiến hành
khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng và khuyến khích đối tượng
nộp thuế.
Dựa vào đối tượng nộp thuế, thuế thu nhập được phân thành hai loại: Thuế
TNCN và thuế TNDN.
Thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân
trong một kỳ tính thuế, thường là một năm, từng tháng hoặc từng lần, không phân biệt
nguồn gốc phát sinh thu nhập.
Trong đó: Thuế TNCN là một loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập của
cá nhân, cá nhân không thể chuyển gánh nặng thuế sang cho chủ thể khác; TNCN là
tổng số tiền, hàng hóa, dịch vụ mà một cá nhân nhận được trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm); thu nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế là thu nhập sau
khi đã giảm trừ các khoản chi phí liên quan để tạo ra thu nhập, các khoản giảm trừ
mang tính xã hội và các khoản giảm trừ khác.
Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển. Lần đầu tại Hà Lan
vào năm 1797, sau đó vào năm 1799, thuế TNCN ở Anh được đưa vào thực hiện như
một hình thức tạm thu nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và


8
được chính thức áp dụng vào năm 1842, tiếp sau đó là ở Phổ năm 1808. Sau đó, nhiều
nước tư bản phát triển khác cũng lần lượt áp dụng loại thuế này như: Nhật Bản (1887),
Đức (1899), Mỹ (1913), Pháp (1914) và Liên Xô (1922). Các nước Châu Á cũng bắt
đầu áp dụng thuế TNCN mà tiên phong là Thái Lan (1939), và sau đó là Hàn Quốc
(1948), In-đô-nê-xi-a (1949) và Trung Quốc (1984)1.
Ở Miền Nam Việt Nam trước năm 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế
TNCN với tên gọi là Thuế Lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó loại thuế này được
cải cách vào năm 1972. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày

27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao và đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/4/1991. Để phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, tính đến hết năm 2008, qua 17 năm thực thi, Quốc hội đã có
năm lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh 1990 để phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh xã
hội, lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 01/6/1994, lần thứ ba vào
ngày 06/02/1997, lần thứ tư vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2000, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2001. Đến ngày 21/11/2007, Quốc hội nước ta thông qua
Luật Thuế TNCN số 04/2012/QH13 ngày 22/11/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2009, đánh dấu bước phát triển quan trọng của sắc thuế này. Thu nhập của các cá
nhân kinh doanh từ ngày 01/01/2009 chịu sự điều chỉnh của Thuế TNCN. Và đến hiện
tại, quốc hội đã thông qua Luật số 26/2012/QH13 ngày 22/11/2012 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12.
Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh vào cơ sở kinh doanh nhằm đảm bảo sự
đóng góp công bằng, hợp lý giữa các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Thuế TNDN xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của thuế. Hiện nay ở các
nước phát triển, thuế TNDN giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn định
nguồn thu NSNN và thực hiện phân phối lại thu nhập của các cơ sở kinh doanh. Mức
thuế cao hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối tượng nộp thuế TNDN là khác
nhau, điều đó phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong phân
phối thu nhập của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Sự ra đời của thuế TNDN ở nước ta là kết quả của công tác cải cách hệ thống
thuế nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đổi mới. Cùng với công cuộc cải cách thuế bước I, năm 1990, thuế đánh


9
vào thu nhập của doanh nghiệp đã được ban hành dưới danh nghĩa Thuế Lợi tức (năm
1990) và được áp dụng đến năm 1999. Sau hơn 8 năm thi hành, Luật Thuế lợi tức dần

bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam giai
đoạn mới – giai đoạn mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực. Vì vậy,
Luật Thuế TNDN số 57-L/CTN được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1999 thay thế Luật Thuế lợi tức năm 1990. Ngày 17/6/2003, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Thuế TNDN số 09/2003/QH11 thay thế Luật
Thuế TNDN năm 1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004. Đến ngày 03/6/2008,
Quốc hội thông qua Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12. Ngày 19/6/2013, Luật Thuế
TNDN số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN số
14/2008/QH12 đã được Quốc hội thông qua.
Xuất phát từ những phân tích trên về khái niệm và đặc điểm và các loại thuế thu
nhập, có thể thấy pháp luật quản lý thuế thu nhập có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện điều tiết hiệu quả nền kinh tế, tạo lập nguồn thu ngân sách. Việc các cá nhân, tổ
chức trích một phần thu nhập của mình nộp thuế cho Nhà nước có tính nguyên tắc mà
mỗi đối tượng phải chấp nhận. Xét về phương diện lý luận, việc nộp thuế cho Nhà nước
vừa là nghĩa vụ và cũng vừa là quyền lợi của NNT. Xét về phương diện thực tiễn, việc
nộp thuế cho Nhà nước khi có thu nhập đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới đã và
đang thực hiện. Tuy nhiên, do thuế thu nhập là thuế trực thu, chủ thể nộp thuế thường
cảm nhận được gánh nặng thuế mà mình phải chịu nên thường có xu hướng tìm mọi
cách để giảm thiểu số tiền thuế phải nộp theo đúng qui định của pháp luật. Vì vậy, hệ
thống pháp luật quản lý thuế thu nhập phù hợp và đúng hướng sẽ góp phần hiệu quả
hạn chế được nguy cơ trốn lậu thuế, loại bỏ khả năng thất thoát nguồn thu NSNN từ
thuế thu nhập, thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế thu nhập
Quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng là lĩnh vực quản lý
chuyên ngành. Vì vậy, để làm rõ khái niệm quản lý thuế, rồi quản lý thuế thu nhập,
trước hết, cần tiếp cận khái niệm quản lý.
Quản lý là hoạt động cần thiết của tổ chức nhằm khai thác một cách có hiệu quả
các nguồn lực và nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Các học giả hàng đầu trên thế
giới đã tiếp cận vấn đề quản lý theo nhiều cách khác nhau, do đó họ cũng đã có những

định nghĩa khác nhau về quản lý, tùy thuộc và góc độ nghiên cứu các ngành khoa học


10
khác nhau như: kinh tế học, luật học, xã hội học... Trên cơ sở đặc thù của mình, mỗi
cách tiếp cận đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Tuy nhiên trong thực tế, tùy
thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể mà các nhà quản lý lựa chọn cho mình một
cách tiếp cận phù hợp nhất. Theo Các Mác, “Quản lý là một chức năng đặc biệt này
sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động”2. Theo từ điển Hán Việt, “Quản lý là
việc trông nom, sắp đặt công việc trong một tổ chức”3. Theo đó, quản lý là sự đòi hỏi
được liên kết lại dưới nhiều hình thức khi có sự hợp tác của nhiều người. Theo từ điển
Tiếng Việt, “Quản lý là trông coi và điều khiển các hoạt động nào đó theo những yêu
cầu nhất định”4. Trong cuốn giải thích thuật ngữ pháp lý Việt Nam có giải thích:
“Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị quản lý nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Nó nhằm chỉ một tập hợp các hoạt động cần thiết
phải được thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu chung”5. Nhìn chung, các khái
niệm về quản lý đều thống nhất rằng, đã nói đến quản lý là nói đến hoạt động của con
người nhằm thực hiện những mục tiêu đã định thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ
chức, lãnh đạo, phối hợp, kiểm soát và thúc đẩy hoạt động của những con người trong
tổ chức đó.
Xuất phát từ những phân tích trên về khái niệm “quản lý”, theo tác giả: “Quản lý
thuế là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp
tác động lên đối tượng của quản lý thuế làm cho chúng vận động theo đúng quỹ đạo
mong muốn của nhà quản lý, nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra”. Như vậy, quản lý
thuế bao gồm cả hoạt động xây dựng chính sách thuế, ban hành pháp luật thuế và hoạt
động tổ chức hành thu; xây dựng lực lượng thuế có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
cao để đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Khái niệm quản lý thuế thu nhập cũng
không nằm ngoài khái niệm chung về quản lý thuế. Tuy nhiên, mục tiêu của quản lý
thuế thu nhập chỉ là một bộ phận và hẹp hơn so với mục tiêu chung của công tác quản
lý thuế nhưng cũng nằm trong những mục tiêu chung mà công tác quản lý thuế phải đạt

được. Từ khái niệm quản lý thuế ở trên, tác giả đi đến khái niệm quản lý thuế thu nhập:
“Quản lý thuế thu nhập là quá trình các chủ thể quản lý thuế sử dụng hệ thống các
công cụ và phương pháp quản lý thuế thu nhập tác động lên các quan hệ phát sinh
trong quản lý thuế thu nhập làm cho chúng vận động theo đúng quỹ đạo mong muốn
của nhà quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế thu nhập”.
Khái niệm trên đã chỉ rõ chủ thể quản lý thuế thu nhập và đối tượng quản lý thuế
thu nhập, các quan hệ phát sinh trong quản lý thuế thu nhập cũng như chỉ ra công cụ,
phương pháp và mục tiêu của quản lý thuế thu nhập:


11
Chủ thể quản lý thuế thu nhập và đối tượng quản lý thuế thu nhập trước hết là
Nhà nước. Nhà nước ở đây có thể là cơ quan lập pháp (nếu coi quá trình quản lý thuế
thu nhập bao gồm cả giai đoạn ban hành các quy phạm pháp luật thuế thu nhập), cơ
quan hành pháp (mà trực tiếp là cơ quan thuế hoặc có tên gọi khác, tùy từng nước) và
cơ quan tư pháp (nếu coi quá trình quản lý thuế bao quát cả công đoạn giải quyết tranh
chấp về thuế giữa cơ quan hành thu và đối tượng nộp thuế thu nhập). Tùy theo tổ chức
bộ máy của nền hành chính từng quốc gia, mỗi nước có cơ quan nhà nước trực tiếp
quản lý thuế phù hợp. Cơ quan quản lý nhà nước về quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam
là cơ quan thuế. Ngoài ra, để thể hiện tư tưởng xã hội hóa hoạt động quản lý thuế của
nhà làm luật, pháp luật còn qui định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia
quản lý thuế, do đó chủ thể quản lý thuế thu nhập còn là người dân. Theo quan niệm về
hành chính công hiện đại, trái ngược với cơ chế quản lý hành chính “ra lệnh – phục
tùng” như trước đây mà hiện nay, quản lý hành chính giống như một dịch vụ công mà ở
đó, nhà nước sẽ thu một khoản tiền từ người dân để thực hiện trách nhiệm quản lý của
mình, người dân cũng có trách nhiệm nộp tiền cho Nhà nước khi sử dụng dịch vụ đó,
đó chính là tiền thuế. Điều này phù hợp với xu hướng quản lý thuế ở một số nước trên
thế giới: cơ quan thuế xem NNT như khách hàng của mình. Thuế là nguồn thu chủ yếu
của NSNN, là tài sản quốc gia phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia quản lý
thuế là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Như vậy,

chủ thể quản lý thuế thu nhập vừa là Nhà nước, vừa là người dân.
Đối tượng chủ yếu chịu sự quản lý thuế của nhà nước là NNT. Ngoài ra, đối
tượng của quản lý thuế còn bao gồm các tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá
nhân làm thủ tục về thuế thay NNT và cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan đến việc thực hiện pháp luật thuế. Bên cạnh đó, có thể thấy nguyên nhân dẫn đến
quản lý thuế kém hiệu quả không phải chỉ do sự chấp hành của NNT mà còn nằm ở cơ
chế quản lý. Bản thân pháp luật quản lý thuế cũng tồn tại những khuyết tật riêng như:
thủ tục rườm rà, qui định phức tạp, chồng chéo, không ổn định đặt ra yêu cầu cần cải
cách, sửa đổi. Khi cơ chế bộc lộ những khuyết tật của mình thì người dân có quyền
được phản đối (ví dụ như quyết định truy thu thuế sai). Cơ quan ban hành những qui
định đó chính là Nhà nước, do đó vấn đề cải cách là từ phía nhà nước chứ không phải
người dân. Theo đó, quản lý thuế lại chính là quản lý đối với người quản lý thuế. Như
vậy, cũng tương tự như chủ thể của quản lý thuế, đối tượng của quản lý thuế vừa là Nhà
nước, vừa là người dân.
Các quan hệ phát sinh trong quản lý thuế thu nhập là các quan hệ phát sinh


12
trước, trong và sau quá trình triển khai tổ chức thu nộp thuế thu nhập cho nhà nước.
Các quan hệ này có thể diễn ra giữa cơ quan thuế với NNT, giữa NNT với nhau, giữa
nội bộ cơ quan thuế. Ngoài ra, khác với các loại thuế gián thu như thuế Giá trị gia tăng,
quan hệ quản lý thuế thu nhập còn phát sinh giữa cơ quan thuế trong nước với cơ quan
thuế nước khác. Do vậy, đối tượng của quản lý thuế thu nhập hết sức đa dạng và phức
tạp, đòi hỏi phải có các công cụ và phương pháp quản lý thích hợp.
Công cụ của quản lý thuế thu nhập là pháp luật, kế hoạch, chính sách và một số
công cụ khác. Pháp luật là công cụ quản lý thuế có tính định hướng và điều tiết quan
trọng nhất, tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ về thuế giữa NNT. Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam chính là Luật Quản
lý thuế, Luật Thuế TNCN, Luật Thuế TNDN cùng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn
các luật trên. Bên cạnh đó, kế hoạch cũng là một công cụ không thể thiếu trong quản lý

thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng. Hiện nay, kế hoạch quản lý thuế thu
nhập ở Việt Nam nằm trong kế hoạch quản lý thuế nói chung, tiêu biểu là thực hiện
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 tại Quyết định số 732/QĐTTg ngày 17/05/2011 của Thủ tướng Chính phủ đến năm 2020. Những kế hoạch ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn cụ thể sẽ đánh giá, so sánh được chất lượng hiệu quả của quản
lý thuế cũng như quản lý thuế thu nhập qua từng giai đoạn, rút ra được những kinh
nghiệm bổ ích phục vụ công tác quản lý. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường và
HNKTQT như hiện nay, với nhiều yếu tố tác động đến quản lý thuế thu nhập từ trong
và ngoài nước thì công tác lập kế hoạch trong quản lý thuế thu nhập ngày càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Ngoài ra, trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính
sách là bộ phận năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời
sống kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh chính sách quản lý thuế thì chính sách kinh
tế, chính sách đối ngoại cũng tác động lên quản lý thuế. Đặc biệt, với công tác quản lý
thuế thu nhập thì chính sách thuế thay đổi để phù hợp với yêu cầu hội nhập như cắt
giảm thuế suất và tuân thủ theo các nguyên tắc quốc tế cũng là một yêu cầu thiết yếu.
Đi kèm với vấn đề này thì bộ máy và chu trình quản lý thuế thu nhập cũng phải thiết kế
phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Như vậy, hệ thống chính sách là công cụ vô cùng quan
trọng cần được xây dựng phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế trong nước và xu thế
toàn cầu hóa, HNKTQT đang ngày càng phát triển.
Phương pháp quản lý thuế thu nhập gồm các phương pháp như: phương pháp
hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục… Ở Việt Nam, trong công tác
quản lý thuế thu nhập, phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý


13
thuế thu nhập muốn các đòi hỏi của mình phải được chủ thể chịu sự quản lý tuân thủ
một cách bắt buộc, vô điều kiện. Tuy nhiên, các quyết đinh chủ thể đưa ra phải có căn
cứ khoa học, gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của các cấp, mỗi bộ phận, cá nhân khi
sử dụng các quyền hạn đó, tránh quan liêu, lạm dụng quyền hành, phù hợp với quản lý
công hiện đại. Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích vật chất
để kích thích tính tích cực của chủ thể chịu sự quản lý, thường được thể hiện dưới hình

thức ưu đãi thuế, thuế khoán… Phương pháp giáo dục được Nhà nước sử dụng thông
qua việc tác động vào nhận thức và tình cảm của các tổ chức và cá nhân đang tham gia
vào quá trình quản lý thuế nhằm nâng cao tính tự giác, tính tích cực của họ trong việc
thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhà nước có thể thông qua báo chí, đài phát
thanh, truyền hình, các đoàn thể, các hoạt động xã hội khác để tuyên truyền nhằm giáo
dục các chủ thể thực hiện quyền lợi và tuân thủ nghĩa vụ của mình.
Mục tiêu của quản lý thuế thu nhập: Tùy vào đặc điểm của mỗi quốc gia mà
quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng sẽ có những mục tiêu khác
nhau. Song nhìn chung quản lý thuế ở các nước và Việt Nam thường nhằm vào các mục
tiêu như: tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không ngừng
nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu; tối thiểu hóa chi phí nâng cao hiệu quả quản lý
thuế; điều tiết, phân phối lại thu nhập; tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho NNT
và cộng đồng. Cụ thể, thuế - bao gồm thuế thu nhập là nguồn thu chủ yếu của NSNN ở
hầu hết các nước trên thế giới, tài trợ cho các hoạt động cơ bản của Chính phủ. Các
chính sách thuế của nhà nước dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động đến thu nhập
của các tổ chức kinh tế và cá nhân, tác động đến các hoạt động kinh tế - cơ sở tạo ra
nguồn thu thuế trong tương lai. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật quản lý thuế thu
nhập và pháp luật các loại thuế thu nhập đúng đắn, phù hợp là cơ sở tạo nguồn thu cho
NSNN. Ngoài ra, các chi phí cho quản lý thuế như chi phí in ấn, lưu giữ hồ sơ, chứng
từ, chi phí khác… cần được qui định ở mức tối thiểu tránh gây ra gánh nặng chi phí quá
mức cho NNT. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật là biểu hiện của một xã hội
văn minh, hiện đại. Do vậy, trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách quản lý
thuế cũng như chính sách quản lý thuế thu nhập, nhà nước thông qua công tác thanh tra,
kiểm tra nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Nhà nước phải quản
lý thuế bằng pháp luật, mọi người dân phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật nước đó.
Tóm lại, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng là một trong
những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý thuế, trong đó các cơ quan quản lý



14
thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải quan đóng vai trò chủ đạo. Thực hiện tốt nhiệm vụ
quản lý thuế có tác động tích cực tới quá trình thu, nộp thuế vào NSNN, đảm bảo thu
đúng, thu đủ tiền thuế, tránh thất thoát nguồn NSNN. Đó cũng chính là một trong
những vai trò quan trọng của quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thuế thu nhập
Hoạt động quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói riêng chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này đều có thể ảnh hưởng tích cực
hay tiêu cực tùy theo tính chất và trạng thái của yếu tố đó đối với công tác quản lý thuế
thu nhập. Các yếu tố này tác động dưới hai dạng: các yếu tố khách quan và các yếu tố
chủ quan. Nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế thu nhập là phải nắm rõ sự tác động của
mỗi yếu tố và tìm cách hạn chế những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực cũng như phát huy
những yếu tố ảnh hưởng tích cực nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế thu nhập.
1.1.3.1. Các yếu tố khách quan
Thứ nhất, chính sách quản lý thuế thu nhập của nhà nước: Nhà nước thể hiện ý
chí của mình ở từng lĩnh vực kinh tế - xã hội thông qua đường lối, chính sách quản lý
đối với từng lĩnh vực đó. Trong lĩnh vực quản lý thuế thu nhập, nhà nước cũng xác định
mục tiêu, yêu cầu và hướng quản lý trong lĩnh vực này bằng những chính sách cụ thể.
Nếu nhà nước xây dựng các chính sách quản lý thuế thu nhập đơn giản, phù hợp với
thực tiễn thì công tác quản lý sẽ thuận lợi; ngược lại, nếu các chính sách đó phức tạp thì
sẽ gây khó khăn trong quản lý, thậm chí còn tạo ra nhiều kẽ hở làm thất thoát tiền thuế.
Thứ hai, hệ thống văn bản pháp quy về thuế thu nhập: Các văn bản pháp quy về
thuế của nhà nước là cơ sở pháp lý để hướng dẫn NNT thực hiện nghĩa vụ về thuế và là
căn cứ để kiểm tra, xử phạt các trường hợp vi phạm. Hệ thống văn bản pháp luật thuế
thu nhập đầy đủ, hoàn chỉnh, dễ hiểu sẽ làm tăng tính khả thi của sắc thuế đó. Nhưng
nếu hệ thống văn bản này không đầy đủ, khó hiểu, mâu thuẫn sẽ gây khó khăn cho công
tác quản lý thuế, đặc biệt là đối với thuế thu nhập, loại thuế có tác động rất lớn đến
NNT khi đánh vào thu nhập của NNT.
Thứ ba, điều kiện kinh tế: Yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản
lý thuế thu nhập. Bởi thuế thu nhập là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập

của mỗi cá nhân và tổ chức. Ở các nước phát triển, thu nhập của các cơ sở kinh doanh
và thu nhập bình quân đầu người cao nên thuế TNCN và thuế TNDN chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu ngân sách. Điều đó đồng nghĩa với việc mức sống cao, nền kinh tế
phát triển thì NNT sẽ có khả năng đóng thuế thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, quản lý


15
thuế thu nhập khó khăn và phức tạp chủ yếu ở khâu quản lý thu nhập của các đối tượng,
nhất là thuế TNCN. Chính vì vậy, sự phát triển của hệ thống Ngân hàng đi kèm với
hình thức phát triển hình thức thanh toán qua tài khoản sẽ là một điều kiện tất yếu để có
thể thực hiện tốt công tác quản lý thuế thu nhập. Điều này được thực hiện dễ dàng hơn
ở các nước có điều kiện kinh tế phát triển.
Thư tư, trình độ hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của người dân: Đây là
một trong những điều kiện quan trọng trong thực hiện hoạt động quản lý thuế thu nhập.
Nếu người dân nắm được qui định của pháp luật và có ý thức tuân thủ sẽ giúp công tác
quản lý thuế thu nhập thuận lợi, dễ dàng hơn. Ngược lại, khi người dân kém hiểu biết, ý
thức chấp hành không cao sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý thuế thu nhập.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế: Với bản chất được quyết định bởi sự di
chuyển của hàng hóa, dịch vụ, lao động, vốn và công nghệ, HNKTQT đã và đang có
những tác động nhất định đối với mỗi nền kinh tế của nước nhà nói chung, với công tác
quản lý thuế thu nhập nói riêng. Tham gia hội nhập cũng có nghĩa là mỗi quốc gia phải
tuân thủ các nguyên tắc chung về thuế nói chung và thuế thu nhập nói riêng cũng như
pháp luật quản lý các loại thuế kể trên. Đồng thời, hội nhập kinh tế cũng làm cho cơ sở
tính thuế thu nhập và đối tượng tính thuế thu nhập có phần đa dạng, phức tạp hơn, khó
kiểm soát hơn so với một nền kinh tế đóng. Vì vậy, HNKTQT là một trong những yếu
tố quan trọng có ảnh hưởng tới yêu cầu về quy mô của bộ máy quản lý cũng như trình
độ của cán bộ quản lý thuế thu nhập.
1.1.3.2. Các yếu tố chủ quan
Một là, điều kiện vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế: Hoạt động quản lý thuế
thu nhập bao gồm rất nhiều các công việc tỉ mỉ, mất nhiều thời gian, đòi hỏi độ chính

xác cao nhưng vẫn đảm bảo phải được tiến hành nhanh để nắm chắc nguồn thu. Do đó,
cơ sở kỹ thuật, vật chất của cơ quan thuế càng hiện đại, quy trình quản lý chặt chẽ, bộ
máy quản lý thống nhất, đồng bộ thì hoạt động quản lý thuế thu nhập càng hiệu quả,
chính xác, nhanh chóng, vừa tiết kiệm thời gian lại vừa tiết kiệm chi phí, vừa an toàn lại
vừa hiệu quả và ngược lại.
Hai là, trình độ và đạo đức của cán bộ thuế: Thuế thu nhập là sắc thuế có tính
nhạy cảm cao, đòi hỏi cán bộ thuế phải có chuyên môn, nghiệp vụ cao để phổ biến,
hướng dẫn, giải đáp vướng mắc cũng như xử lý linh hoạt trong các tình huống. Bên
cạnh trình độ chuyên môn thì đạo đức của mỗi cán bộ thuế cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động quản lý thuế thu nhập. Mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn không trái các qui


16
định của pháp luật, không hách dịch, cửa quyền, thậm chí là gây nhũng nhiễu, quan liêu
là yêu cầu không thể thiếu đối với cán bộ quản lý, đảm bảo sự công bằng cho NNT và
giúp công tác quản lý thuế thu nhập đạt hiệu quả cao nhất.
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật thuế thu nhập, kiểm
tra, thanh tra xử lý vi phạm: Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thuế nói
chung và thuế thu nhập nói riêng sẽ giúp người dân kịp thời cập nhật các thông tin, nắm
và hiểu rõ các qui định và thực hiện đúng các chính sách thuế, từ đó nâng cao hiệu quả
hoạt động của quản lý thuế. Tính nghiêm minh của pháp luật cũng sẽ NNT và cơ quan
thuế thực hiện nghiêm túc các qui định của pháp luật để tránh khỏi những hình phạt khi
vi phạm. Do vậy, bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì công tác thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm của cơ quan có thẩm quyền sẽ làm tăng ý thức chấp hành của
NNT cũng như trách nhiệm của cán bộ thuế, góp phần ngăn chặn tình trạng tiêu cực,
gian lận thuế thu nhập.
1.2. Khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập
1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý thuế và pháp luật quản lý thuế thu nhập
Pháp luật quản lý thuế là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế ở
mỗi quốc gia, là công cụ chủ yếu được nhà nước sử dụng để thực hiện công tác quản lý

thuế. Quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và dân cư được thực hiện dựa trên những
căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Trên thế giới hiện có hai xu hướng
ban hành pháp luật về thuế phổ biến: một là qui định gộp các sắc thuế trong một bộ luật
chung về thuế, gọi là thuế vụ; hai là ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế. Tất
nhiên, mỗi một xu hướng đều có các ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Trên cơ sở xu
hướng trên thì mỗi quốc gia có một cách xây dựng hệ thống pháp luật về thuế phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Dù được xây dựng, thiết kế theo
nguyên tắc nào thì luật quản lý thuế bao giờ cũng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc quản lý, điều hành chính sách thuế. Nói một cách trực diện hơn, luật quản lý thuế
là luật tổ chức thực hiện các luật thuế. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của các luật về chính
sách thuế phụ thuộc khá lớn vào luật quản lý thuế. Cho dù các luật về chính sách thuế
phản ánh chuẩn xác, khoa học chính sách thuế nhưng nếu luật quản lý thuế – quản lý
cách thức vận hành của chính sách thuế – không phù hợp và thiếu tính khoa học thì vô
hình trung đã làm vô hiệu hoá các luật thuế.
Ở Việt Nam hiện nay, các nhà làm luật áp dụng cách thứ hai, đây cũng đang là
xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới. Theo đó mỗi loại thuế được ban hành


17
bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích với
nhau. Cách này tránh được nhược điểm ở xu hướng thứ nhất thường gặp phải các rắc
rối trong việc thể hiện các nội dung về quản lý thuế, vì vậy ảnh hưởng lớn đến các hành
vi ứng xử trong thực tiễn quản lý thuế. Tại đây qui định về nội dung cụ thể của các loại
thuế trong hệ thống thuế, trong đó các đạo luật về thuế thu nhập hiện nay là: Luật Thuế
TNCN năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012; Luật Thuế TNDN 2008 sửa đổi, bổng
sung năm 2013… qui định về đối tượng nộp thuế thu nhập, đối tượng chịu thuế thu
nhập, đối tượng không chịu thuế thu nhập; căn cứ tính thuế thu nhập; thời hạn nộp thuế
thu nhập và những trường hợp được ưu đãi về thuế thu nhập… Đồng thời, các nhà làm
luật tách bạch các qui định về quản lý thuế bằng một đạo luật riêng biệt so với các đạo
luật thuế, đó là Luật Quản lý thuế, hiện nay là Luật quản lý thuế sửa đổi, bổ sung năm

2012. Các qui định quản lý thuế thu nhập cũng nằm trong các qui định về quản lý thuế
nói chung trong đạo luật trên. Luật qui định về trình tự, thủ tục đăng ký thuế, cấp mã số
thuế; thủ tục mua hóa đơn, chứng từ; thủ tục kê khai thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế;
qui định những hành vi vi phạm và mức phạt vi phạm về thuế; qui định về khiếu nại, tố
cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo về thuế; qui định về thanh tra thuế… tức là qui định
về mặt thủ tục hành chính thuế cùng các cơ chế và biện pháp quản lý nhằm đảm bảo
việc thực thi pháp luật có hiệu quả. Nói một cách khác, ở Việt Nam, các đạo luật thuế
chính là pháp luật nội dung, còn pháp luật quản lý thuế là pháp luật thủ tục.
Việc đưa ra khái niệm pháp luật quản lý thuế nhằm phân định ranh giới giữa các
nhóm quan hệ xã hội do luật nội dung và luật thủ tục điều chỉnh, qua đó lựa chọn áp
dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. Tùy theo
những cách hiểu khác nhau mà người ta có thể nhìn nhận và phân tích pháp luật quản lý
thuế theo những căn cứ khác nhau (căn cứ vào nội dung quy phạm pháp luật về thuế;
căn cứ vào đối tượng thi hành pháp luật về thuế; căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quản
lý thuế…). Từ những phân tích trên, pháp luật quản lý thuế có thể định nghĩa như sau:
“Pháp luật quản lý thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với
NNT và các đối tượng có liên quan nhằm hình thành nguồn thu NSNN phục vụ cho việc
thực hiện các mục tiêu xác định trước”.
Để thực hiện hoạt động quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập nói
riêng đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhà nước cần phải ban hành hệ thống
quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động này. Nằm trong một hệ thống quản lý thuế
nói chung, pháp luật quản lý thuế thu nhập, một bộ phận của pháp luật quản lý thuế,


18
cũng được qui định trong Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thương Huyền, “Ranh giới giữa pháp luật quản lý thuế và pháp
luật nội dung các sắc thuế không hoàn toàn rạch ròi trong cách thể hiện. Điều này phụ
thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và sự lựa chọn của các nhà làm luật. Chẳng hạn:

các qui định quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các
văn bản pháp luật nội dung của sắc thuế đó, còn các qui định quản lý mang tính chất
chung sẽ được đưa vào Luật Quản lý thuế. Điều này không phá vỡ nguyên tắc chung
đồng thời đạt được hiệu quả cao”6. Tác giả hoàn toàn đồng tình với quan điểm trên.
Theo đó, để đưa ra được khái niệm “pháp luật quản lý thuế thu nhập”, chúng ta cần
phân tích cả những khía cạnh liên quan đến pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp
luật nội dung nằm trong Luật thuế TNCN, Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Bên cạnh đó, cùng với quá trình HNKTQT việc điều chỉnh quan hệ thuế thu
nhập không chỉ bằng pháp luật quốc gia mà còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Vì
vậy, pháp luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập hiện nay ở Việt Nam không chỉ bao
gồm các quy phạm pháp luật quốc gia mà còn cả một bộ phận các quy phạm pháp luật
quốc tế, điển hình là các quy phạm trong các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập mà nhà nước ta đã ký kết với 70 nước/vùng
lãnh thổ trên thế giới. Như vậy, có thể hiểu: “Pháp luật quản lý thuế thu nhập là một bộ
phận quan trọng của pháp luật quản lý thuế nói chung, bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành và các qui định trong các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động quản lý thuế thu nhập của Nhà nước nhằm đảm bảo tập trung đúng, đủ số thuế và
đúng hạn nguồn thu từ thuế TNCN và thuế TNDN vào NSNN”.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý thuế thu nhập khá đa dạng.
Tuy nhiên, căn cứ vào các chủ thể tham gia quan hệ thì pháp luật quản lý thuế thu nhập
điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:
- Quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế với NNT thu nhập phát sinh trong quá trình
quản lý thu, nộp thuế TNCN, thuế TNDN;
- Quan hệ phát sinh giữa các cơ quan quản lý thuế của các quốc gia có liên quan
trong việc hỗ trợ quản lý thuế thu nhập với NNT có yếu tố nước ngoài. Khác với các
loại thuế đánh vào tiêu dùng như thuế Giá trị gia tăng, Thuế Tiêu thụ đặc biệt… chỉ
được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật trong nước (trừ các quan hệ liên quan đến
loại hàng hóa nhập khẩu), thuế thu nhập còn được điều chỉnh bởi Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế. Theo đó, quan hệ phát sinh trong quá trình



×