Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.96 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ DUY VĨNH

“PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH SƠN LA”

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LUẬT KINH TẾ
60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS NGUYỄN THỊ NGA

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


HÀ DUY VĨNH

“PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH SƠN LA”

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LUẬT KINH TẾ
60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS NGUYỄN THỊ NGA

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
thông tin trong Luận văn là trung thực, có tiếp thu và sử dụng những ý tưởng khoa
học của các tác giả có bài nghiên cứu liên quan. Những phần trích dẫn đều có xuất
xứ rõ ràng.

XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI HƢỚNG DẪN

PGS.TS. Nguyễn Thị Nga


HỌC VIÊN

Hà Duy Vĩnh


LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập nghiên cứu cùng với sự hướng dẫn, giảng dạy của
Qúy thầy cô, sự ủng hộ của gia đình bạn bè, tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sỹ
luật học. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy cô Khoa Pháp
luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giảng dạy cho tôi trong thời
gian là học viên lớp Cao học Luật, Khóa K1, Khoa Pháp luật Kinh tế trường Đại
học Luật Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Nga, giảng
viên Luật Đất đai, Khoa Pháp luật Kinh tế, trường Đại học Luật Hà Nội là người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Bên cạnh đó, luận văn hoàn thành cũng nhờ sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của
bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình - những người luôn sát
cánh với tôi trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
HỌC VIÊN

Hà Duy Vĩnh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................... 1
LỜI NÓI ĐẦU ......................................................................................... 1
NỘI DUNG .............................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG KHI

NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT ......................................................................... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu hồi đất. . 9
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất. ................................................................. 9
1.1.2. Những tác động và ảnh hưởng của việc thu hồi đất ................. 12
1.1.4. Ý nghĩa của việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ................. 18
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu
hồi đất. .................................................................................................... 20
1.2.1. Khái niệm pháp luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. ...... 20
1.2.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh vấn đề bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất. .............................................................................................. 22
1.2.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất. .............................................................................. 25
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về bồi thƣờng khi
nhà nƣớc thu hồi đất. ............................................................................ 29
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993 ........................................................ 29
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003...................................... 31
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước khi năm 2013 ...................... 33
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay .................................................... 34
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU
HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH SƠN LA ............... 37
2.1. Nội dung pháp luật về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu hồi đất. .. 37
2.1.1. Nội dung các quy định chung về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất............................................................................................................ 37
2.1.1.1. Phạm vi và đối tượng áp dụng việc bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất. .................................................................................................... 37
2.1.1.2. Điều kiện được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. ............... 41
2.1.1.3. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. ..................... 44
2.1.2. Nội dung cụ thể quy định về bồi thường đất khi nhà nước thu hồi
đất ............................................................................................................ 46

2.1.2.1. Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại.... 46


2.1.2.2. Quy định về bồi thường đối với đất nông nghiệp. ..................... 50
2.1.2.3. Quy định về bồi thường đối với đất phi nông nghiệp. ............... 51
2.1.3. Nội dung quy định các quy định về bồi thường tài sản trên đất khi
nhà nước thu hồi đất. .............................................................................. 54
2.1.3.1. Đối với nhà ở và công trình xây dựng. ...................................... 54
2.1.3.2. Đối với vật nuôi, cây trồng, hoa màu trên đất. .......................... 57
2.1.4. Trình tự, thủ tục thực hiện việc bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất............................................................................................................ 58
2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất ............................................................................................................ 61
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu
hồi đất trên địa bàn tỉnh Sơn La ......................................................... 63
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La và sự
ảnh hưởng đối với công tác bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ......... 63
2.2.2. Thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sơn La thời gian qua ................................ 66
2.2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sơn La. ...................................................... 68
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT QUA
THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA................... 77
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng khi nhà nƣớc
thu hồi đất qua thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Sơn La. .......... 77
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu
hồi đất qua thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Sơn La. ................. 79
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất............................................................................................................ 79

3.2.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức
thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ................. 85
KẾT LUẬN ............................................................................................ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................. 91


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất luôn là vấn đề có nhiều ý kiến
đóng góp cũng như tranh cãi nhiều nhất. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đất đai là tài
nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con
người và các sinh vật khác trên trái đất. Đó là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng
trong việc đảm bảo cuộc sống của người dân cũng như đảm bảo cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và là yếu tố cấu thành nên lãnh thổ của mỗi
quốc gia. Có thể nói đất đai quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người.
Trong quá trình phát triển của đất nước phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hóa, Nhà nước cần phải
có một quỹ đất lớn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ chính trị, an ninh quốc
phòng, lợi ích công cộng, các khu công nghiệp, khu kinh tế cao và đô thị hóa…vì
vậy, việc thu hồi đất này để chuyển sang mục đích khác là tất yếu. Tuy nhiên, điều
đó sẽ có tác động không nhỏ đến lợi ích và đời sống của người dân, chính vì vậy
việc sử dụng và hưởng lợi cho các công trình, các dự án vì mục đích chung như thế
nào cho hợp lý lại là vấn đề hiện nay cần phải bàn một cách nghiêm túc, phải nhìn
nhận thật khách quan và công tâm, từ chính sách pháp luật đến việc thực thi chính
sách pháp luật đó trên thực tế. Và điều quan trọng nhất là phải bù đắp phần nào
những thiệt thòi mà người dân phải gánh chịu. Bởi vì thu hồi đất, bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất thực chất là việc xử lý mối quan hệ lợi ích giữa 03 chủ thể:
Nhà nước – người dân có đất bị thu hồi – nhà đầu tư. Tuy nhiên trong quá trình xử
lý mối quan hệ giữa các chủ thể thường mắc phải những mâu thuẫn, khiến các khiếu
kiện về bồi thường khi thu hồi đất thường xuyên xảy ra kéo dài phức tạp, gây mất

ổn định trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tỉnh Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây bắc trong những năm gần đây, tốc độ đô
thị hóa ở nơi đây cũng diễn ra vô cùng nhanh chóng và sôi động, kéo theo đó, một diện

1


tích đất nông nghiệp và đất ở của nhân dân đã bị thu hồi để phục vụ cho mục đích này.
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận của tiến trình thu hồi đất cho các mục đích phát
triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng không thể không kể đến đó là: góp phần ổn định
chính trị, quốc phòng, an ninh, cơ sở hạ tầng được cải tạo và phát triển theo hướng ngày
càng đồng bộ, bộ mặt đô thị ngày càng được khang trang, hiện đại hơn, cơ cấu kinh tế
cũng từng bước được chuyển dịch. Tuy nhiên, song hành với những thành tựu đó, chính
quyền tỉnh cũng như các cơ quan ban ngành có liên quan trong thời gian qua cũng đã và
đang đối mặt với những khó khăn và vướng mắc, đó là vấn đề bất đồng quan điểm, thậm
chí là sự bất bình và phản đối của người dân thuộc vùng quy hoạch bị thu hồi đất về vấn đề
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đặc biệt là vấn đề bồi thường đối với đất và tài sản trên đất
khi Nhà nước thu hồi. Nhiều vụ việc bị khiếu kiện dây dưa, kéo dài chưa được giải quyết.
Thực trạng nêu trên rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu một cách thấu đáo từ khía cạnh
pháp luật tới cách thức tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế để tìm ra đâu là nguyên nhân
cốt yếu. Trên cơ sở đó để có những lời giải hữu hiệu nhằm cải tiến tình trạng này, góp
phần nâng cao hiệu quả của công tác bồi thường trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh nhà,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả, giải quyết tốt hơn quyền lợi
cho người có đất bị thu hồi, đáp ứng kịp thời những mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của tỉnh.
Với mong muốn trên, được sự hướng dẫn và giúp đỡ của PGS.TS Nguyễn Thị
Nga, tôi quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La” để làm luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề không mới, đã

được nghiên cứu và bàn thảo rất nhiều, nhất là trong những năm gần đây nước ta
đẩy mạnh hoạt động đầu tư xây dựng để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn... Xuất phát từ thực

2


tiễn đó, một số nhà nghiên cứu đã có những bài viết, những công trình nghiên cứu
sau liên quan đến đề tài:
+ Phạm Văn Võ (2009), Chế độ pháp lý về sở hữu đối với đất đai ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sỹ, Thành phố Hà Nội.
+ Lưu Quốc Thái (2009), Thị trường quyền sử dụng đất - Thực trạng và hướng
hoàn thiện, Luận án Tiến sỹ, Thành phố Hà Nội.
+ Dương Tấn Vinh (2006), Các khía cạnh pháp lý về hoạt động bồi thường
giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án - Thực trạng và
giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Thành phố Hà Nội.
+ Hồ Minh Hà (2008), Quản lý nhà nước về định giá đất và bồi thường thiệt hại về
đất khi thu hồi đất tại TP. Cần Thơ, Luận văn Thạc sỹ, TP. Hồ Chí Minh.
+ Hoàng Thị Biên Thùy (2010), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, Luận văn Thạc sỹ, Thành phố Hà Nội.
+ ThS. Lê Ngọc Thạnh (2009), “Một số ý kiến về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất theo quy định pháp luật hiện hành”, Tạp chí khoa học pháp lý, (4).
+ TS. Nguyễn Quang Tuyến (2008), “Bình luận các quy định về thu hồi đất và
bồi thường khi thu hồi đất trong dự thảo Luật đất đai (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu
lập pháp.
+ TS. Nguyễn Quang Tuyến (2009), “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm
bồi thường khi nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí luật học.
+ ThS. Nguyễn Thị Dung, “Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước
trong khu vực và Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản.

+ TS. Nguyễn Thị Nga (2010), “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi
thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp
dụng”, Tạp chí Luật học.

3


+ TS. Nguyễn Thị Nga (2011) “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá
trình áp dụng bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học.
+ TS. Nguyễn Thị Nga (2013), “Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất - thực trạng và hướng hoàn thiện”- Đề tài khoa học cấp
Trường - Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đặc biệt sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 2013 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2014) và Luật đất đai 2013 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2014), vấn đề thu hồi
đất đã được hiến định trong Hiến pháp, đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch
sử lập hiến của Việt Nam, bởi đây là cơ sở hiến định đầu tiên ghi nhận việc thu hồi
đất có bồi thường, vì lý do quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng. Việc ghi nhận quy định này là một bước tiến lớn, thật
sự cần thiết; nhưng dường như việc triển khai trên thực tế vẫn còn nhiều vướng
mắc, trở ngại. Theo đó, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn đang được
tiếp tục tranh luận và có nhiều quan điểm khác nhau cần được đào sâu nghiên cứu
về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục đích sau đây:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường và pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất như: khái niệm, bản chất của bồi thường, sự cần
thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, đi sâu nghiên cứu, phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hiện
hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về

bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trong thời gian qua để có những nhận định và
đánh giá khách quan về những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, bất cập
của vấn đề này;
Thứ tư, thông qua việc nghiên cứu, đề tài đưa ra những kiến nghị, đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này trên thực tế.

4


Thứ năm, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp thêm nguồn tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học, trong thực tiễn áp dụng pháp luật
tại địa phương, cũng như trong quá trình sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về
đất đai trong thời gian tới.
* Để đạt được các mục đích đặt ra nêu trên, tác giả luận văn phải thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu và chỉ rõ sự cần thiết của việc thu hồi đất cho các mục
đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
- Thứ hai, nghiên cứu và chỉ rõ những tác động và ảnh hưởng của việc thu hồi
đất tới đời sống, việc làm và các quyền lợi của người có đất bị thu hồi và cho thấy
sự cần thiết Nhà nước phải có trách nhiệm bù đắp những thiệt hại và ổn định cuộc
sống, an dân cho người bị thu hồi đất.
- Thứ ba, nghiên cứu các quy định chung của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất và các quy định riêng của tỉnh Sơn la về vấn đề này trong sự lồng
ghép với việc nghiên cứu thực tiễn triển khai vấn đề bồi thường qua một số dự án cụ
thể tại tỉnh Sơn La nhằm đánh giá một cách trung thực, khách quan những thành tựu
đã đạt được, cũng như những vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp
luật về bồi thường trên thực tế.
- Thứ tư, từ thực tiễn các vụ việc, tìm hiểu và chỉ rõ được nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất ở cả khía cạnh pháp luật và khía cạnh tổ chức thực thi pháp luật.

- Thứ năm, đưa ra được những đề xuất, kiến nghị sát thực, có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả đối với công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại
tỉnh Sơn La trong thời gian tới.

5


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đây là một đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, phức tạp và giải quyết nhiều
yêu cầu trên các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, tâm lý, tập quán, truyền
thống……Tuy nhiên trong khuôn khổ một bài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ, tác giả
giới hạn ở những nội dung cụ thể sau.
* Đối tượng nghiên cứu.
- Các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất.
- Các quy định của Pháp luật đất đai hiện hành về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất.
- Một số văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La về hướng dẫn thực hiện
pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sơn La
* Phạm vi nghiên cứu
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có nội dung vô cùng rộng lớn bao gồm
bồi thường về đất, về tài sản trên đất, vấn đề hỗ trợ, tái định cư. Hoạt động thu hồi
đất tác động tới nhiều chủ thể là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, các chủ thể trong
nước, các chủ thể có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, việc thu hồi đặt ra với nhiều
loại đất khác nhau như: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp là đất ở và đất phi
nông nghiệp khác...
Để đảm bảo luận văn được nghiên cứu một cách tập trung, có chiều sâu, tác
giả luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn này các vấn đề cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề bồi thường về đất và tài sản trên đất mà không

nghiên cứu vấn đề hỗ trợ, tái định cư.

6


Thứ hai, nghiên cứu bồi thường về đất và tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi
đất để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 Luật Đất đai 2013 mà
không nghiên cứu các trường hợp bồi thường vì lý do khác
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt mục đích đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây.
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin.
- Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê…..được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn
đề lý luận về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất.
+ Phương pháp đánh giá, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật
học, phương pháp đối chiếu…..được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu pháp
luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La
+ Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp được
sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Sơn
La.
6 .Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây,
luận văn có một số đóng góp cho khoa học pháp lý đất đai ở nước ta biểu hiện ở
những nội dung sau đây:


7


- Đề tài đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ và toàn diện các chế định
có liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân ở các
phương diện lí luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Sơn La.
- Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích, đánh giá một cách khách quan những
ưu điểm đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của
những hạn chế, tồn tại đó để đề xuất các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện trong thời
gian tới nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường trên địa bàn tỉnh
nhà.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài các phần lời nói đầu và kết luận, luận văn được cơ cấu thành ba chương
với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và
pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi
hành tại tỉnh Sơn La.
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Sơn La.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Những vấn đề lý luận về bồi thƣờng khi nhà nƣớc thu hồi đất.

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất.
Trong đời sống hàng ngày thuật ngữ “thu hồi” và “thu hồi đất” được sử dụng
phổ biến, trong trường hợp này được hiểu là Nhà nước sẽ tước đi quyền sử dụng của
các chủ sử dụng đất và qua đó thiết lập mối quan hệ sử dụng đất mới phù hợp với
lợi ích của Nhà nước và xã hội, thực tế thu hồi đất là giai đoạn chuyển giao đất giữa
chủ thể này với chủ thể khác với mục đích mới. Do vậy các quy định về thu hồi đất
cần cân bằng lợi ích của ba chủ thể: Nhà nước – chủ đầu tư – người bị thu hồi đất.
Các thuật ngữ này còn được đề cập trong các giáo trình, từ điển về ngôn ngữ
hoặc trong các sách, báo pháp lý.
Theo từ điển tiếng việt thì thu hồi được hiểu như sau: “Thu hồi là thu về, lấy
lại cái trước đó đã đưa ra,đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác”. 1
Giáo trình luật đất đai năm 2005 – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Công an Nhân dân tại trang 192 đưa ra định nghĩa về thu hồi đất: “Thu hồi đất là
văn bản hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt một
quan hệ pháp luật đất đai để phục vụ lợi ích của nhà nước của xã hội hoặc xử lý
hành chính hành vi vi phạm luật đất đai của người sử dụng đất”.
Theo từ điển giải thích luật học thu hồi đất được hiểu là: “Thu hồi đất là việc
cơ quan Nhà nước có thầm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy
định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ
sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất
1

Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội 2011, trang 759

9


đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”.2
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được Luật Đất đai

năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu
lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức,Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn quản lý theo quy định của luật này”3. Tuy nhiên khái niệm này
chưa thể hiện được sự bao quát được nguồn gốc của tất cả các loại đất của những
người đang sử dụng đất, cũng như chưa tính hết được các nguyên nhân, lý do của
việc thu hồi đất. Để phù hợp hơn, tại khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy
định: “ Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất
của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
Với khái niệm này cho thấy, bằng quyền lực của Nhà nước với vai trò chủ sở
hữu, Nhà nước có quyền thu lại quyền sử dụng đất của tất cả các chủ thể sử dụng
đất mà trước đó Nhà nước đã trao quyền sử dụng đất cho họ như: giao đất, cho thuê
đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác, hay được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính pháp chế, sự
nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật đất đai, Nhà nước có quyền chấm dứt
quyền sử dụng đất đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Nhằm nhận diện rõ hơn vấn đề thu hồi đất, có thể tìm hiểu qua những đặc
điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất là một biện pháp pháp lý làm chấm dứt mối quan hệ
pháp luật đất đai, được thể hiện dưới hình thức là một quyết định hành chính của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về giao đất cho thuê đất. Đây là quyết định thể hiện
quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai quy định. Theo khoản 4 Điều 13 Luật Đất đai
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân 1999, trang 132.
3
Luật đất đai năm 2003, Khoản 5 Điều 4 .
2

10



năm 2013 thì một trong những quyền của Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ
sở hữu về đất đai là quyết định thu hồi đất, trưng dụng. Vì vậy, thu hồi đất do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực Nhà nước hay
còn gọi là quyền lực công.
Thứ hai, Nhà nước thu hồi đất thông qua một quyết định hành chính của một
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tên gọi là quyết định thu hồi đất. Trong đó thể
hiện rõ, chi tiết những vấn đề về chủ thể, loại đất bị thu hồi, lý do đất bị thu hồi,
diện tích đất bị thu hồi...Cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải là cơ quan có thẩm
quyền theo luật định tại Điều 66 Luật Đất đai 2013. Quyết định hành chính của cơ
quan này là căn cứ pháp lý để chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai giữa Nhà nước
và chủ thể sử dụng đất.
Thứ ba, Nhà nước thu hồi đất không những chấm dứt quyền sử dụng đất của
cá nhân, tổ chức mà còn gây ra những hậu quả to lớn phải giải quyết; chủ thể bị thu
hồi đất bị thiệt hại về lợi ích như mất chỗ ở, mất đất canh tác, bị thiệt hại về cây cối,
hoa màu, nhà cửa bị phá hủy và những tài sản khác, họ phải di chuyển đi chỗ khác
để Nhà nước hoặc chủ đầu tư lấy lại mặt bằng sử dụng, cuộc sống bị đảo lộn. Từ đó
kéo theo những hệ lụy khác về trật tự xã hội.
Thứ tư, việc thu hồi đất phải xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và xã hội hoặc là
biện pháp chế tài nhằm xử lý các vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất.
Điều này có nghĩa Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Mặt khác, Nhà nước còn
thu hồi đất khi phát hiện có các vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất.
Đây là các trường hợp không tuân thủ các quy định của Nhà nước về quản lý và sử
dụng đất, vi phạm với quy mô và mức độ nghiêm trọng dẫn tới hậu quả Nhà nước
phải tước đi quyền sử dụng đất của họ, đây là biện pháp cần thiết để chấm dứt sự vi
phạm của người sử dụng đất và lập lại kỷ cương trong việc quản lý đất đai của Nhà
nước.

11



Như vậy thu hồi đất là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm
phục vụ nhu cầu, lợi ích của Nhà nước và xã hội hoặc xử lý các vi phạm về pháp
luật đất đai của người sử dụng đất thông qua quyết định hành chính nhằm chấm dứt
mối quan hệ đất đai giữa Nhà nước và chủ thể bị thu hồi đất.
1.1.2. Những tác động và ảnh hưởng của việc thu hồi đất
Thu hồi đất được xác định là một trong những nội dung quan trọng của hoạt
động quản lý Nhà nước về đất đai. Hoạt động này luôn được ghi nhận và thường
xuyên sửa đổi, bổ sung và quy định mới cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc
sống, với thực tiễn quản lý Nhà nước về đất đai. Ở khía cạnh này, hoạt động thu hồi
đất được xem như là hoạt động tích cực và cần thiết phải làm của Nhà nước nhằm
để phân bổ và điều chỉnh đất đai hợp lý, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nhận
thấy qua các tác động và ảnh hưởng tích cực của hoạt động thu hồi đất ở những
phương diện sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu Nhà nước phải dành
một quỹ đất để xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật; xây dựng các khu công nghiệp,
khu kinh tế, khu công nghệ cao. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong
giai đoạn sau”4. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện
đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đi đôi với cải cách thể chế chính trị...
Do vậy, việc chuyển một phần đất đang sử dụng sang sử dụng vào mục đích khác là
điều không tránh khỏi. Để có thể điều chỉnh đưa một phần đất thích hợp sang sử
4


Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Công an nhân dân, trang 31.

12


dụng cho các yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước cần thiết
phải thực hiện việc thu hồi đất của người đang sử dụng đất, vì việc tăng loại đất này
thì đồng nghĩa với việc phải giảm loại đất khác, bởi quỹ đất quốc gia là có giới hạn.
Thứ hai, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, quá trình đô thị hóa ngày càng được
thúc đẩy, đặt ra yêu cầu Nhà nước phải xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hệ
thống hạ tầng xã hội nhằm cải thiện, nâng cao đời sống của người dân. Điều này
dẫn đến việc Nhà nước phải thu hồi đất đang sử dụng để chuyển sang mục đích
khác, trong đó phần lớn đất thu hồi là đất nông nghiệp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc
thu hồi đất phải được tính toán một cách khoa học và dựa trên cơ sở quy hoạch,
đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội, giữa phát triển công
nghiệp, dịch vụ với bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và sự phát triển bền vững
đất nước.
Thứ ba, việc thu hồi đất còn do nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp nhằm mục đích sử dụng đất hiệu quả hơn. Trên thực tế, có những trường
hợp chủ sử dụng để đất nông nghiệp hoang hóa, không khai thác được giá trị sử
dụng của đất, hoặc là cho người khác thuê để sử dụng vào mục đích khác, hoặc bản
thân diện tích đất nông nghiệp đó không còn đáp ứng được yêu cầu về mặt hóa, lý
cho mục đích trồng trọt, ví dụ đất có độ dốc cao, bạc màu, cằn cỗi,… Trong khi đó,
việc chuyển đất nông nghiệp thành đất đô thị làm cho giá trị một đơn vị diện tích đất
tăng lên. Để đảm bảo hiệu quả cho việc sử dụng đất, cũng như quyền lợi của chủ thể sử
dụng đất, việc quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp cần phải được
đặt ra.
Khách quan có thể khẳng định rằng, việc thu hồi đất do nhu cầu của Nhà
nước sẽ là hợp lí, hợp quy luật và chính đáng nếu đất đó được khai thác và sử dụng
có hiệu quả cho các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng và vì mục tiêu phát triển kinh tế. Việc thu hồi đất cũng sẽ là tất yếu và nhận
được sự đồng lòng, nhất trí cao của người có đất bị thu hồi nếu đất đó được sử dụng
đích thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước và đi kèm với đó là

13


chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi một cách thỏa
đáng, hơn thế nữa là sự bố trí việc làm gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
một cách hợp lí, cân bằng.
Tuy nhiên, xét ở cả khía cạnh lý luận và thực tế, thu hồi đất cũng gây nên
những tác động, ảnh hưởng lớn tới đời sống, việc làm và những quyền lợi khác của
người có đất bị thu hồi. Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là môi trường sống của
người dân. Do đó mất đất, đồng nghĩa với mất chỗ ở, mất nơi tổ chức hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nói cách khác, việc thu hồi đất của Nhà nước đã ảnh hưởng bất lợi
đến người dân bị mất đất. Có thể nhận thấy rõ trên các phương diện sau đây:
Thứ nhất, người có đất bị thu hồi sẽ mất chỗ ở
Chỗ ở của người dân không chỉ đơn thuần là nơi họ ăn, ngủ mà còn gắn với
tài sản, môi trường, các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa đã gắn họ với địa bàn
đó. Khi thu hồi đất, Nhà nước không chỉ thu hồi quyền sử dụng diện tích đất, mà
còn tước đi của họ cơ hội tiếp nối cuộc sống quen thuộc của họ, buộc họ phải
chuyển sang một địa bàn mới với các quan hệ và cơ hội không giống trước. Đối với
những người khó thích nghi với điều kiện mới, nhất là đối với nông dân đã trên 40
tuổi, đối với những người gắn với làng nghề truyền thống thì việc di dời là một biến
cố nặng nề. Nhiều người chưa được chuẩn bị sẵn cho việc di chuyển như vậy nên
tương lai của họ sẽ khó khăn hơn. Hơn nữa, khi chuyển nhà, các chi phí phát sinh
do cần xây dựng lại nhà cửa, vườn tược, tạo dựng hạ tầng sinh hoạt, dịch vụ
chung... khá lớn, nếu không có sự hỗ trợ bên ngoài, nhiều người dân mất đất không
thể tự giải quyết được. Đặc biệt, khi di dời bất đắc dĩ chỗ ở do đất bị thu hồi, nhiều
người dân có tâm lý không thoải mái, tâm lý bị thua thiệt. Nếu không có sự đả

thông tư tưởng và một số hình thức bồi thường thích hợp, những người dân mất chỗ
ở có thể bị kích động, phản ứng tiêu cực với chính sách thu hồi đất của Nhà nước.
Thứ hai, người có đất bị thu hồi mất tư liệu sản xuất
Đất bị thu hồi là đất nông nghiệp hay phi nông nghiệp đều là tư liệu sản xuất
quan trọng của người sử dụng đất cũ. Khi Nhà nước thu hồi có bồi thường bằng
diện tích đất khác đi chăng nữa cũng làm cho người bị mất đất thua thiệt trên các

14


phương diện: mất địa thế của địa điểm đã quen dùng; mất một phần thành quả đầu
tư vào đất. Chính vì vậy, người sử dụng đất không muốn giao đất cho Nhà nước nếu
không được bồi thường xứng đáng.
Ngay cả khi Nhà nước bồi thường xứng đáng bằng tiền cho người có đất bị
thu hồi thì họ cũng mất việc làm do không còn địa bàn. Nếu Nhà nước bồi thường
cho họ một diện tích đất ở nơi khác thì họ cũng mất chi phí xây dựng lại từ đầu hoạt
động sản xuất kinh doanh với nhiều điểm bất lợi hơn trước.
Thứ ba, người có đất bị thu hồi bất ổn định về tâm lý, tình cảm, nếp sống và
sinh hoạt
Thu hồi đất thì người dân phải di chuyển và thay đổi cuộc sống của họ, cắt
bỏ các quan hệ cũ và tạo lập các quan hệ mới. Theo đó, mỗi thành viên trong gia
đình có sự ràng buộc mới với môi trường xã hội xung quanh. Đối với một dân tộc
xem “an cư” đi kèm với “lạc nghiệp” trong đời sống thì nhà ở có một tầm quan
trọng không thể phủ nhận. Để thực hiện tốt công tác thu hồi đất và bố trí tái định cư
thì vấn đề tâm lý và tập quán dân cư không thể bị xem nhẹ. Đối với những người
dân, đặc biệt là người dân sống ở vùng nông thôn, ngôi nhà không chỉ là nơi ở mà
còn là nơi hội họp gia đình, dòng tộc vào những dịp đám, lễ quan trọng. Nơi định cư
- quê nhà là nơi có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường sống xung quanh, tình làng
nghĩa xóm luôn luôn được chú trọng, đời sống chịu nhiều sự tương tác qua lại với
những người xung quanh. Thông thường họ sống chủ yếu bằng nghề nông nên đa số

là ngôi nhà gắn liền với mảnh vườn, thửa ruộng để tiện việc chăm sóc. Hơn nữa,
nhà ở thường gắn liền với thiên nhiên, cây cỏ theo kiểu “trước cau, sau chuối”.
Những vấn đề kể trên là lối sống, là thói quen ăn sâu trong một thời gian dài do đó
không thể thay đổi trong một thời gian ngắn. Vì vậy, khi bị thu hồi đất người dân sẽ
có tâm lý bất ổn và lo lắng.
Sự mất mát, thua thiệt, tâm lý lo sợ tương lai không rõ ràng khiến nhiều
người tìm mọi cách để không phải giao đất cho Nhà nước, từ vận động hành lang
quy hoạch đến chây ì, phản đối tập thể... Muốn thu hồi đất hiệu quả, Nhà nước phải
có phương án giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn này.

15


Thứ tư, người có đất bị thu hồi thường bức xúc vì phân chia lợi ích không
công bằng
Do chuyển mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất thu
hồi sẽ làm cho một số chủ thể kinh tế có lợi ích tăng lên (ví dụ như doanh nghiệp
nhận đất xây khu đô thị, người có đất hai bên đường mới làm...) đi đôi với thua thiệt
trông thấy của người mất đất dẫn đến các xung đột lợi ích gay gắt. Người mất đất sẽ
càng cảm thấy mình bị đối xử bất công hơn khi hàng xóm của mình giàu lên không
nhờ công sức của họ mà nhờ đất của mình bỏ ra làm đường, hoặc sẽ phẫn nộ khi giá
bồi thường cho họ thấp hơn nhiều giá đất doanh nghiệp bán cho họ...
Công tác tái định cư khó khăn cũng làm cho người dân bị mất đất thua thiệt.
Do nhiều địa phương thiếu quỹ đất nông nghiệp để bồi thường thích đáng cho nông
dân, nên nhiều nông dân, sau khi nhận tiền bồi thường, đã không có công ăn việc
làm, không có kinh nghiệm kinh doanh nên tiền bồi thường nhanh chóng tiêu hao.
Nơi ở mới nhiều khi không được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện làm cho cuộc
sống của họ càng khó khăn hơn. Chính vì thế, nhiều người dân mất đất, hoặc rơi vào
nghèo khó, hoặc rơi vào tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cho chính họ và cho xã
hội.

Ngoài ra, việc thu hồi đất không chỉ gây tác động bất lợi cho người mất đất
mà còn tạo thêm sức ép cho Nhà nước về phương diện tài chính, quản lý và điều
hành. Chính vì thu hồi đất có nhiều tác động không mong muốn như vậy nên Nhà
nước, một mặt phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý, dài hạn, ổn định,
nhằm hạn chế xáo trộn; mặt khác, phải xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đối với người dân bị mất đất một cách hợp lý.

16


1.1.3. Khái niệm về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Trong quan hệ về thu hồi đất, mối quan hệ được thiết lập giữa một bên là
Nhà nước, một bên là người có đất bị thu hồi, ở mối quan hệ này, Nhà nước với tư
cách là đại diện chủ sở hữu luôn ở vị thế là bên có quyền, còn người sử dụng đất với
tư cách là bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên, do hệ quả bởi các quyết định
thu hồi đất tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, việc làm, tâm lý của người
dân như đã đề cập ở phần trên nên Nhà nước phải có trách nhiệm bù đắp những
thiệt hại, tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho người có đất bị thu hồi bởi những
thiệt hại đó không do người sử dụng đất gây ra mà do tác động của quyết định thu
hồi đất của Nhà nước. Việc bù đắp này đối với người sử dụng đất của Nhà nước
được biểu hiện dưới dạng "Quyền" - đó là quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền này được thực hiện
trên cơ sở của sự công bằng, minh bạch và khách quan, có cơ chế thiết thực để hiện
thực hóa trên thực tế, người có đất bị thu hồi còn được yêu cầu Nhà nước phải minh
bạch, công khai hóa từ quy trình, thủ tục thu hồi đất, đến cơ sở, căn cứ phê duyệt
phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, nhằm đảm bảo sự công bằng, dân chủ
và chính xác, tuân thủ đúng pháp luật đối với công tác này. Bên cạnh đó, nếu người
có đất bị thu hồi thấy việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà Nhà nước áp dụng cho
mình chưa thỏa đáng, chưa công bằng, thì Nhà nước còn cho phép người có đất bị
thu hồi thực hiện quyền công dân của mình - khiếu nại về quyết định hành chính,

hành vi hành chính mà mình cho rằng không thỏa đáng, hoặc được tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình
thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Tại khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Bồi thường về đất là
việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho
người sử dụng đất”.
Từ trên ta có thể thấy bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có những đặc trưng
cơ bản sau:
Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất của người dân làm ảnh hưởng và phương
hại đến lợi ích của người sử dụng đất thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường

17


cho họ. Đây là một trong những bảo đảm quan trọng nhất của Nhà nước đối với
người sử dụng đất. Trách nhiệm này được quy định trong Luật Đất đai.
Thứ hai, bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa một
bên là Nhà nước với bên kia là người chịu tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do
hành vi thu hồi đất gây ra. Vấn đề bồi thường chỉ đặt ra khi lý do thu hồi đất không
xuất phát từ lỗi của người sử dụng đất. Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng. Trong trường hợp thu hồi đất này không xuất phát từ lỗi của người
sử dụng đất, ngược lại việc nhường đất cho các dự án đã thể hiện sự góp sức vào
công cuộc xây dựng đất nước. Vấn đề bồi thường cũng đặt ra đối với trường hợp
thu hồi đất có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. Ngược lại trong trường hợp thu
hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai, người sử dụng đất có lỗi làm giảm khả năng sử
dụng đất hoặc hủy hoại đất, Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai sẽ thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm và có các chế tài phạt vi
phạm để răn đe.
Thứ ba, Bồi thường chỉ được thực hiện khi người sử dụng đất đáp ứng đủ điều

kiện do Pháp luật quy định. Các điều kiện đó chính là phải có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hoặc có giấy tờ về quyền sử dụng đất được Luật đất đai quy
định.
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể hiểu bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là trách nhiệm của Nhà nước trong việc bù đắp những thiệt hại, tổn thất gây ra
từ việc thu hồi đất của người sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
1.1.4. Ý nghĩa của việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho các mục đích quốc phòng, an ninh,
phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là việc phải làm trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự tất yếu ấy chỉ có thể

18


đặt ra và đạt được theo đúng mục tiêu và ý đồ của Nhà nước nếu công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hợp lý, công bằng và hướng tới quyền lợi
của người bị thu hồi đất. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu trong việc ổn định cuộc
sống, an dân. Bồi thường cũng được hiểu là nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bù
đắp những tổn hại vật chất đối với người sử dụng đất bị thu hồi mà nguyên nhân từ
quyết định hành chính về thu hồi đất của Nhà nước. Theo đó, nếu việc bồi thường
của Nhà nước được thực hiện đúng, đầy đủ và hợp lý, công bằng, thỏa đáng, bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất có những ý nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, việc giải quyết tốt vấn đề bồi thường là thực hiện tốt chính sách an
dân để phát triển kinh tế xã hội, góp phần vào việc duy trì, củng cố sự ổn định về
chính trị , củng cố niềm tin của người dân bị thu hồi đất vào đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng thời loại trừ cơ hội để kẻ xấu lợi
dụng tuyên truyền, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện.
Thứ hai, Đảm bảo lợi ích và bù đắp những thiệt hại của người dân, nhanh

chóng giúp họ ổn định cuộc sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
người bị thu hồi đất
Thứ ba, đảm bảo lợi ích giữa ba bên là Nhà nước, người bị thu hồi đất và
người nhận quyền sử dụng đất thu hồi trong quá trình thực hiện bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất.
Thứ tư, thông qua thực tiễn nâng cao được kiến thức hiểu biết, năng lực cũng
như kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường.
Thứ năm, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị theo
hướng hiện đại hóa.

19


×