Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.01 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU HÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Hành chính Nhà nước
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Hồng Anh

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.

XÁC NHẬN CỦA

TÁC GIẢ


GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

PGS. TS. VŨ HỒNG ANH

TRẦN THỊ THU HÀ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ, VĂN HÓA,
XÃ HỘI ................................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội .......................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ........................................................................... 7
1.1.2. Nội dung của thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội ....................................................................................... 12
1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội................................................................................................ 20
1.3. Các yếu tố đảm bảo thực hiện về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội................................................................................................ 23
1.3.1. Yếu tố pháp luật ........................................................................................ 23
1.3.2. Yếu tố chính trị.......................................................................................... 26
1.3.3. Yếu tố kinh tế ............................................................................................ 26
1.3.4. Yếu tố văn hóa – xã hội............................................................................. 27
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................................... 29
2.1. Quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về quyền bình đẳng giới

trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội qua các bản Hiến pháp .......................... 29
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, lao động .......................................................................................................... 36
2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế .................................................................................................................. 36


2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực lao
động, việc làm ..................................................................................................... 42
2.3. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực văn hóa, giáo dục .................................................................................. 46
2.3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
Giáo dục – đào tạo............................................................................................... 46
2.3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, khoa học công nghệ .................................. 49
2.4. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực xã hội ..................................................................................................... 53
2.4.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế .......................................................................................................................... 53
2.4.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình ........................................................................................... 56
2.5. Nguyên nhân gây của những bất cập và hạn chế trong việc thực hiện pháp
luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội................. 61
CHƯƠNG 3 QUAN ĐỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ,
VĂN HÓA, XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ................................................................ 65
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội ....................................................................................... 65
3.1.1. Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội cần bảo đảm thực hiện đầy đủ nguyên tắc hiến định về quyền con

người, quyền công dân ........................................................................................ 66
3.1.2. Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội cần bảo đảm nguyên tắc Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt 66
3.1.3. Thực hiện pháp luật về quyền bình đằng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội cần bảo đảm góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh ..................................................................................................................... 67


3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội ................................................................................ 68
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội ....................................................................................... 68
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật, pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
trong nhân dân ..................................................................................................... 75
3.2.3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới nói chung, pháp luật về quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nói riêng ................................................ 78
3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội ........................................................................................................... 79
3.2.5. Tăng cường bảo đảm kinh phí cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về
quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ............................ 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 83


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến bình đẳng giới về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về quyền của

phụ nữ với nam giới. Cốt lõi của vấn đề quyền con người của phụ nữ chính là sự
bình đẳng về vị thế, cơ hội và các quyền của phụ nữ với nam giới. Đấu tranh cho
bình đẳng giới cũng chính là đấu tranh cho các quyền của con người của phụ
nữa là ngược lại. Trên phương diện pháp lý quốc tế, nhiều công ước quốc tế về
bảo vệ phụ nữ ra đời và ghi nhận, nhưng toàn diện hơn hết là Tuyên bố về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ của Liên hợp quốc thông
qua vào năm 1976 đã làm nền tảng cho sự ra đời của Công ước về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 18 tháng 12
năm 1979.
Hòa vào xu hướng chung của thế giới, Việt Nam đã và đang cam kết rất
mạnh mẽ trong việc bảo đảm bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về mọi mặt.
Báo cáo Phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP) năm 2006 cho thấy, mức độ bình đẳng giới tại Việt Nam xếp thứ 11
trên thế giới. Chỉ số này thậm chí cao hơn nước có nền kinh tế phát triển hàng
đầu thế giới là Anh một bậc.Theo báo cáo Khoảng cách giới tính toàn cầu năm
2007 mà Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, xét trong khu vực ASEAN
và Đông Á, Việt Nam đứng ở ngôi vị thứ hai về mức độ bình đẳng giới. Ngay
trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam – Hiến pháp 1946 khẳng định:
“Tất cả quyền lực trong nước của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”1 và “đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện”2. Từ đó, “bình đẳng” trở thành một trong những
nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các Hiến pháp về sau (Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam) và đặc biệt Hiến pháp
1
2

Điều 1 Hiến pháp 1946
Điều 9 Hiến pháp 1946



2

mới nhất 2013 đã quy định sự bình đẳng nam – nữ một cách toàn diện, tổng quát
và tiến bộ hơn.
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 1/7/ 2007 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc thể chế
hóa vấn đề BĐG ở Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2351/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020. Chiến lược có mục tiêu tổng quát
là: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về
cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.
Đất nước muốn phát triển bền vững thì quyền con người phải được đảm
bảo, quyền lợi của phụ nữ càng phải cần được chú trọng, trước hết là các quyền
và tự do cơ bản thiết yếu như: giáo dục, lao động, sức khỏe,… Nhà nước ta đã
ban hành nhiều quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng chống hành vi xâm phạm đến quyền bình
đẳng giới, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập và giữa quy định của
pháp luật với việc thực thi vẫn là một khoảng cách khá xa. Vì vậy, việc nghiên
cứu, tìm hiểu các quy định về bình đẳng giới không chỉ là yêu cầu của các nhà
nghiên cứu khoa học mà còn là nhu cầu thiết thực của từng công dân trong xã
hội. Với ý nghĩa đó, nhằm góp phần giúp mọi đối tượng có cái nhìn bao quát,
toàn diện về quyền bình đẳng giới cũng như pháp luật bình đẳng giới, tác giả
chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội.”
Với đề tài này tác giả muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào việc
hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và
hy vọng góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã



3

hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận về bình
đẳng giới và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; phân tích thực trạng thực
hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những thành tựu,
những hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới và
những nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm đề xuất kiến nghị hoàn thiện
thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bình đằng giới và thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đã công bố một số công trình nghiên cứu về
những vấn đề lí luận nền tảng và những khía cạnh riêng lẻ của đề tài này. Trong
số các công trình đó phải kể đến: Hà Thị Hoa Phượng, Pháp luật lao động Việt
Nam với vấn đề bình đẳng giới, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà
Nội, 2010; Nguyễn Thị Anh Hoa, Pháp luật lao động Việt Nam về vấn đề bình
đẳng giới và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường đại học Luật Hà Nội, 2012; Lê Thị Dung, Công ước về phân biệt
đối xử trong việc làm và nghề nghiệp và sự nội luật hóa trong pháp luật lao
động Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội, 2011; Vũ

Thị Thu Huyền, Bình đẳng giới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo pháp
luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội, 2011; TS.


4

Nguyễn Thị Hồi, Vấn đề bình đẳng giới trên thế giới, Đặc sản về bình đẳng
giới, năm 2005; ThS. Nguyễn Thanh Tâm, Quan niệm về bình đẳng giới, Đặc
sản về bình đẳng giới, năm 2005; TS. Lê Thị Sơn, Hội thảo quốc gia: Chính
sách pháp luật về bình đẳng giới, Đặc sản về bình đẳng giới, năm 2005…
Những công trình kể trên có thể đã đề cập đến ở phương diện lí luận hoặc
đánh giá thực tiễn về vấn đề bình đẳng giới từ một số góc độ, đó chính là tư liệu
vật chất cần thiết và quan trọng giúp cho học viên triển khai nghiên cứu đề tài
luận văn. Song, kết quả nghiên cứu phần lớn chỉ dừng lại ở một số phạm vi hẹp
theo lĩnh vực chuyên ngành (ví dụ như: lĩnh vực Lao động, hay lĩnh vực Hôn
nhân gia đình); hoặc các công trình nghiên cứu ở phạm vi quá rộng, chung
chung (ví dụ như: bình đẳng giới ở thế giới, hay chính sách pháp luật về bình
đẳng giới…) mà chưa có một công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện, lại chuyên sâu, cụ thể về vấn đề thực hiện
pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội – dưới
góc độ Luật Hiến pháp. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã có,
luận văn đi sâu tìm hiểu một cách toàn diện, chi tiết về thực hiện pháp luật về
quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội theo pháp luật Việt
Nam hiện hành.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là pháp luật về quyền bình đẳng giới
và thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam dưới góc độ quyền con
người; nghiên cứu và phân tích những thành tựu và hạn chế trong thực hiện pháp
luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đề


5

xuất quan điểm, giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội dưới hệ quy chiếu chủ yếu là Luật Hiến pháp 2013
và Luật Bình đẳng giới 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Một số các phương pháp nghiên cứu khác:
(i) Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử,
phương pháp thống kê… được sử dụng khi nghiên cứu những vấn đề lí luận về
bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
(ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh luật học, phương pháp
đối chiếu, phương pháp khảo sát…được sử dụng trong nghiên cứu, đánh giá
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật bình đẳng giới Việt Nam hiện hành
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
(iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng
hợp… được sử dụng khi nghiên cứu về các giải pháp hoàn thiện pháp luật bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam và cơ chế bảo đảm
thực hiện trong thực tiễn đời sống.
Ngoài ra, luận văn cũng dựa trên các quan điểm, định hướng của Đảng và
Nhà nước về chính sách kinh tế - xã hội, bảo vệ và phát triển con người.

6. Những đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung làm phong phú
thêm lý luận về thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới dưới góc độ quyền
con người ở nước ta; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính sách,
pháp luật về thực hiện quyền bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, luận
văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu,


6

giảng dạy pháp luật về quyền bình đẳng giới, quyền con người, quyền công dân
trong các cơ sở đào tạo luật học trên phạm vi cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về quyền bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Chương 3. Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền
bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội


7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ,
VĂN HÓA, XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của thực hiện pháp luật về quyền

bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
1.1.1.1. Khái niệm
Để có thể định nghĩa thế nào thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, thì cần phải hiểu khái niệm quyền bình
đẳng giới nói chung, mà trước hết là khái niệm về giới, giới tính, bình đẳng giới,
quyền bình đẳng giới, pháp luật về quyền bình đẳng giới.
Giới tính (SEX) là một khái niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ
sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan
đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã
có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang thai và
sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho quá trình
thụ thai. Giới tính, theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật bình đẳng giới 2006
quy định: “chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ”.
Giới (GENDER) là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt
giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và
quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định chon nam giới và phụ nữ. Ví dụ:
Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì
phụ nữ phải làm hầu hết các công việc trong nhà như chăm sóc, nấu ăn phục vụ
chồng con… Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình
và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra,con người chưa có trong bản thân sự


8

phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nề nếp của gia đình, quy
ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hóa. Khái niệm giới được quy định tại
Khoản 1 Điều 5 Luật bình đẳng giới: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam
và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”3

Bình đẳng giới
Bình đẳng giới hiểu theo nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
Phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW): Là tình trạng (điều kiện sống,
sinh hoạt, việc làm…) mà trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như
nhau, họ có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, sử dụng các nguồn lực để mang lại lợi
ích cho mình, phát hiện và phát triển tiềm năng của mỗi giới nhằm cống hiến
cho sự phát triển của quốc gia và được hưởng lợi từ sự phát triển đó.
Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 của nước ta quy định: “Bình đẳng
giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Như vậy, bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được coi là sự bình đẳng về pháp luật, về điều kiện, cơ hội tiếp cận, về tiếng nói,
khả năng tác động, đóng góp cho quá trình phát triển chung của cộng đồng và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển.
Quyền bình đẳng giới
Đây được coi là một trong những quyền cơ bản của con người.
Theo Hiến pháp Việt Nam sửa đổi 2013, trong hệ thống quyền con người,
về cơ bản, quyền bình đẳng giới được hiểu là phụ nữ cũng được hưởng các cơ
hội bình đẳng như nam giới nhưng để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải
được bảo đảm thực hiện các quyền đó. Nói cách khác, họ phải được nâng cao
năng lực tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội;

3

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bình đẳng giới 2006.


9


tham gia vào đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Do đó, quyền bình
đẳng giới là nền tảng, có tính quyết định việc thực hiện những quyền đó.
Như vậy, quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội là
sự bảo đảm giữa nam và nữ giới, trẻ em trai và trẻ em gái đều có cơ hội ngang
bằng về việc phát huy năng lực bản thân, thụ hưởng như nhau về thành quả của
sự phát triển đó trong tất cả các mặt của lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Pháp luật về quyền bình đẳng giới
Được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung được
nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của nhà nước, đảm bảo việc nam,
nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau
về thành quả của sự phát triển đó trên cơ sở giáo dục thiết phục và cưỡng chế.
Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới
Khi các quy phạm pháp luật về quyền bình đẳng giới được ban hành thì
Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích cho phụ nữ. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy
phạm pháp luật về bình đẳng giới do Nhà nước ban hành được các tổ chức và cá
nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ.
Pháp luật về quyền bình đẳng giới được đặt ra là để điều chỉnh hành vi
của con người, nên việc thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới phải thể
hiện ở hành vi pháp luật của con người. Hành vi đó có thể là hành động hoặc
không hành động phù hợp với quy định của pháp luật, nó không trái với pháp
luật, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, luôn phù hợp với các
quy định của pháp luật về quyền bình đẳng giới được quy định trong Hiến pháp
và một số văn bản pháp luật liên quan.
Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới là giai đoạn không thể thiếu
và vô cùng quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Khi thực hiện pháp luật
về quyền bình đẳng giới, một mặt nhằm đạt được những mục đích mà Nhà nước



10

mong muốn. Mặt khác, còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật bình đẳng giới để từ đó có thể đưa ra
những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật về quyền bình đẳng giới hiện hành và cơ chế đưa pháp luật về
quyền bình đẳng giới vào cuộc sống.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa sau: Thực hiện
pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội chính
là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật
bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội bảo đảm nguyên tắc hiến định của Nhà nước.
Nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực
hiện quyền con người, trong đó có quyền bình đẳng giới. Có nghĩa là Nhà nước
phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ
quyền bình đẳng giới; phải ngăn chặn sự vi phạm quyền này, đưa ra những biện
pháp và xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm; đồng
thời Nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi
công dân có thể hưởng thụ đến mức cao nhất có thể về quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việc giới hạn các quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội chỉ có thể quy định bởi luật, đó chính là quá trình hiện thực hóa các quy định
của Hiến pháp - văn bản pháp lý cao nhất về vấn đề bình đẳng giới: Điều 16,
Điều 26 và một số các điều khoản khác.



11

Thứ hai, về mục đích: Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đáp ứng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của phụ nữ trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, phụ nữ cùng được bình đẳng
với nam giới tham gia vào mọi hoạt động của đời sống, đồng thời cùng được
thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ xã hội, đó chính là biểu hiện sinh động
năng lực làm chủ xã hội một lực lượng lao động quan trọng, chiếm hơn một nửa
nhân loại toàn cầu. Chỉ trên cơ sở bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến bộ
và công bằng xã hội được thực hiện.Trên thực tế, thực hiện mục tiêu bình đẳng
giới là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà
nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội.
Ngoài ra, thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa xã hội còn có một số đặc điểm cơ bản:
Về chủ thể: thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội là các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân.
Nhà nước ban hành ra các văn bản pháp luật để bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ trong xã hội, yêu cầu và kiểm soát các cơ quan ban ngành, các tổ
chức có thẩm quyền thực thi sự bảo đảm đó. Mọi người, mọi nhà thực hiện pháp
luật về quyền bình đẳng giới bằng sự am hiểu pháp luật, trên cơ sở sự giám sát
của Nhà nước và ý thức tự nguyện trong mỗi người. Công dân có ý thức tốt
trong việc thực hiện quyền bình đẳng giới thì việc thực hiện quyền bình đẳng
giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn và ngược lại.
Về phạm vi: Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ có phạm vi ở một địa phương hay cấp đơn vị
cụ thể mà là phạm vi trên toàn mọi miền đất nước, nhất là trong điều kiện hiện
nay, khi mà bình đẳng giới đã là vấn đề được quan tâm lớn của toàn nhân loại.



12

1.1.2. Nội dung của thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
1.1.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế
Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế được
tiếp cận dưới hai góc độ chính là: kinh tế và lao động.
* Kinh tế
Trong số những quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế mà Hiến
pháp năm 1992 ghi nhận phải kể đến quyền bình đẳng trong hoạt động kinh
doanh. Đến Hiến pháp 2013 quy định rõ ràng lần nữa là mọi người có quyền
kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Đồng thời, khẳng định
trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị
trường và nguồn lao động đều không có sự phân biệt về giới4. Từ “mọi người”
đã thể hiện quá rõ vấn đề này. Mọi người tức là không phân biệt già trẻ, trai gái,
nam nữ, nếu đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì được quyền tự do kinh
doanh, tất nhiên là đối với những ngành nghề pháp luật không cấm. Ví dụ một
cá nhân muốn thành lập Doanh nghiệp tư nhân thì dù là nam hay nữ, chỉ cần có
đủ các điều kiện về năng lực chủ thể, vốn, phạm vi chịu trách nhiệm…5. Điều đó
đã tạo động lực cho tư nhân vươn lên làm giàu chính đáng, tạo động lực cho
kinh tế đất nước phát triển một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, luật đã quy định khá rõ về nội bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế. Đây là thành công bước đầu cho việc thống nhất nhận thức về bình đẳng
giới, tăng cường hiệu quả cho công tác thực hiện bình đẳng giới. Nhưng để thực
hiện bình đẳng giới trong thực tế và đạt được bình đẳng giới thực chất thì phải
có các biện pháp khả thi và đồng bộ. Vấn đề này đã được nhà nước dự liệu và cụ
thể hoá thành các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong đó quan trọng nhất là


4
5

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bình đẳng giới 2006, Điều 12.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam (2005), Luật Doanh nghiệp, Chương VI.


13

các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - nhóm biện pháp bảo đảm bình đẳng giới
mang tính khẩn cấp. Theo khoản 6 điều 5 Luật bình đẳng giới: “Biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn
giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ
hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa
nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục
đích bình đẳng giới đã đạt được”. Những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
thường được thể hiện thông qua các quy phạm ưu tiên. Sở dĩ pháp luật quy định
những biện pháp này là do mỗi giới có những đặc điểm khác nhau về giới tính
và vai trò xã hội nên phải có sự ưu tiên để mỗi giới tiếp cận, kiểm soát các
nguồn lực. Nhưng cũng không thể duy trì sự ưu tiên này mãi được vì nó sẽ lại
tạo ra khoảng cách giới. Chính vì thế những biện pháp này sẽ chấm dứt ngay khi
mục đích bình đẳng giới đạt được, nó chỉ mang tính tạm thời. Những biện pháp
này phải được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước để trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình phụ nữ và nam giới được nhìn nhận và đánh
giá như nhau. Các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình rất đa dạng, chính vì
thế các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong mỗi lĩnh vực cũng rất khác
nhau. Theo đó, những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế

bao gồm: lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp
luật; được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo luật định.
Những quy định cụ thể về việc ưu đãi thuế, tài chính và chính sách
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã được cụ thể hoá trong các văn bản
luật có liên quan trong từng ngành luật khác nhau như Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, pháp luật liên quan đến chính sách xã hội...
* Lao động


14

Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế cũng
có nghĩa là bảo đảm quyền cho người phụ nữ trong vấn đề lao động, việc làm.
Đây là nội dung không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế đất nước,
dựa trên nguyên tắc chủ đạo của Luật Hiến pháp và được điều chỉnh bởi pháp
luật mà Luật Bình đẳng giới 2006 và Luật Lao động 2012 có vai trò quan trọng.
Đó là công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, nơi làm
việc; được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn, được hưởng
lương và chế độ nghỉ ngơi. Đồng thời, dưới sự bảo hộ của pháp luật, nghiêm
cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới
độ tuổi lao động tối thiểu.
Có thể thấy quy định nêu trên đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo đảm bình
đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong lĩnh vực việc làm có tính đến sự
phù hợp với đặc điểm, điều kiện của lao động nữ. Nguyên tắc này sẽ là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt chế định việc làm.
Trên cơ sở Hiến pháp cũng như các nguyên tắc của Luật bình đẳng giới,
Nhà nước ta đã tạo dựng cơ sở pháp lý về lao động việc làm cho người lao động
nói chung và cho lao động nữ nói riêng ngày càng được hoàn thiện, thể hiện qua
các văn bản pháp lý đã được ban hành, có vai trò to lớn đó là Bộ luật Lao động
2012. Luật Lao động đã coi người lao động nam và lao động nữ có vị trí xã hội

ngang nhau thông qua việc quy định các vấn đề việc làm, học nghề, hợp đồng
lao động, thỏa ước tập thể…tại các chương tương ứng có giá trị áp dụng đối với
mọi lao động làm công ăn lương nói chung. Điều này góp phần xóa bỏ định kiến
coi phụ nữ là người phụ thuộc, là con người của gia đình, bếp núc. Quan trọng
hơn cả, Bộ luật Lao động còn thiết kế một chương riêng – Chương X (từ Điều
109 – Điều 118) gồm những quy định dành riêng cho lao động nữ. Các quy định
này được hình thành dựa trên cách nhìn nhận toàn diện, khách quan về lao động
hai giới. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu về sức khỏe và khả năng chịu đựng của
lao động nữ có nhiều điểm hạn chế hơn so với lao động nam, hơn nữa họ còn


15

phải đảm nhiệm thiên chức cao cả là làm mẹ; bên cạnh đó người lao động nữ
cũng phải làm việc trong các điều kiện khắc nghiệt của cơ chế thị trường… đã
làm yếu đi vị thế và cơ hội việc làm của người lao động nữ trong điều kiện hiện
nay. Những quy định tại Chương X Bộ luật Lao động đã góp phần làm cân bằng
hơn vị thế, cơ hội của người lao động nam, nữ nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới
một cách hiệu quả và bền vững.
Bộ luật Lao động đã tạo điểm nhấn về sự thừa nhận quyền bình đẳng giới
một cách cụ thể và trực tiếp tại Điều 109: “Nhà nước bảo đảm quyền làm việc
của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới…”. Cùng với cụm từ “bình
đẳng” còn có các cụm từ “nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử”, “ưu đãi”, “ưu
tiên”… Bộ luật Lao động đã thể hiện rõ hơn quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực
lao động và chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Để giúp các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ giải quyết những
khó khăn về tài chính, Nhà nước đã quy định một số chính sách ưu đãi như: xét
giảm thuế, ưu tiên sử dụng một phần trong tổng số vốn đầu tư hàng năm của
doanh nghiệp để chi cho việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ
(Khoản 4, Điều 153 Bộ luật Lao động, được hướng dẫn thi hành tại Khoản 1,

Điều 3 và Khoản 2, Điều 11 Nghị định 85/2015/NĐ-CP)
Nhà nước đẩy mạnh việc nghiên cứu những điều kiện lao động có hại và
các công việc không được sử dụng lao động nữ tại Điều 160 Bộ luật Lao động.
Những điều kiện lao động có hại và những công việc không được sử dụng lao
động nữ

6

được quy định không phải hạn chế cơ hội việc làm của phụ nữ hay

phân biệt đối xử về việc làm giữa lao động nữ và nam mà là mục đích nhằm bảo
vệ sức khỏe, tính mạng cho nữ giới.
Pháp luật lao động cũng quy định trong lĩnh vực việc làm không cho phép
người sử dụng lao động được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với lao động nữ vì các lí do: kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con
6

Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội (2013), Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH


16

dưới 12 tháng. Theo quan điểm tiến bộ, hiện đại ngày nay thì nhu cầu chăm sóc
gia đình, con cái không chỉ thuộc về người phụ nữ mà còn thuộc về cả nam giới.
Chính vì vậy, lao động nam và nữ nếu tham gia bảo hiểm xã hội đều có quyền
nghỉ việc, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội để chăm sóc con dưới 7 tuổi ốm đau;
lao động nam cũng có thể nuôi con nuôi sơ sinh và được hưởng trợ cấp bảo hiểm
xã hội thai sản để nuôi con cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi tương tự nữ giới
trong trường hợp này… khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định.7
Như vậy, những quy định trên là cần thiết để bảo vệ phụ nữ khi tham gia

vào các hoạt động kinh tế, lao động với vai trò làm vợ, làm mẹ; đồng thời cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ trong gia đình và xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế.
1.1.2.2. Trong lĩnh vực văn hóa
* Giáo dục – đào tạo
Giáo dục – đào tạo từ lâu đã được toàn Đảng, toàn dân quan tâm. Điều
này được minh chứng rất rõ thông qua việc Đảng và Nhà nước đã thực hiện
trong thời gian qua. “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” được ghi nhận tại
Điều 39, Luật Hiến pháp. Đó như một lời khẳng định hùng hồn về quyền và
nghĩa vụ được học tập của công dân, không phân biệt người lớn hay trẻ nhỏ, phụ
nữ hay đàn ông, trẻ em trai hay trẻ em gái, tất cả mọi người sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam đều có quyền được đến trường và nâng cao trình độ trí lực.
Và để thực hiện quyền bình đẳng giới đó thì pháp luật có quy định cụ thể
các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo như:
quy định tỉ lệ nam nữ tham gia học tập, đào tạo; những lao động nữ ở khu vực
nông thôn được hỗ trợ dạy nghề (nhà ở, chế độ phụ cấp…) (tại Khoản 5, Điều

7

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội 2014.


17

14, Luật bình đẳng giới). Với mục tiêu : “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”

8

quy định tại Khoản 1, Điều 61 Hiến pháp, chúng ta hiểu được tầm quan trọng

của nền giáo dục đối với sự phát triển của dân tộc. Và có làm tốt được việc thực
hiện quyền bình đẳng giới trong hoạt động giáo dục thì nền giáo dục Việt Nam
mới phát triển được một cách toàn diện, có chiều sâu và rộng.
* Văn hóa
Không chỉ riêng nam giới hay riêng bất kì mọi thành phần nào mà là mọi
người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống
văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, đã bao hàm được ý nghĩa về quyền bình
đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa mang lại, nhấn mạnh sự công bằng của phụ nữ
hay nam giới trong việc “hưởng thụ, tiếp cận, tham gia, sử dụng” các giá trị văn
hóa mà Nhà nước, xã hội và cộng đồng đã xây dựng. Cụ thể như các khu vui
chơi, giải trí công cộng, công viên, nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa xã, thư
viện, sân vận động, rạp hát, rạp chiếu phim, điểm internet công cộng,... Nhiều
văn bản pháp luật như: Luật Bình đẳng giới (Điều 16), Luật Di sản văn hóa sửa
đổi 2009… đã cụ thể hóa quyền bình đẳng giới trong hoạt động văn hóa.
* Thông tin, thể dục, thể thao và khoa học công nghệ
Phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ
thông tin và phải tuân theo quy định pháp luật; bình đẳng khi tham gia các hoạt
động văn nghệ, thể dục thể thao; có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ,
sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. Để cụ
thể hóa và làm rõ quy định trên có rất nhiều các văn bản pháp lý liên quan: Luật
Bình đẳng giới (Điều 16), Luật Thể dục thể thao 2006, Luật Xuất bản 2012, Luật
Báo chí 2016…). Đây là bảo đảm pháp lý cao nhất cho phụ nữ được hưởng thụ
những thành quả tốt nhất của sự phát triển khoa học kỹ thuật, thông tin, thể thao,

Phạm Văn Đồng, “Đảng Cộng sản Việt Nam – 80 năm xây dựng và phát triển”, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, tại địa chỉ: ngày truy cập: 31/5/2016.

8



18

nghệ thuật của đất nước, điều này vô cùng cần thiết cho sự phát triển của phụ nữ
trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa ngày nay.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị trong
đó có Nghị quyết 153 về công tác cán bộ nữ năm 1967, Nghị quyết 04 năm
1993, Nghị quyết 11 năm 2007 trong đó khẳng định việc tạo điều kiện, bồi
dưỡng, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật.
Chỉ thị 37/1994 nêu rõ: “Đặc biệt chú ý chính sách khuyến khích tài năng phụ
nữ trong các trường học, trong mọi lĩnh vực hoạt động. Những nữ khoa học có
tài, những cán bộ nữ quản lý giỏi cần được khuyến khích sử dụng, khi cần thiết
có thể nghỉ hưu ở tuổi 60 như nam giới” 9.
1.1.2.3. Trong lĩnh vực xã hội
* Y tế
Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong
việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng
bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Và nếu có bị xâm hại tới quyền lợi đó thì sẽ bị
pháp luật xử phạt.
Điều 17 Luật Bình đẳng giới đã khẳng định mọi công dân không phân biệt
phụ nữ hay nam giới đều bình đẳng về quyền được chăm sóc sức khỏe, sử dụng
các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó, nam, nữ còn bình đẳng trong việc lựa chọn và
quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục... Đặc biệt,
phụ nữ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số
được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.10
Ngoài các quy định trên, Nhà nước đã ban hành và sửa đổi bổ sung nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giới
9

Ban Bí thư Trung ương Đảng (1994), Chỉ thị số 37/CT-TƯ ngày 16/5/1994 về một số vấn đề công tác cán bộ


nữ trong tình hình mới.
10

Chính phủ (2015), Nghị định 39/2015/NĐ-CP ngày 27/4/2015 về quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc
hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.


19

thực chất giữa phụ nữ và nam giới trong hoạt động chăm sóc sức khỏe. Cụ thể
như Luật phòng, chống những vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006, phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm
HIV sẽ được miễn phí, phụ nữ nhiễm HIV được tư vấn về phòng, chống AIDS
và tạo điều kiện tiếp cận với các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang
con.
* Gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường đầu tiên cho việc hình thành nhân cách của mỗi công dân. Trước khi cá
nhân được hưởng sự bình đẳng từ xã hội thì phải được hưởng sự bình đẳng trước
tiên từ gia đình. Trong những năm gần đây, vị trí, vai trò của gia đình trong nuôi
dạy và phát triển các thế hệ người Việt Nam tương lai được đặc biệt chú trọng.
Chủ trương đó đã được thể hiện trong một số văn bản quan trọng như: Luật Hiến
pháp quy định vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ quyền
lợi của người mẹ và trẻ em (Điều 36), thực hiện kế hoạch hóa gia đình (Khoản 2
Điều 58). Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Pháp lệnh Dân số 2003, đặc biệt
Luật Bình đẳng giới 2006 đã tiếp tục thể chế hoá điều này. Với sự bình đẳng
như nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn biện pháp kế hoạch hóa gia
đình phù hợp; có trách nhiệm chia sẻ và gánh vác công việc gia đình; và giới
tính con cái cũng không ảnh hưởng tới việc chăm sóc, giáo dục chúng… thì tin
chắc rằng, tiếng nói và vị thế của người phụ nữ trong gia đình sẽ ngày càng được

nâng cao.
Tháng 8/2002, Quốc hội ra quyết định thành lập Uỷ ban dân số, gia đình
và trẻ em. Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định rõ trách nhiệm của nhà nước và các
cơ quan, các tổ chức xã hội trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, xây
dựng gia đình hạnh phúc, nuôi con tốt; Giải quyết các bất hoà trong gia đình và
cộng đồng, ngăn chặn hành vi bạo lực, thiếu văn hoá, nhất là vời người già, phụ


20

nữ và trẻ em; Trang bị các kỹ năng ứng xử tiến bộ, lành mạnh cho các thành
viên trong gia đình; Phát hiện và động viên các gia đình kiểu mẫu và phê phán
các gia đình thiếu trách nhiệm đối với các thành viên trong gia đình và xã hội.
Nghị Định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số quy định nghiêm cấm các hành vi lựa
chọn giới tính thai nhi (Điều 10). Tháng 5/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định lấy ngày 28/6 làm “Ngày gia đình Việt Nam”.
1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Nói đến bình đẳng giới về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về quyền của
phụ nữ với nam giới, do đó thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội không ngoài mục tiêu tạo ra sự bình đẳng về
điều kiện, cơ hội và thụ hưởng như nhau về các quyền của phụ nữ với nam giới
trong các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội (kinh doanh sản xuất,
lao động, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật...).
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội là tiền đề bảo đảm quyền con người cơ bản. Đây là cách để
thực hiện quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước,
đồng thời là đảm bảo về cơ hội thụ hưởng những quyền này của con người,

chống lại sự hạn chế, tước đoạt chúng vì lý do bất bình đẳng giới.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội ghi nhận và củng cố thành quả của cuộc cách mạng nữ quyền
trên thế giới cũng như Việt Nam.
Sự tồn tại trong xã hội về định kiến giới, trọng nam hơn nữ trải qua thời
kỳ lịch sử lâu dài của nhân loại đã khiến cho phụ nữ luôn bị hạn chế về quyền so
với nam giới đã thúc đẩy cách mạng nữ quyền trên thế giới bùng nổ. Bên cạnh
việc đòi quyền bỏ phiếu và nắm giữ các chức vụ công quyền, những người biểu
tình còn đòi quyền làm việc cho phụ nữ, quyền được đào tạo, xóa bỏ phân biệt


×